Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Đổi mới cách ra đề theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.68 KB, 35 trang )

PHẦN MỘT: MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây, xu thế chung của giáo dục Việt Nam là
chuyển từ dạy học tập trung vào mục tiêu, nội dung chương trình sang tập
trung vào việc tổ chức quá trình dạy và học nhằm hình thành năng lực cho
học sinh. Mục đích dạy không quá xem trọng các tri thức mà xem trọng
phương pháp, hình thức tổ chức dạy và học. Người dạy phải biết cách tạo
tình huống, tạo môi trường tương tác thân thiện tích cực, giúp mọi học sinh
đều có cơ hội bày tỏ quan điểm cá nhân, tranh luận, phản biện… nhờ đó
tích cực hóa học sinh, nuôi dưỡng hứng thú, tự tin của các em. Vì vậy, một
trong những điều quan trọng nhất trong quá trình dạy học trên lớp chính là
phương pháp đánh giá của người giáo viên, làm sao tích cực hóa được học
sinh, không phải là giúp các em học thuộc mà là tư duy: tư duy phản biện,
tư duy sáng tạo…giải quyết vấn đề.
Chúng ta đang nghiên cứu và đổi mới chương trình giáo dục phổ
thông, trong đó có chương trình môn Ngữ văn theo hướng tiếp cận năng
lực. Việt Nam cũng đã tham gia Chương trình đánh giá học sinh quốc tế
(PISA) và đạt được kết quả hết sức khả quan, nhất là ở lĩnh vực đọc hiểu.
Trên thực tế, năng lực Ngữ văn của học sinh phong phú hơn nhiều so
với những “chuẩn” nêu ở trong chương trình hiện hành. Vì vậy, không cần
phải đợi đến khi có chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn theo
hướng tiếp cận năng lực ra đời mới đổi mới kiểm tra đánh giá chất lượng
học tập Ngữ văn của học sinh theo hướng đánh giá năng lực. Ngay từ bây
giờ cũng có thể đổi mới dần việc kiểm tra đánh giá theo hướng này để phát
huy được vai trò của kiểm tra đánh giá trong quá trình dạy học.
Tuy nhiên, thời gian vừa qua, việc kiểm tra đánh giá chất lượng học
tập môn Ngữ văn ở bậc trung học phổ thông có nhiều bất cập, chưa “đo”
được năng lực của người học và chưa góp phần điều chỉnh, đổi mới phương
pháp dạy học. Các đề kiểm tra thường xuyên, đề kiểm tra định kì, đề thi tốt
1



nghiệp và tuyển sinh vào đại học, cao đẳng hầu như được ra theo dạng “đề
đóng”, tính tích hợp (giữa các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học và
liên môn) chưa cao. Các câu hỏi chủ yếu đánh giá học sinh ở hai mức nhận
biết và thông hiểu. Phần lớn nội dung các đề thi kiểm tra kiến thức về văn
học, về chính những văn bản đã học trong chương trình và sách giáo khoa.
Để làm bài, học sinh thường phải ghi nhớ máy móc nội dung bài học.
Đáp án của đề thi đưa ra hệ thống ý mà học sinh phải trình bày cùng với
biểu điểm hết sức cụ thể, chi tiết. Cách làm này mang tính áp đặt, nếu học
sinh không làm đúng như đáp án sẽ không có điểm
Với đặc điểm đó, các đề thi chưa đánh giá được toàn diện năng lực
ngữ văn của người học, chưa khuyến khích được sự sáng tạo của học sinh
trong làm bài. Ngoài ra, với tâm lí dạy và học khá thực dụng, hầu hết các
câu hỏi trong bài kiểm tra thường xuyên và định kì đều ra theo “mẫu”,
“dạng” của các đề thi tốt nghiệp và tuyển sinh đại học, cao đẳng.
Năm học 2013 – 2014, trong kì thi tốt nghiệp và tuyển sinh vào Đại
học, Ngành giáo dục đã có sự đổi mới cách ra đề kiểm tra đánh giá học sinh
theo hướng phát triển năng lực, tuy nhiên điều đó là chưa đủ để mọi học
sinh có cơ hội bày tỏ quan điểm cá nhân, tranh luận, phản biện…từ đó nuôi
dưỡng hứng thú, tự tin của các em, nhất là học sinh ở các khối lớp 10, 11 –
những học sinh chưa có điều kiện tiếp cận với cách ra đề mới.
Tại trường THPT ..., huyện ..., vấn đề này càng trở nên cần thiết hơn
bao giờ hết. Là đơn vị trực thuộc Sở Giáo dục và đào tạo ..., năm qua, thực
hiện sự chỉ đạo của Ngành giáo dục, trường đã có nhiều cố gắng trong việc
đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh theo hướng phát triển năng lực học
sinh. Công tác kiểm tra đánh giá được giáo viên thường xuyên trau dồi kỹ
năng ra đề, đổi mới cách ra đề. Bản thân tôi nhận thấy trong đó, các đề văn
được ra đã phần nào giúp hình thành ở người học năng lực quan sát, thu
thập thông tin, năng lực tự đánh giá, năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề,
năng lực giao tiếp, năng lực trình bày miệng, năng lực tạo ra sản phẩm. Vì

2


vậy, tôi đã lựa chọn cho mình đề tài "Ra đề kiểm tra học kì I theo hướng
đổi mới ở trường THPT ...". Đây chính là kết quả tâm huyết của bản thân
trong thời gian vừa qua.
Tôi hi vọng rằng những nghiên cứu bước đầu của mình sẽ góp phần
giúp mọi học sinh đều có cơ hội bày tỏ quan điểm cá nhân, tranh luận, phản
biện… nhờ đó nuôi dưỡng hứng thú, tự tin của các em. Bởi qua thực tế
kiểm nghiệm của bản thân đã thấy có những tác dụng nhất định.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Quá trình học là quá trình chuyển đổi/biến đổi có tính mục đích mà ở
đó giáo viên có thể truyền thụ những tri thức, kỹ năng… nhưng quan trọng
nhất là tổ chức cho học sinh thực hiện những hoạt động và trên cơ sở
những hoạt động ấy làm cho học sinh khám phá, trải nghiệm, tương tác, để
rồi làm chủ được những tri thức, kỹ năng và thay đổi thái độ, tạo dựng
được hứng thú, niềm tin và trên cơ sở đó là biến đổi chính chủ thể là người
học. Dạy học tích cực phải hình thành ở người học năng lực quan sát, thu
thập thông tin, năng lực tự đánh giá, năng lực phát hiện, giải quyết vấn đề,
năng lực giao tiếp, năng lực trình bày miệng, năng lực tạo ra sản phẩm…
Tuy nhiên tất cả các năng lực ấy đều phải được thể hiện, phản hồi trong quá
trình đánh giá. Nếu nhìn nhận theo góc độ như vậy thì việc đổi mới quá
trình kiểm tra đánh giá là vô cùng quan trọng, đặc biệt là ở học kì I. Đây là
thời gian giữa năm học, qua công tác kiểm tra đánh giá sẽ thúc đẩy sự phát
triển trong giai đoạn nửa sau của năm học. Kiểm tra đánh giá học kì I sẽ là
hạt nhân quy chiếu toàn bộ quá trình dạy học của năm học. Bởi vì chỉ cần
tập trung đổi mới quá trình kiểm tra đánh giá thì các quá trình khác buộc
phải thay đổi theo.
Trường THPT ... đóng chân trên địa bàn huyện .... Đây là một huyện
biên giới có tình hình kinh tế, chính trị khá phức tạp. Học sinh là con em

người đồng bào dân tộc thiểu số, người từ nơi khác đến làm ăn trong một
thời gian ngắn chiếm một tỉ lệ không nhỏ, việc học tập của một bộ phận
3


học sinh ít được cha mẹ quan tâm, thậm chí không quan tâm. Tình trạng
học sinh ỷ lại, không tự giác học tập, thụ động trong tiếp thu kiến thức còn
rất nhiều, mặc dù nhà trường có các giải pháp nhằm thay đổi tư duy của
học sinh. Cùng với đó, năm học 2013 – 2014, 2014 – 2015, trường
THPT ... tiến hành phân luồng học sinh theo kết quả học tập. Những học
sinh có kết quả học tập tốt được bố trí vào những lớp đầu của khối. Những
học sinh có kết quả học tập chưa tốt được bố trí vào những lớp cuối. Để
góp phần vào việc làm sao tích cực hóa, giúp học sinh tư duy: tư duy phản
biện, tư duy sáng tạo…giải quyết vấn đề, nhất thiết phải có sự chung tay
của nhiều thành phần, trong đó có giáo viên bộ môn Ngữ văn. Vì vậy mục
đích nghiên cứu của đề tài này là: qua việc Ra đề kiểm tra học kì I theo
hướng phát triển năng lực nhằm nâng cao khả năng tư duy, sáng tạo cho
học sinh THPT nói chung và học sinh trường THPT ... nói riêng.
III. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN
CỨU
1. Khách thể nghiên cứu:
Công tác ra đề thi học kì I theo hướng đổi mới ở trường THPT ....
2. Đối tượng nghiên cứu:
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi tập trung nghiên cứu
một vấn đề nhỏ đó là "Ra đề kiểm tra học kì I theo hướng đổi mới ở
trường THPT ..."
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Cơ sở phương pháp luận: đây là một vấn đề vừa mang tính lí luận
vừa mang tính thực tiễn do vậy để thực hiện đề tài người viết phải tìm hiểu
những cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn để xem xét một cách toàn diện vấn

đề được đặt ra.
Phương pháp nghiên cứu: Để hoàn thành đề tài này tôi đã sử dụng
phương pháp thử nghiệm, phân loại, thống kê kết hợp với việc sưu tầm,
khảo sát của bản thân trong quá trình giảng dạy.
4


PHẦN HAI: NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Kiểm tra đánh giá và vai trò của kiểm tra đánh giá học kì I:
Trong Đại từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là xem xét thực chất, thực tế.
Theo Bửu Kế, kiểm tra là tra xét, xem xét, là soạn xét lại công việc. Kiểm
tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá và nhận xét. Còn theo Trần Bá
Hoành, kiểm tra là cung cấp những dữ kiện, thông tin làm cơ sở cho việc
đánh giá. Một số nhà khoa học giáo dục cho rằng: Kiểm tra với nghĩa là
nhằm thu thập số liệu, chứng cứ, xem xét, soát xét lại công việc thực tế để
đánh giá và nhận xét.
Đánh giá là quá trình hình thành những nhận định, phán đoán về kết
quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với
những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp
để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất lượng và hiệu quả công
việc. Theo Đại từ điển Tiếng Việt Nguyễn Như Ý, đánh giá là nhận xét bình
phẩm về giá trị.
Như vậy, kiểm tra đánh giá là quá trình thu thập và xử lý kịp thời, có
hệ thống thông tin về hiện trạng và hiệu quả giáo dục, căn cứ vào mục tiêu
dạy học, làm cơ sở cho những chủ trương, biện pháp và hành động trong
giáo dục tiếp theo. Có thể nói rằng, đánh giá là quá trình thu thập phân tích
và giải thích thông tin một cách hệ thống nhằm xác định mức độ đạt đến
của các mục tiêu giáo dục. đánh giá có thể thực hiện bằng phương pháp
định lượng hay định tính.

Kiểm tra đánh giá học kì I là rất quan trọng. Nó giúp nhà trường có
cái nhìn tổng thể, toàn diện về chất lượng giảng dạy của giáo viên trong
một khoảng thời gian dạy học nhất định. Đánh giá được năng lực của học
sinh trong khoảng nửa đầu năm học. Từ đó, nhà trường sẽ đưa ra những
5


chủ trương, biện pháp và hành động trong thời gian của học kì II. Bản thân
giáo viên sẽ có hướng điều chỉnh để nâng cao chất lượng giảng dạy, phát
huy được tính chủ động, sáng tạo của học sinh…
Cùng với đó, trong kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn ở học kì I, cần sử
dụng nhiều phương pháp đánh giá khác nhau như thi viết, vấn đáp, trắc
nghiệm… Kiểm tra đánh giá nhằm hướng đến 4 yếu tố: Phát triển toàn diện
học sinh: kiểm tra đánh giá phải thể hiện ở các mặt đức, trí, thể, mỹ, tình
cảm và xã hội; Cá biệt hóa giáo dục: kiểm tra đánh giá chú trọng đến sự
phân hóa học sinh, đến việc phát hiện năng lực của từng cá nhân; Dân chủ
hóa giáo dục: kiểm tra đánh giá phải đảm bảo công khai, công bằng, dựa
vào mục tiêu đặt ra từ đầu, tôn trọng sự tự đánh giá của học sinh; Thực
dụng hóa giáo dục: kiểm tra đánh giá nhằm hướng đến năng lực thực tiển
của học sinh, đề kiểm tra không chú trọng đến kiến thức lý thuyết, hàn lâm
mà chú trọng đến việc vận dụng các kiến thức đã học vào đời sống, những
kiến thức hữu ích cho cuộc sống và việc học tập của các em.
2. Đổi mới kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn học kì I theo hướng
tiếp cận năng lực:
Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành quan tâm chủ yếu tới
việc học sinh sẽ học được những gì. Việc xây dựng chương trình như vậy
được gọi là theo hướng tiếp cận nội dung. Chương trình mới sẽ được xây
dựng theo hướng tiếp cận năng lực học sinh, tức là xuất phát từ các năng
lực mà mỗi học sinh cần có trong cuộc sống và kết quả cuối cùng phải đạt
các năng lực ấy. Theo đó nội dung, phương pháp dạy học, phương pháp

kiểm tra đánh giá đều phải hướng tới năng lực hoc sinh.
Theo một số tài liệu tham khảo trong thời gian gần đây, năng lực
Ngữ văn là trình độ vận dụng các kiến thức, kĩ năng cơ bản về văn học và
tiếng Việt để thực hành giao tiếp trong cuộc sống. Năng lực Ngữ văn gồm 2
năng lực bộ phận là: năng lực tiếp nhận văn bản và năng lực tạo lập văn
bản.
6


2.1. Năng lực tiếp nhận văn bản:
Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt được các
thông tin chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái đẹp của
văn bản, nhất là văn bản văn học. Muốn có năng lực tiếp nhận phải biết
cách tiếp nhận. Tức là dựa vào những yếu tố, cơ sở nào (từ, ngữ, câu, đoạn,
hình ảnh, biểu tượng, số liệu, sự kiện, tiêu đề, dấu câu…) để có thể có được
các thông tin và cách hiểu ấy.
Đánh giá năng lực tiếp nhận thường dựa vào kết quả của hai kĩ năng
chính là nghe và đọc. Ở đây, việc đánh giá năng lực tiếp nhận chủ yếu dồn
vào kĩ năng đọc hiểu văn bản.
Văn bản ở đây cần hiểu theo nghĩa rộng. Đó không chỉ là các tác
phẩm thơ văn nghệ thuật mà còn là các loại văn bản không phải là văn
chương, như văn bản viết về lịch sử, địa lý, toán học, sinh học…khoa học
thường thức hoặc một thông báo nơi công cộng, một bản thuyết minh công
dụng và cấu tạo của máy móc, một đơn xin việc…đó là văn bản thông tin –
một loại văn bản rất gần gũi với mọi người và thường xuyên gặp trong cuộc
sống.
Về phương diện cấu trúc, bố cục cũng không chỉ kiểm tra loại văn
bản viết liền mạch trên trang giấy mà còn rất nhiều loại văn bản kết hợp
giữa kênh chữ và kênh hình (biểu đồ, đồ thị, minh họa, công thức, tranh
ảnh, hình khối, bản đồ…), người ta gọi là văn bản không liền mạch. Tất cả

đều là những văn bản cần đọc hiểu và phải dạy cho học sinh cách đọc hiểu
mỗi loại văn bản.
Tóm lại, bên cạnh việc yêu cầu học sinh đọc hiểu một đoạn văn, bài
thơ; người thầy cần dạy và yêu cầu các em biết đọc hiểu các loại văn bản
thông tin, trong đó có rất nhiều văn bản kết hợp kênh chữ và kênh hình, học
sinh phải biết đọc hình kết hợp với đọc chữ để nắm được thông tin và hiểu
đúng ý nghĩa của văn bản.
2.2. Năng lực tạo lập văn bản:
7


Năng lực tạo lập văn bản là khả năng biết viết, biết tổ chức, xây
dựng một văn bản hoàn chỉnh đúng quy cách và có ý nghĩa. Muốn có năng
lực tạo lập phải biết cách tạo lập. Tức là nắm được cách viết một loại văn
bản nào đó.
Đánh giá năng lực tạo lập thường dựa vào kết quả của 2 kĩ năng
chính là nói và viết. Ở đây, việc kiểm tra đánh giá năng lực tạo lập chủ yếu
dồn vào cho kĩ năng viết văn bản.
Văn bản yêu cầu học sinh tạo lập vẫn là các loại văn bản đã nêu ở
phần trên, nhưng có khác ở mức độ, nhất là đối với văn bản văn chương
nghệ thuật.
Cụ thể là người thầy chú trọng dạy cho học sinh cách tiếp nhận văn
bản thơ văn nghệ thuật nhưng khó yêu cầu các em tạo lập ra được loại văn
bản này. Bởi đây là loại văn bản phụ thuộc vào năng khiếu thiên phú, thiên
bẩm không phải muốn là có, cố mà thành.
Ngoại trừ một số rất ít học sinh có năng khiếu văn chương thực sự,
còn lại đại đa số chỉ nên yêu cầu các em làm quen và nắm được đặc điểm
của các thể loại tác phẩm văn chương để làm cơ sở cho việc tiếp nhận văn
học tốt hơn, hiệu quả hơn.
Nếu có yêu cầu tạo lập cũng chỉ ở một mức độ vừa phải như biết kể

lại, tả lại một sự việc, con người, quang cảnh; biết phát biểu những suy
nghĩ, cảm tưởng của bản thân một cách trung thực, xúc động…
2.3. Đánh giá năng lực ngữ văn:
Để đánh giá năng lực ngữ văn (cả tiếp nhận và tạo lập) cần phải cụ
thể hóa các kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) thành nhiều mức độ khác nhau.
Theo từng cấp học, phù hợp với tâm lý-lứa tuổi mà yêu cầu từ dễ đến khó,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp…Cũng từ đó mà lựa chọn một
phương thức đánh giá cho phù hợp.
Mục tiêu của đánh giá môn Ngữ văn học kì I theo yêu cầu phát triển
năng lực cần xác định được khả năng vận dụng tổng hợp những gì đã học
8


của học sinh vào việc giải quyết một văn bản đáp ứng các yêu cầu trong
một tình huống tương tự.
Nội dung đánh giá học kì I không phải chỉ là những gì đã học mà còn
là yêu cầu tổng hợp, liên hệ nhiều nội dung đã học; không chỉ giữa các
phân môn trong môn học mà còn cả những hiểu biết từ các môn học khác.
Tăng cường yêu cầu học sinh tìm mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ
năng của bài học với các hiện tượng, sự vật, sự việc, con người…thường
xuất hiện trong đời sống sinh hoạt cũng như công việc hàng ngày.
Phương thức đánh giá không chú trọng yêu cầu học thuộc, nhớ máy
móc, nói đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy… mà coi trọng ý kiến
và cách giải quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những suy
nghĩ sáng tạo, mới mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều,
khuyến khích những lập luận giàu sức thuyết phục…
Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những yêu cầu và
mức độ phù hợp; tránh cả hai khuynh hướng cực đoan: “đóng” một cách
cứng nhắc, máy móc, làm thui chột sự sáng tạo và “mở” một cách tùy tiện “
không biên giới”, phi thẩm mỹ, phản giáo dục…

Để đánh giá được các năng lực Ngữ văn của học sinh, cần có những
bộ công cụ phù hợp với mục đích của từng bài kiểm tra, kì thi. Việc kiểm
tra đánh giá năng lực Ngữ văn học kì I phải mang tính chất rèn luyện, thực
hành để chuẩn bị cho các kì thi học kì và quốc gia.
II. RA ĐỀ VÀ ĐỊNH HƯỜNG TÌM HIỂU ĐỀ CHO BÀI KIỂM
TRA HỌC KÌ I THEO CÁCH TIẾP CẬN NĂNG LỰC
1. Yêu cầu của việc ra đề kiểm tra học kì I theo hướng tiếp cận
năng lực:
Ở cấp trung học phổ thông, kĩ năng viết của học sinh đã phát triển ở
mức độ cao. Về mặt lí thuyết, học sinh ở cấp học này có thể tạo lập được
văn bản theo những phương thức khác nhau, đặc biệt là có thể viết được bài

9


văn nghị luận nêu được quan điểm, tư tưởng riêng của mình về các vấn đề
của đời sống hoặc văn học một cách sâu sắc, có sức thuyết phục.
Tuy nhiên, do cách ra đề và đáp án “đóng”, cùng với việc coi trọng
kiến thức văn học, nên các đề kiểm tra viết trước đây chưa tạo điều kiện
cho học sinh phát biểu những suy nghĩ riêng, sáng tạo và vận dụng những
kiến thức đã học vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống
của mình.
Cần đổi mới cách thức kiểm tra đánh giá kĩ năng viết của học sinh ở
học kì I bằng cách ra đề theo hướng mở và tích hợp (trong môn và liên
môn). Đề mở chấp nhận nhiều cách trả lời, thậm chí có những câu trả lời
đối ngược nhau miễn là học sinh bộc lộ được nhận thức và lập luận lôgic
trong quá trình đi đến câu trả lời.
Trong quá trình làm bài, học sinh cần vận dụng các kiến thức, kĩ
năng của các phân môn Tiếng Việt, Làm văn, Văn học cũng như kiến thức
liên môn (Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân,...) để giải quyết vấn đề mà đề

bài nêu ra.
Các câu hỏi kiểm tra đánh giá kĩ năng đọc hiểu và cảm thụ nên được
thiết kế theo cách làm của PISA, bao gồm: câu hỏi mở yêu cầu trả lời ngắn;
câu hỏi mở yêu cầu trả lời dài; câu hỏi đóng yêu cầu trả lời dựa trên những
trả lời có sẵn; câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa chọn; câu hỏi có –
không, đúng – sai phức hợp.
Đáp án không áp đặt nội dung trả lời mà nên nêu được các phương
án mà học sinh có thể trình bày, phân tích được sự hợp lí của các phương
án đó; đồng thời, nêu được những yêu cầu về kĩ năng làm bài của học sinh,
khuyến khích học sinh sử dụng nhiều kĩ năng, thao tác khác nhau trong giải
quyết vấn đề; khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, quan điểm riêng
của mình, chấp nhận nhiều cách hiểu và giải quyết vấn đề khác nhau miễn
là tư tưởng của người viết không đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức và
pháp luật mà xã hội đã quy định; khuyến khích học sinh vận dụng được
10


những điều đã học vào giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra một
cách có sức thuyết phục, hợp lí, tự nhiên, phù hợp với trình độ của các em.
Cũng như kiểm tra đánh giá kĩ năng đọc, kiểm tra đánh giá kĩ năng
viết của học sinh phải được tiến hành thường xuyên trong các bài kiểm tra
từ 1-2 tiết, đặc biệt là bài bài kiểm tra học kì I.
2. Cách thức ra đề:
Đánh giá kết quả học tập của học sinh học kì I theo hướng phát triển
năng lực là một hoạt động rất quan trọng trong quá trình giáo dục. Đánh giá
kết quả học tập theo hướng phát triển năng lực của học sinh là quá trình thu
thập và xử lí thông tin về trình độ, khả năng thực hiện mục tiêu học tập của
học sinh nhằm tạo cơ sở cho những điều chỉnh sư phạm của giáo viên, các
giải pháp của các cấp quản lí giáo dục và cho bản thân học sinh, để học sinh
học tập đạt kết quả tốt hơn.

Đánh giá kết quả học tập của học sinh học kì I, theo hướng phát triển
năng lực cần sử dụng phối hợp nhiều công cụ, phương pháp và hình thức
khác nhau. Đề kiểm tra học kì I là một trong những công cụ được dùng khá
phổ biến để đánh giá kết quả học tập của học sinh.
Để biên soạn đề kiểm tra cần thực hiện theo quy trình sau:
Bước 1. Xác định mục đích của đề kiểm tra
Đề kiểm tra học kì I là một công cụ dùng để đánh giá kết quả học tập
của học sinh sau khi học xong một học kì nên người biên soạn đề kiểm tra
cần căn cứ vào mục đích yêu cầu cụ thể của việc kiểm tra, căn cứ chuẩn
kiến thức kĩ năng của chương trình và thực tế học tập của học sinh để xây
dựng mục đích của đề kiểm tra cho phù hợp.
Bước 2. Xác định hình thức đề kiểm tra
Đề kiểm tra (viết) có các hình thức sau:
1. Đề kiểm tra tự luận;
11


2. Đề kiểm tra trắc nghiệm khách quan;
3. Đề kiểm tra kết hợp cả hai hình thức trên: có cả câu hỏi dạng tự
luận và câu hỏi dạng trắc nghiệm khách quan.
Mỗi hình thức đều có ưu điểm và hạn chế riêng nên cần kết hợp một
cách hợp lý các hình thức sao cho phù hợp với nội dung kiểm tra và đặc
trưng môn ngữ văn để nâng cao hiệu quả, tạo điều kiện để đánh giá kết quả
học tập của học sinh chính xác hơn.
Nếu đề kiểm tra kết hợp hai hình thức thì nên có nhiều phiên bản đề
khác nhau hoặc cho học sinh làm bài kiểm tra phần trắc nghiệm khách quan
độc lập với việc làm bài kiểm tra phần tự luận: làm phần trắc nghiệm khách
quan trước, thu bài rồi mới cho học sinh làm phần tự luận.
Bước 3. Thiết lập ma trận đề kiểm tra (bảng mô tả tiêu chí của đề
kiểm tra)

Lập một bảng có hai chiều, một chiều là nội dung hay mạch kiến thức,
kĩ năng chính cần đánh giá, một chiều là các cấp độ nhận thức của học sinh
theo các cấp độ: nhận biết, thông hiểu và vận dụng (gồm có vận dụng ở cấp
độ thấp và vận dụng ở cấp độ cao).
Trong mỗi ô là chuẩn kiến thức kĩ năng chương trình cần đánh giá, tỉ
lệ % số điểm, số lượng câu hỏi và tổng số điểm của các câu hỏi.
Số lượng câu hỏi của từng ô phụ thuộc vào mức độ quan trọng của
mỗi chuẩn cần đánh giá, lượng thời gian làm bài kiểm tra và trọng số điểm
quy định cho từng mạch kiến thức, từng cấp độ nhận thức.
Bước 4. Biên soạn câu hỏi theo ma trận
Việc biên soạn câu hỏi theo ma trận cần đảm bảo nguyên tắc: loại
câu hỏi, số câu hỏi và nội dung câu hỏi do ma trận đề quy định, mỗi câu hỏi
TNKQ chỉ kiểm tra một chuẩn hoặc một vấn đề, khái niệm.
12


Để các câu hỏi biên soạn đạt chất lượng tốt, cần biên soạn câu hỏi
thoả mãn các yêu cầu sau:
a. Các yêu cầu đối với câu hỏi trắc nghiệm khách quan nhiều lựa
chọn
1) Câu hỏi phải đánh giá những nội dung quan trọng của chương
trình;
2) Câu hỏi phải phù hợp với các tiêu chí ra đề kiểm tra về mặt trình
bày và số điểm tương ứng;
3) Câu dẫn phải đặt ra câu hỏi trực tiếp hoặc một vấn đề cụ thể;
4) Từ ngữ, cấu trúc của câu hỏi phải rõ ràng và dễ hiểu đối với mọi
học sinh;
5) Mỗi phương án nhiễu phải hợp lý đối với những học sinh không
nắm vững kiến thức;
6) Mỗi phương án sai nên xây dựng dựa trên các lỗi hay nhận thức

sai lệch của học sinh;
7) Phần lựa chọn phải thống nhất và phù hợp với nội dung của câu
dẫn;
8) Mỗi câu hỏi chỉ có một đáp án đúng, chính xác nhất;
b. Các yêu cầu đối với câu hỏi tự luận
1) Câu hỏi phải đánh giá nội dung quan trọng của chương trình;
2) Câu hỏi phải phù hợp với các tiêu chí ra đề kiểm tra về mặt trình
bày và số điểm tương ứng;
3) Câu hỏi yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức vào các tình
huống mới;
4) Câu hỏi thể hiện rõ nội dung và cấp độ tư duy cần đo;

13


5) Nội dung câu hỏi đặt ra một yêu cầu và các hướng dẫn cụ thể về
cách thực hiện yêu cầu đó;
6) Yêu cầu của câu hỏi phù hợp với trình độ và nhận thức của học
sinh;
7) Yêu cầu học sinh phải hiểu nhiều hơn là ghi nhớ những khái niệm,
thông tin;
8) Ngôn ngữ sử dụng trong câu hỏi phải truyền tải được hết những
yêu cầu của cán bộ ra đề đến học sinh;
9) Câu hỏi nên gợi ý về: Độ dài của bài luận; Thời gian để viết bài
luận; Các tiêu chí cần đạt.
10) Nếu câu hỏi yêu cầu học sinh nêu quan điểm và chứng minh cho
quan điểm của mình, câu hỏi cần nêu rõ: bài làm của học sinh sẽ được đánh
giá dựa trên những lập luận logic mà học sinh đó đưa ra để chứng minh và
bảo vệ quan điểm của mình chứ không chỉ đơn thuần là nêu quan điểm đó.
Bước 5. Xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm

Việc xây dựng hướng dẫn chấm (đáp án) và thang điểm đối với bài
kiểm tra cần đảm bảo các yêu cầu:
Nội dung: khoa học và chính xác. Cách trình bày: cụ thể, chi tiết
nhưng ngắn gọn và dễ hiểu, phù hợp với ma trận đề kiểm tra.
Cần hướng tới xây dựng bản mô tả các mức độ đạt được để học sinh có
thể tự đánh giá được bài làm của mình.
Bước 6. Xem xét lại việc biên soạn đề kiểm tra
Sau khi biên soạn xong đề kiểm tra cần xem xét lại việc biên soạn đề
kiểm tra, gồm các bước sau:
1) Đối chiếu từng câu hỏi với hướng dẫn chấm và thang điểm, phát
hiện những sai sót hoặc thiếu chính xác của đề và đáp án. Sửa các từ ngữ,
nội dung nếu thấy cần thiết để đảm bảo tính khoa học và chính xác.
14


2) Đối chiếu từng câu hỏi với ma trận đề, xem xét câu hỏi có phù
hợp với chuẩn cần đánh giá không? Có phù hợp với cấp độ nhận thức cần
đánh giá không? Số điểm có thích hợp không? Thời gian dự kiến có phù
hợp không? (giáo viên tự làm bài kiểm tra, thời gian làm bài của giáo viên
bằng khoảng 70% thời gian dự kiến cho học sinh làm bài là phù hợp).
3) Thử đề kiểm tra để tiếp tục điều chỉnh đề cho phù hợp với mục
tiêu, chuẩn chương trình và đối tượng học sinh.
4) Hoàn thiện đề, hướng dẫn chấm và thang điểm.
3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề:
Tìm hiểu đề là bước đầu tiên trong quá trình làm một bài kiểm tra,
đặc biệt là kiểm tra học kì I. Là bước xác định phương hướng, tìm ra một
cái đích mà trong quá trình làm bài học sinh phải đạt cho được. Nói một
cách rõ ràng hơn học sinh phải tìm hiểu đề để xác định đúng đắn hướng
làm bài, nội dung, thể loại (kiểu bài) và phạm vi tư liệu sử dụng theo yêu
cầu của người ra đề.

Việc hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề thể hiện rất rõ vai trò của người
thầy. Có những đề mới đọc qua cứ tưởng là khó, song nếu thầy giáo biêt
khơi gợi, giải thích cho học sinh hiểu được, đồng thời biết yêu cầu vừa phải
đối với học sinh thì từ những nhận thức và năng lực đầu tiên còn nhỏ bé,
học sinh có thể nhanh chóng và phấn khởi vươn lên trình độ cao hơn.
Với cách kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực Ngữ văn
của học sinh, đề kiểm tra sẽ gồm hai phần: phần đọc hiểu và phần viết. Vì
vậy, cần định hướng cho học sinh nắm được những kĩ năng và kiến thức cơ
bản nhất để có thể hoàn thành tốt bài kiểm tra của mình.
3.1. Phần đọc – hiểu:
Để đọc – hiểu văn bản một cách trọn vẹn và có những sáng tạo riêng,
học sinh cần nắm được những kiến thức ngữ pháp cơ bản đã học ở chương
trình trung học cơ sở, cụ thể:
15


Những kiến thức về từ loại: danh từ, động từ, tính từ...
Những kiến thức về câu như phân loại câu (câu đơn, câu ghép...), cấu
tạo câu (các thành phần chính, các thành phần phụ, các thành phần biệt
lập...)
Các phong cách ngôn ngữ: sinh hoạt, khoa học, chính luận, báo chí,
hành chính, nghệ thuật.
Các phương thức biểu đạt: miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận, hành
chính, thuyết mình...
Các thao tác lập luận: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, so
sánh, bác bỏ, suy lí....
Các phép liên kết: phép thế, phép nối, phép liên tưởng, phép lặp...
Hệ thống dấu câu.
Hệ thống thanh điệu.
Hệ thống hình ảnh, biểu tượng, các loại biểu đồ, công thức,...

Kĩ năng viết các đoạn văn ngắn theo kiểu diển dịch, quy nạp, tổng –
phân – hợp, móc xích, so sánh, nhân quả....
Có kiến thức liên môn: lịch sử, địa lí, toán, sinh...
Và các kĩ năng khác....
3.2. Phần viết:
Cần hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu nội dung, đây là yêu cầu
khó xác định nhất. Thực chất của yêu cầu này là học sinh phải xác định cho
được mình phải viết cái gì trong bài văn.
Muốn xác định được yêu cầu về mặt nội dung, người viết có thể dựa
vào mặt ngôn ngữ của đề như những từ ngữ quan trọng, những hình ảnh
hoặc sử dụng từ ngữ một cách hình ảnh để tìm hiểu nghĩa đen của chúng.
Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu về mặt hình thức. Đây thực
chất là định hướng về phương pháp làm bài, thể loại. Thông thường thì yêu
cầu này được diễn đạt bằng những từ ngữ cụ thể như: Giải thích, chứng
minh, bình luận, phân tích nhưng cũng có thể được thể hiện ở các dạng
16


khác như: hãy làm sáng tỏ, hãy minh họa (kiểu bài chứng minh); Em hiểu
như thế nào? Tại sao lại nói như vậy? Thế nào là? (kiểu bài giải thích); Hãy
cho biết ý kiến? Y kiến của em như thế nào? Em có suy nghĩ gì?(kiểu bài
bình luận)…Có một số trường hợp yêu cầu thể loại bị giấu kín (đề chìm).
Với cách kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng lực Ngữ văn
của học sinh thì ngoài những kiểu bài trên, đặc biệt lưu ý học sinh kiểu bài
so sánh. Đây là kiểu bài giúp phát triển tư duy của học sinh tốt nhất. Vì vậy,
cần định hướng khơi gợi để học sinh thể hiện quan điểm riêng của mình,
tranh luận để thấy được những điểu tốt đẹp và mới mẻ trong cuộc sống.
Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu tài liệu (Còn gọi là phạm vi
dẫn chứng). Phần lớn các đề kiểm tra đánh giá theo hướng phát triển năng
lực không thể hiện rõ yêu cầu này. Do đó việc lấy dẫn chứng không bị bó

hẹp, có thể lấy bất kỳ dẫn chứng nào trong văn học và đời sống.
Trong ba nội dung trên thì việc hướng dẫn cho học sinh xác định yêu
cầu về mặt nội dung là quan trọng nhất. Vì yêu cầu này khó xác định, nếu
không hướng dẫn, khơi gợi thì học sinh khó có thể thể hiện được chính kiến
của riêng mình. Đồng thời đây cũng là cơ hội để giáo viên thực hiện được
một phần nào đó mục đích của việc ra đề là tập trung vào phát triển tư duy
sáng tạo của học sinh.
III. YÊU CẦU CỦA VIỆC CHẤM, TRẢ BÀI
1. Chấm bài:
Ngoài việc đánh giá chất lượng và chữa những lỗi sai trong bài làm
của học sinh theo yêu cầu của công tác giảng dạy văn, giáo viên cần chú
trọng đến việc phát hiện, phân loại bài làm của học sinh để có hướng phát
triển năng lực phù hợp. Cụ thể:
1.1. Phân loại bài làm về mặt hình thức:
- Bài làm có bố cục, kết cấu, chữ viết, cách dùng từ, diễn đạt tốt
- Bài làm có bố cục, kết cấu, chữ viết, cách dùng từ, diễn đạt trung
bình
17


- Bài làm chưa đạt yêu cầu về bố cục, kết cấu, chữ viết, cách dùng từ,
diễn đạt yếu.
1.2. Phân loại bài làm về mặt nội dung:
- Bài làm đảm bảo yêu cầu nội dung, có thiên hướng tích cực, liên hệ
sâu sắc.
- Bài làm thể hiện rõ cá tính hoặc bộc lộ rõ ý thức sáng tạo, khám
phá, tư duy riêng.
- Bài làm chưa đạt về nội dung hoặc thể hiện những nhận thức sai
lầm, mang tính thu động, sao chép.
Khi ra đề văn giáo viên nên thể hiện dụng ý của mình. Chẳng hạn đối

với lớp có đối tượng học sinh chủ yếu là học lực khá, giỏi, đề ra cần có
những câu hỏi chuyên sâu, mở rộng, phát huy tối đa năng lực tư duy của
học sinh, thì khi chấm cần hết sức lưu ý sự cảm nhận riêng, độc đáo của
học sinh. Giáo viên không nên bê nguyên đáp án vào cho điểm. Điều đó sẽ
đánh mất khả năng sáng tạo của học sinh.
Đối với đối tượng học sinh học yếu bộ môn, đề ra sẽ có thêm những
gợi mở để học sinh dễ cảm thụ và phát huy khả năng sáng tạo. Vì vậy khi
chấm cần chú ý vào những sáng tạo nhỏ của học sinh để thúc đẩy quá trình
tư duy ở những bài sau.
Như vậy việc phân loại bài làm nhất là về phương diện nội dung có
thể nói là việc làm hữu ích vì thực chất cũng chính là sư phân loại đối
tượng học sinh để tìm ra các đối tượng cần quan tâm giúp đỡ, giáo dục.
Một vấn đề nữa là giáo viên nên chú ý đánh giá những bài làm thể
hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm đúng đắn, chân thật. Có thể bài làm đó
có những điểm chưa đạt về hình thức nhưng rất cần trân trọng những nhận
thức đúng đắn, mới mẻ và tình cảm chân thật của các em. Nếu vì lỗi hình
thức mà cho điểm kém thì chưa chắc đã là một biện pháp giáo dục hay.
Mặc dù việc cho điểm bài làm văn của học sinh hiện nay còn nhiều điều
đáng bàn nhưng theo tôi khi chấm điểm ta nên đặt ra những yêu cầu nhất
18


định cả về nội dung và hình thức đối với bài làm của học sinh. Thực hiện
đúng yêu cầu đó thì cho điểm 10. Không thực hiện được bao nhiêu % thì
trừ đi. Như nhà giáo Đỗ Kim Hồi đã nói: "Nên xuất phát từ điểm 10 để suy
ra điểm 5, chứ không nên từ điểm 5 để suy ngược mãi lên điểm 10".
Cuối cùng là khi giáo viên phê vào bài làm của học sinh cần lưu ý
cách trình bày, cách dùng từ ngữ, chấm câu…Nhiều giáo viên dạy ngữ văn
thường đại khái trong việc nhận xét cho học sinh, mà bỏ qua những phát
hiện mới mẻ, độc đáo trong bài làm của các em. Điều này thật đáng tiếc, vì

như vậy là chúng ta đã bỏ qua việc tác động đến sự phát triển tư duy của
học sinh. Hãy là một người thầy đúng nghĩa trong việc chấm trả bài. Bởi
khi thầy cô trả bài, sau khi xem điểm, học sinh thường đọc rất kỹ lời phê
của giáo viên. Nếu thầy cô phê cẩn thận, tôn trọng học sinh, chỉ rõ mặt
mạnh, yếu thì các em sẽ rất vui và đọc lại bài viết để kiểm tra, rút kinh
nghiệm. Ngược lại, học sinh sẽ cất bài ngay vào cặp mà không cần biết nội
dung như thế nào. Thậm chí có những lời phê khá nặng nề khiến các em xé
bài…Vì vậy lời phê thật sự cần thiết phải chuẩn mực, rõ ràng và mang tính
khích lệ tư duy học sinh.
2. Trả bài:
Chương trình của bộ môn Văn trong nhà trường có một đặc điểm là
có thêm các tiết trả bài. Đây cũng là một tiết học nên giáo viên phải thực
hiện đầy đủ tuần tự các bước lên lớp như:
- Giáo viên chép đề lên bảng.
- Gọi học sinh và hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề.
- Yêu cầu học sinh lập dàn ý.
- Nhận xét chung về ưu, khuyết điểm của bài làm. Chú ý bài làm có
sự sáng tạo.
- Chữa lỗi về hình thức và nội dung
- Công bố kết quả
- Tuyên dương và đọc một vài bài viết tốt trước lớp.
19


- Bài tập vận dụng
Trả bài là khâu cuối cùng hoàn chỉnh mục đích của việc ra đề văn. Vì
vậy, ở bước thứ nhất giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện việc tìm
hiểu đề. Sau đó giáo viên nhấn mạnh vấn đề mà đề bài yêu cầu, chỉ ra
những dẫn chứng thực tế trong đó có những biểu hiện mang tính tính cực
lẫn tiêu cực có liên quan đến đề.

Sau khi nhận xét chung và chữa một số lỗi về hình thức và nội dung
trong bài làm của học sinh, giáo viên có thể đọc một số bài văn tiêu biểu đã
được phân loại khi chấm, đặc biệt là những bài viết có sự sáng tạo, và cho
các học sinh khác nhận xét. Đó cũng là một lần giáo dục, khích lệ khả năng
sáng tạo của các em.
IV. BÀI KIỂM TRA ĐÃ ÁP DỤNG CHO HỌC KÌ I, NĂM HỌC
2014 - 2015 TẠI TRƯỜNG THPT ...
SỞ GD - ĐT ...

KIỂM TRA HỌC KỲ I LỚP 11,

Trường THPT ...

NĂM HỌC 2014 - 2015
Môn: Ngữ văn
Thời gian: 120 phút
(Không kể thời gian phát đề)

I. MỤC TIÊU ĐỀ KIỂM TRA
- Thu thập thông tin để đánh giá mức độ đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng
trong chương trình học kỳ I, môn Ngữ văn lớp11.
- Khảo sát bao quát một số nội dung kiến thức, kỹ năng trọng tâm
của chương trình Ngữ văn 11 học kì I theo 3 nội dung Văn học, Tiếng Việt,
Làm văn, với mục đích đánh giá năng lực đọc - hiểu và tạo lập văn bản của
học sinh thông qua hình thức kiểm tra trắc nghiệm kết hợp tự luận.
Cụ thể, đề kiểm tra nhằm đánh giá trình độ học sinh về kiến thức,
kĩ năng theo các chuẩn sau:
- Thực hành về thành ngữ, điển cố.
20



- Thực hành một số kiểu câu trong văn bản.
- Khái quát văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến CM tháng Tám
1945
- Những nét lớn về cuộc đời, sự nghiệp: Thạch Lam, Vũ Trọng
Phụng, Nguyễn Tuân, Nam Cao.
- Giá trị nội dung, nghệ thuật: Thương vợ, Chữ người tử tù.
- Phân tích nhân vật văn học.
II. HÌNH THỨC ĐỀ KIỂM TRA
Hình thức: Trắc nghiệm kết hợp tự luận.
Cách tổ chức kiểm tra: Cho HS làm bài kiểm tra trắc nghiệm và tự
luận trong 120 phút.
III. THIẾT LẬP MA TRẬN
KHUNG MA TRẬN BÀI KIỂM TRA HỌC KÌ I, LỚP 11, MÔN
NGỮ VĂN CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN
Mức độ

Nhận

Thông

Vận

Vận

Cộng

biết

hiểu


dụng

dụng cao

Chủ đề
thấp
I.
Đọc Nhận biết Hiểu được
hiểu

được một vị trí, tác

-

Thực số

hành

kiểu dụng của

một câu trong câu



số kiểu câu văn bản.

chứa khởi

trong


ngữ.

văn

bản.
Nhận -

Những biết được được

nét lớn về những
cuộc

trị

đời, biện pháp dung

sự nghiệp: nghệ

Hiểu

Vận dụng

giá

kĩ năng để

nội

viết đoạn




nghệ thuật

văn

về

một đề tài
21


Nguyễn

thuật

Tuân.

được

của



sử tác phẩm

- Văn bản dụng
văn


các

theo

thơ

hướng mở

học: trong tác

Thương



tích

phẩm.

hợp

liện

2

2

môn.
1

1,0


1,0
-

1,0
Tuổi

vợ.

II.

Làm

văn

hội

-

Giải

3 điểm
= 30 %
trẻ

Nhận thích câu

cần nhận

- Nghị luận biết kiểu nói: Danh


thức và có

xã hội

hành

bài

làm dự rất quý

văn nghị giá,

cần

luận

xã giữ gìn và

hội.

bảo vệ nó.

-

Nêu -

Chứng -

động

đúng đắn
để

luôn

Phân giữ được

- Nghị luận được vấn tỏ sự đúng tích được phẩm chất
văn

học: đề

cần đắn

Nhân

vật nghị luận: vấn

thuộc

tác Vẻ

phẩm

của

“Chữ

tượng


người
tù”

đẹp tốt

đề của nhân của

đẹp
bản

đẹp bằng thực vật Huấn thân trong
hình tế

cuộc Cao trong giai đoạn

sống. Thể tác phẩm hiện nay.

tử Huấn Cao hiện


của vẻ

rõ Chữ

quan điểm người
bản tù.

tử -

Vận


Nguyễn

của

dụng kiến

Tuân

thân

về

thức,



bài

học

năng

để

được nêu

làm

bài


trong câu

văn nghị
22


nói.

luận

văn

học.
1

1
4,0
Tổng

số 2

câu

2
1,0

Tổng

1

1,0

2
4,0

7

điểm

3,0 =70%
10 điểm
4,0

số

điểm
IV. BIÊN SOẠN ĐỀ KIỂM TRA
Câu 1(0,5 điểm): Xác đinh khởi ngữ trong đoạn trích sau và phân
tích đặc điểm của khởi ngữ:
Tôi mong đồng bào ai cũng tập thể dục. Tự tôi, ngày nào tôi cũng
tập.
(Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi toàn dân tập thể dục)
Câu 2(2,5 điểm): Đọc bài thơ sau và trả lời câu hỏi:
Thương Vợ
Trần Tế Xương
Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không.
1. (0,5 điểm): Viết ra những thành ngữ trong bài thơ.
2. (0,5 điểm): Khoanh tròn vào một trong các câu A, B, C hoặc D
dưới đây thể hiện rõ nhất tình cảm bao trùm của bài thơ:

23


A. Với tình cảm yêu thương quý trọng, tác giả đã ghi lại một cách xúc
động, chân thực hình ảnh người vợ xinh đẹp, thủy chung,
B. Tác giả đã miêu tả, kể lại lại một cách xúc động, chân thực hình ảnh
người vợ tần tảo, thủy chung.
C. Với tình cảm yêu thương quý trọng, tác giả đã ghi lại một cách xúc
động, chân thực hình ảnh người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh.
D. Thương vợ là bài thơ tiêu biểu cho thơ trữ tình Trần Tế Xương: cảm xúc
chân thành, lời thơ giản dị mà sâu sắc.
3. (0,5 điểm): Chỉ ra biện pháp nghệ thuật nổi bật được tác giả sử
dụng trong hai câu thơ sau:
Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông
4. (1,0 điểm): Bài thơ hiện lên hình ảnh người vợ, người mẹ tần
tảo, giàu đức hi sinh. Viết một đoạn văn ngắn nói về đức hi sinh của
người phụ nữ Việt Nam.
Câu 3(3,0 điểm): “ Danh dự là viên ngọc vô giá, đừng để ai chà
đạp lên nó dù người đó có là ai, dù họ có quyền lực đến mức nào đi
chăng nữa” (Trích Nhật kí Đặng Thùy Trâm)
Trình bày suy nghĩ của anh/chị về câu nói trên.
Câu 4(4,0 điểm): Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Huấn Cao

trong tác phẩm " Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân.
V. HƯỚNG DẪN CHẤM, BIỂU ĐIỂM
Câu 1(0,5điểm): - Khởi ngữ: Tự tôi
- Phân tích: + Vị trí: Nằm ở đầu câu.
+ Dấu hiệu về quãng ngắt: dấu phẩy.
+ Tác dụng: Liên kết ý với câu đi trước, nhấn mạnh ý.
Mức đầy đủ (0,5 điểm): Trả lời được 2 ý trên
Mức chưa đầy đủ (0,25): Trả lời được 1 trong 2 ý.
Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác / không trả lời.
24


Câu 2(2,5 điểm)
1. (0,5 điểm):
Mức đầy đủ (0,5điểm): Viết được 2 thành ngữ trong bài thơ:
Một duyên hai nợ
Năm nắng mười mưa
Mức chưa đầy đủ (0,25) Viết được 1 trong 2 thành ngữ.
Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác / không trả lời.
2. (0,5 điểm):
Mức đầy đủ (0,5điểm): Câu C
Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác / không trả lời.
3. (0,5 điểm):
Mức đầy đủ (0,5điểm): Viết được 2 biện pháp nghệ thuật: Đảo ngữ,
đối.
Mức chưa đầy đủ (0,25) Viết được 1 trong 2 biện pháp NT.
Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác / không trả lời.
4. (1,0 điểm): Viết một đoạn văn ngắn nói về đức hi sinh của người
phụ nữ Việt Nam.
- Phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Việt Nam

- Trong những năm kháng chiến, họ sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân
để chồng con ra trận...
- Trong thời bình, tiếp tục thầm lặng hi xây dựng gia đình, góp sức
mình cho sự phát triển của đất nước.
Mức đầy đủ (1,0 điểm): Viết được đầy đủ 3 ý trên.
Mức chưa đầy đủ (0,5 điểm) Viết được khoảng nửa số ý trên.
Không đạt (0 điểm): Câu trả lời khác / không trả lời.
Câu 3(3,0 điểm):
I. Yªu cÇu:
I. Yêu cầu:
1. Yêu cầu về kĩ năng:
25


×