Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

ĐÁNH GIÁ PHIM JOY và các lý THUYẾT KINH DOANH LIÊN QUAN đến KHỞI NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.32 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA QUẢN TRỊ


BÀI TẬP CÁ NHÂN
QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:

ĐÁNH GIÁ PHIM “JOY” VÀ CÁC LÝ THUYẾT
KINH DOANH LIÊN QUAN ĐẾN KHỞI NGHIỆP

GVHD : Th.S CAO QUỐC VIỆT
SVTH
LỚP

: LTK21AD02


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT

Sinh viên: ĐẶNG MINH LÝ

MỤC LỤC


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT

I.

NỘI DUNG PHIM “JOY”
Tên cô ấy là Joy, tiếng Anh có nghĩa là niềm vui, mà cuộc đời cô ấy chẳng vui là


mấy, chỉ vì cô ấy xinh đẹp, trong sáng, thông minh và nhân hậu.
Tên cô ấy là Joy, mà một đoạn đời dài của cô ấy chẳng vui một chút nào, bởi cô ấy là... phụ

nữ.
Tại sao tạo hóa khi tạo ra người phụ nữ lại nhét luôn vào não họ cái bản năng yêu thương,
chăm sóc người khác? Để họ, và ở đây là Joy, ngay khi chỉ là cô bé 10 tuổi, khi bố mẹ ly hôn, đã
nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm chăm sóc gia đình, giúp bố trong kinh doanh, bên mẹ vượt
qua trầm uất. Đến khi thành người phụ nữ 18 tuổi, khi có quyền tự giải thoát khỏi cái ổ hỗn loạn
ấy, Joy lại quyết định lún sâu thêm trong đó vì hai chữ "gia đình".
Và như những người phụ nữ khác, Joy để cái bất hạnh sinh sôi lên khi kết hôn. Một cuộc
hôn nhân vội vã với người đàn ông đàn hay, hát giỏi và biết nói câu: em, em hãy sống với ước
mơ. Ước mơ vào đại học, chính là thứ Joy - cô học sinh xuất sắc nhất trường chôn nén sâu trong
lòng vì gia đình, và khi gặp người đàn ông động viên cô nói ra cái ước mơ ấy, trái tim cô đã đổ
gục.
Nhưng vốn dĩ, người ta không thể ôm những giấc mơ để sống với một ông chồng ôm mộng
làm ca sĩ nổi tiếng, để mặc người vợ xoay sở cáng đáng gia đình. Joy ly hôn sau vài năm.
Đơn thân nuôi hai con Joy sống chung với bà ngoại và còn phải chăm lo cho bà mẹ nhạy
cảm suốt ngày làm bạn với các bộ phim truyền hình nhạt nhẽo, ông bố vô tâm ông luôn cho rằng
Joy phải biết ơn ông vì ông đang giúp cô trả góp ngôi nhà họ đang sống (bằng tiền chính cô kiếm
ra) và chỉ lo kiếm tìm hạnh phúc cho bản thân, và thậm chí là cả ông chồng nghệ sĩ đã ly dị vài
năm, nhưng vẫn nhất quyết bám trụ ở nhà vợ cũ.
Những cuộc cãi vã triền miên giữa các thành viên trong ngôi nhà làm Joy kiệt sức. Nhưng
bao nhiêu bão tố của cuộc đời không nhấn chìm được Joy. Khi bị dồn đến chân tường, khi không
còn lối thoát, chính là lúc Joy thể hiện sức mạnh của mình. Bởi nhiều người cần Joy nên Joy

Trang 3


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
không thể gục ngã. Nếu như của cải, sự giàu có mang lại niềm vui thì Joy đã mang lại niềm vui

cho gia đình, bạn bè và những người cô quý mến. Joy quyết định thay đổi cuộc đời với đam mê
sáng chế vốn đã nằm trong tim từ khi cô còn là một đứa trẻ. Cùng với sự động viên của bà ngoại,
và nhất là với ngọn lửa đam mê chưa bao giờ tắt ngấm, quyết tâm đổi đời với sáng chế tâm huyết:
chiếc chổi lau tiện ích Miracle Mop.

Dĩ nhiên con đường đến thành công trong kinh doanh chẳng bao giờ dễ dàng. Tâm lý khó
tính của người tiêu dùng, vô số cạm bẫy từ đối tác, định kiến về các bà mẹ đơn thân… là những
điều đang chờ đợi cô gái. Không có kinh nghiệm thương trường, lại chẳng có được nguồn vốn
khởi nghiệp dồi dào, Joy Mangano chỉ có thể tiến lên phía trước bằng hành trang là niềm tin, trí
sáng tạo và sự động viên của những người yêu quý.
Để quảng bá sản phẩm, cô tìm đến Neil Walker - Giám đốc của kênh truyền hình mua sắm
QVC. Chờ đợi cô ở phía trước là những khó khăn thách thức trên thương trường mà cô chưa từng
biết đến, nhưng cô đã chèo lái công ty để trở thành đế chế tỷ đô khiến bao người phải ngưỡng
mộ.
II.

CÁC LÝ THUYẾT KINH DOANH KHỞI NGHIỆP

1. Ý định khởi nghiệp
Ý định khởi nghiệp có thể được định nghĩa là sự liên quan ý định của một cá nhân để bắt
đầu một doanh nghiệp (Souitaris &cs, 2007); là một quá trình định hướng việc lập kế hoạch và
triển khai thực hiện một kế hoạch tạo lập doanh nghiệp (Gupta & Bhawe, 2007). Ý định khởi
nghiệp của một cá nhân bắt nguồn từ việc họ nhận ra cơ hội, tận dụng các nguồn lực có sẵn và sự
hỗ trợ của môi trường để tạo lập doanh nghiệp của riêng mình (Kuckertz & Wagner, 2010)
2. Chương trình giáo dục khởi nghiệp
Chương trình giáo dục, Rae & Woodier-Harris (2013) cho rằng muốn doanh nghiệp có một
nền tảng kiến thức tốt và quản lý doanh nghiệp thành công thì cần phải xây dựng chương trình

Trang 4



Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
học khởi nghiệp rộng rãi, cung cấp cho họ kiến thức cần thiết để khởi nghiệp thành công và định
hướng con đường sự nghiệp đúng đắn. Huber & cs. (2014) phân tích hiệu quả của việc giáo dục
khởi nghiệp sớm cho các trẻ em tiểu học ở Hà an và chứng minh rằng việc đầu tư sớm giáo dục
khởi nghiệp cho trẻ em 11 hoặc 12 tuổi mang đến hiệu quả trong việc nâng cao kiến thức, kỹ
năng khởi nghiệp. Ở mỗi quốc gia khác nhau đều có những nét đặc trưng riêng về văn hóa, kinh
tế, chính trị, vì thế nghiên cứu giáo dục khởi nghiệp dựa trên những nét đặc trưng này sẽ góp
phần đóng góp quan trọng cho lý thuyết và thực tiễn giáo dục đại học nói chung.
3. Môi trường khởi nghiệp
Liên quan đến các yếu tố môi trường, ví dụ như “sự ủng hộ của gia đình”, “tấm gương khởi
nghiệp”, “văn hóa quốc gia”, “vốn xã hội”, “yếu tố xã hội” (Chand & Ghorbani, 2011), (Pruett &
cs, 2009) tác động tích cực đến “ý định khởi nghiệp”. Căn cứ trên kết quả từ các nghiên cứu
trước cho thấy hướng tiếp cận này chưa có nhiều nghiên cứu kiểm định lặp lại.

Chand & Ghorbani (2011) cho rằng sự khác nhau về văn hóa quốc gia dẫn đến việc thành
lập và quản lý doanh nghiệp theo những cách khác nhau (cách quản lý tài chính, cách kiểm soát,
huấn luyện nhân viên…). Văn hóa quốc gia cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập và
sử dụng vốn xã hội.
Sesen (2013) phân tích sâu hơn mô hình Schwarz ở khía cạnh các yếu tố môi trường bao
gồm “thông tin kinh doanh”, “mối quan hệ xã hội” và “môi trường khởi nghiệp ở trường đại
học”. Kết quả nghiên cứu cho thấy ngoại trừ các yếu tố như “khả năng tiếp cận vốn”, “môi
trường khởi nghiệp ở trường đại học”, các yếu tố còn lại như “ thông tin kinh doanh”, “mối quan
hệ xã hội”, “môi trường khởi nghiệp ở trường đại học” tác động tích cực đến “ý định khởi
nghiệp”.
Nghiên cứu của Pablo-Lerchundi & cs. (2015) về sự ảnh hưởng của nghề nghiệp cha mẹ
lên sự chọn lựa nghề nghiệp của con cái đã đưa ra kết luận: cha mẹ tự kinh doanh là tấm gương
điển hình về khởi nghiệp và thúc đẩy ý định khởi nghiệp, cha mẹ làm việc cho các khu vực công
không phải là tấm gương khởi nghiệp cho con và cản trở ý định khởi nghiệp. Chưa thấy các
nghiên cứu tiếp theo kiểm định điều này. Các kết quả trên cho thấy môi trường tác động đến ý


Trang 5


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
định khởi nghiệp ở mỗi quốc gia rất khác nhau. Văn hóa, chính trị, cơ chế chính sách khác biệt
nhau giữa các quốc gia cũng có thể dẫn đến ý định khởi nghiệp khác biệt nhau.
4.

Động cơ khởi nghiệp
Shane & cs (2003) đã đề xuất các nhóm yếu tố thuộc động cơ có khả năng ảnh hưởng đến ý

định khởi nghiệp như “nhu cầu thành đạt”, “khao khát được độc lập”, “đạt được mục tiêu”. Từ
quan điểm của Shane, Brandstätter (2011) và Arasteh & cs (2012) chứng minh yếu tố “nhu cầu
thành đạt” có ảnh hưởng tích cực đến việc tạo lập doanh nghiệp và kinh doanh thành công.
Ghasemi &cs (2011) cho thấy rằng có mối quan hệ cùng chiều giữa “nhu cầu thành đạt”. Tuy
nhiên, nghiên cứu của Sesen (2013) không cung cấp bằng chứng thống kê để chứng minh “nhu
cầu thành đạt” ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp
5. Thái độ, Tư duy, Tính cách cá nhân, Giới tính
Thái độ
Mô hình Wu & Wu (2008) cho thấy “thái độ hướng đến khởi nghiệp” và “đánh giá kiểm
soát liên quan đến hành vi” đều tác động tích cực đến “ý định khởi nghiệp”, tuy nhiên không có
bằng chứng thống kê chứng minh “chuẩn chủ quan” tác động tích cực đến “ý định khởi nghiệp”.
Kết quả này tiếp tục được khẳng định ở nghiên cứu của nhóm Boissin. Schwarz & cs (2009) tách

các thành phần của thái độ thành các thành phần như “thái độ đối với sự thay đổi”, “thái độ đối
với tiền”, “thái độ đối với sự cạnh tranh” và “thái độ đối với khởi nghiệp” có tác động tích cực
đến “ý định khởi nghiệp”. Kết quả cho thấy, không có bằng chứng thống kê để chấp nhận mối
quan hệ giữa “thái độ đối với sự cạnh tranh” đến “ý định khởi nghiệp”. Các giả thuyết còn lại
được chấp nhận. Yurtkoru & cs (2014) cho kết quả “thái độ đối với khởi nghiệp” và “đánh giá

kiểm soát liên quan đến hành vi” có tác động tích cực đến “ý định khởi nghiệp”. Khác với các
nghiên cứu trước, mô hình Yurtkoru xem xét “chuẩn chủ quan” là yếu tố tác động đến “thái độ
đối với khởi nghiệp” và “đánh giá kiểm soát liên quan đến hành vi”. Kết quả cho thấy có mối
quan hệ cùng chiều giữa “chuẩn chủ quan” và “thái độ đối với khởi nghiệp” cũng như “đánh giá
kiểm soát liên quan đến hành vi”. Ngoài ra, Yurtkoru kiểm định lại yếu tố “sự hỗ trợ của giáo

Trang 6


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
dục” và “sự hỗ trợ của chính sách kinh tế, xã hội” từ nghiên cứu của nhóm Turker & Selcuk,
(2009) tác động cùng chiều lên “thái độ đối với khởi nghiệp” và “đánh giá kiểm soát liên quan
đến hành vi”. Kết quả cho thấy sự khác biệt khi “sự hỗ trợ của giáo dục” có tác động cùng chiều
đến “đánh giá kiểm soát liên quan đến hành vi” nhưng không có bằng chứng thống kê sự tác
động đến “thái độ đối với khởi nghiệp”. Giả thuyết cho tác động của “sự hỗ trợ của chính sách
kinh tế, xã hội” lên “thái độ đối với khởi nghiệp” và “đánh giá kiểm soát liên quan đến hành vi”
bị bác bỏ.
Tư duy
Haynie & cs (2010, tr 218) định nghĩa "tư duy khởi nghiệp là khả năng trở nên năng động,
linh hoạt và tự điều chỉnh trong nhận thức của một người để thích ứng với môi trường không
chắc chắn và năng động". Nhóm tác giả đề xuất mô hình nhận thức tổng hợp về tư duy khởi
nghiệp trong đó minh họa mối quan hệ giữa tư duy khởi nghiệp và hành động khởi nghiệp. Dựa
trên đề xuất này, Mathisen & Arnulf (2013) phát triển khái niệm nghiên cứu “tư duy khởi nghiệp”
gồm hai thành phần, thành phần “tư duy cẩn trọng” và “tư duy hành động”. Tư duy là quá trình
đánh giá lại nhận thức do đó “tư duy cẩn trọng” là quá trình cân nhắc mặt ưu và nhược của ước
muốn và khả năng thực hiện ước muốn; “tư duy hành động” là tư duy xác định mục tiêu, đề ra
chiến lược/kế hoạch và các bước tiến hành để thực hiện mục tiêu (Mathisen & Arnulf, 2013). Kết
quả nghiên cứu cho thấy “tư duy hành động” có tác động tích cực đến việc thành lập công ty của
người khởi nghiệp. Tuy nhiên, không có bằng chứng thống kê cho thấy “tư duy cẩn trọng” có tác
động tiêu cực.


Tính cách
Shane & cs (2003) đề xuất các tính cách như “chấp nhận rủi ro”, “niềm tin vào năng lực
bản thân”, “kiểm soát bản thân”, “chịu đựng sự mơ hồ”, “đam mê”, “nỗ lực”, “có tầm nhìn” có
mối quan hệ với ý định khởi nghiệp của sinh viên. Mô hình Brandstätter (2011) cho kết quả “sẵn
sàng đổi mới”, “chủ động”, “niềm tin vào năng lực bản thân”, “chịu được áp lực”, “nhu cầu tự

Trang 7


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
chủ”, “kiểm soát bản thân” có ảnh hưởng tích cực đến việc tạo lập doanh nghiệp và “kinh doanh
thành công”.
Nghiên cứu của Ghasemi & cs (2011) cho thấy có mối quan hệ cùng chiều giữa các yếu tố
tính cách “sáng tạo” (bao gồm “thành thạo công việc” và “khởi xướng” có ảnh hưởng tích cực
đến “ý định khởi nghiệp”. Kết quả của Arasteh& cs (2012) cho thấy yếu tố “chịu đựng sự mơ hồ”
không tác động đến “ý định khởi nghiệp”. Heydari & cs (2013) lại cho kết quả ngược lại. Sesen
(2013) đã kiểm định và đưa ra các yếu tố thuộc về tính cách ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp là
các yếu tố “kiểm soát bản thân” và “niềm tin vào năng lực bản thân”.
Giới tính
Nghiên cứu của nhóm Sullivan & Meek,(2012), Zhang & cs (2009) cho thấy khi so sánh
với nam, nữ sẽ có mức ảnh hưởng cao hơn trong ý định khởi nghiệp. Nicolaou & Shane (2010)
kết luận rằng không có sự khác nhau giữa ý định khởi nghiệp của nam và nữ. Maes & cs (2014)
chứng minh thái độ cá nhân giải thích ý định khởi nghiệp của nữ yếu hơn của nam; sự kiểm soát
hành vi giải thích ý định khởi nghiệp của nữ yếu hơn của nam; vì phụ nữ khởi nghiệp mong
muốn cân bằng các giá trị xã hội hơn nam (dành thời gian nhiều hơn cho gia đình, con cái...) nên
phụ nữ trong khởi nghiệp ít thành tựu hơn nam. Như vậy, có sự mâu thuẫn rõ ràng trong kết quả
của các nghiên cứu về giới tính ảnh hưởng đến ý định khởi nghiệp.
III.


NHỮNG ĐÁNH GIÁ VÀ CẢM XÚC KHI XEM PHIM

Với những ai đã đi qua và có thâm niên trong lĩnh vực kinh doanh thì đều biết thương
trường như chiến trường, vô cùng khóc liệt. Để có một chỗ đứng và thành công không phải là
một việc dễ dàng đối với một người đàn ông. Còn đối với phụ nữ không chỉ thế mà còn có rất
nhiều sự bất công khác mà không lường trước được. Joy không những thiếu nguồn vốn đầu tư mà
còn thiếu kinh nghiệm trên chiến trường mà nơi đó nam giới là kẻ thống trị. Cô bị kìm hãm bởi
những định kiến là phụ nữ và là mẹ đơn thân, những tay đối tác muốn cô tận dụng lợi thế cơ thể
và vẻ ngoài phụ nữ của mình thay vì sử dụng trí óc và sự sáng tạo. Joy lớn lên có một niền đam
mê, sự sáng tạo và có những mơ ước từ thuở bé nhưng luôn bị giam cầm bởi số phận và những

Trang 8


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
người thân của mình. Nhưng cuối cùng, cô đã vươn lên từ chính đôi tay của mình. Trở về
với trí óc thuần khiết nhất để nắm bắt những ý tưởng, mơ ước từ thời còn là một đứa trẻ. Joy bắt
đầu công việc sáng chế bằng việc làm ra một sợi dây đeo cổ huỳnh quang cho chú chó của mình,
nhưng bởi người mẹ không thể nhờ vả quá nhạy cảm mà cô đã vuột mất cơ hội lấy bằng sáng chế
vào tay kẻ khác. Giờ đây, những gì Joy biết là cô phải tự thân đứng lên và trực tiếp xây dựng
niềm tin của mình. Cô tận dụng các mối quan hệ, kiên quyết cứng rắn với các đối tác và tự làm
chủ cuộc đời của chính mình. Sự bùng nổ trong tâm lý của Joy không phải được tạo ra từ một
biến cố trong cuộc sống và được nuôi lớn từ những tháng ngày dồn nén. Sau năm tháng sống vị
tha, cam chịu vì gia đình, giờ là lúc tự đứng lên, kiên quyết làm tới cùng để hiện thực hóa giấc
mơ của mình. Trong bức tranh đầy thức tế, hỗn loạn về một gia đình không hạnh phúc kiểu Mỹ
ấy, nhân vật MiMi là người duy nhất đốc thúc, khuyên bảo và an ủi cháu gái mình trong quãng
thời gian cô trưởng thành.
Khi xem phim chúng ta có tư tưởng, bà là một người mẹ, một người cha, một người bạn và
cũng là một người bà. Và cũng chính bà là người động viên cô cháu gái của mình quay trở lại với
ngọn lửa đam mê, với bản chất sáng tạo bẩm sinh từ nhỏ của cô. Giúp cô đổi đời với sáng chế

tâm huyết của mình: Chổi lau tiện ích Miracle Mop. Để thành công Joy phải trải qua rất nhiều
khó khăn và chông gai.
Thàng công cần có một đầu óc linh loạt, thông minh và sắc sảo nhưng cũng cần có cơ
duyên và một ít sự may mắn. Thành công của Joy đến nhờ sự cô luôn cố gắng, bền bỉ, vượt qua
mọi chông gai khi không có nhiều vốn và phải đi thế chấp phần còn lại của ngôi nhà của mình
nhưng trong sự thành công ấy cũng có rất nhiều cơ hội và may mắn hiếm hoi.
Chẳng hạn, khi cần vốn thực hiện ý tưởng, Joy đã đến gặp người cha khó tính của mình và
mong ông thuyết phục người tình mới, một người có kha khá tiền, đầu tư vào công ty. Đâu phải
lúc nào bạn cũng có một người thân giàu có và hào phóng, đúng không?
Một trùng hợp may mắn khác là ông chồng cũ của Joy, Tony có một người bạn làm việc ở
QVC (công ty truyền hình cáp của Mỹ). Khi hai người đến trụ sở mạng lưới mua sắm gia đình ở
Pennsylvania, Walker đồng ý gặp Joy và trở thành người trợ lực không nhỏ cho sự thành công
sau này của cô.

Trang 9


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
Phải thừa nhận kinh doanh cũng cần có thần may mắn đứng bên cạnh, dù không phải là yếu
tố quyết định.

Sự kiên kì cũng là một chìa khóa thành công, đặc biệt đối với phụ nữ khi lăn lộn trên
thương trường. Joy liên lục đấu tranh trên con đường sự nghiệp. Suốt cả bộ phim các nhân vật
nam luôn dùng lợi thế của mình để cản bước cô, dù vô tình hay cố ý.
Joy còn bị bao vây những định kiến dành cho phụ nữ, từ những nhân vật truyền hình mà mẹ
cô luôn tôn thờ, từ người đứng đầu ở QVC nói cô nên mặc bộ đồ váy và áo sơ mi khi muốn thứ gì
trên thị trường để thu hút khách hàng.
Joy không gục ngã hay chùn bước. Cô từ chối thất bại ngay cả khi đứng trước nguy cơ phá
sản. Cô từ chối cho sự trả giá sai lầm của đối tác sản xuất, ngay cả khi đều đó gây nguy hiểm cho
chuỗi cung ứng. Trong một cảnh quay thay vì cô mặc váy và áo phông cô đã mặc một bộ quần áo

bình thường, lau nhà một cách tự nhiên và thoải mái. Cô muốn nói “Tôi là nữ doanh nhân,
và tôi lau nhà một cách nhẹ nhàng như thế hàng ngày”.
Tận dụng truyền hình, Internet và công nghệ một cách triệt để. Khi bắt đầu khởi nghiệp,
Doanh nghiệp luôn trong tình trạng thiếu vốn, và chưa có nhiều kinh nghiệm và kinh doanh một
lĩnh vực hoàn toàn mới. Muốn kêu gọi các nhà đầu tư hay đi vay vốn là một điều không dễ dàng
gì và không có sức thuyết phục. Nhờ có truyền hình mà sản phẩm của Joy có thể quảng bá tiếp
cận khách hàng một cách nhanh nhất. Đem lại nhiều đơn đặt hàng và doanh thu cao thay vì phải
đi giới thiệu cho từng gia đình hay ở các bãi giữ xe của siêu thị.
IV.

BÀI HỌC KINH DOANH RÚT RA TỪ PHIM

Là chính mình
Qua Joy (Jennifer Lawrence), chúng ta thấy một người mẹ trẻ với một gia đình khó khăn,
không xu dính túi vẫn trung thành với niềm tin vào sản phẩm của mình và bản thân mình. Chỉ

Trang 10


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
ngay trước khi xuất hiện ở QVC lần đầu tiên, Joy nổi bật trong cách trang điểm và làm tóc với
kiểu tóc chải ngược tự tin cùng bộ váy đen và vàng rất sang trọng của những năm đầu thập niên
90. Vào phút cuối, cô chỉ mặc một bộ quần tây đen-áo sơ mi nút xuôi đơn giản với mái tóc bù xù.
“Đây là tôi. Tôi muốn là chính mình”, lời Joy nói với nhà điều hành QVC Neil Walker đang bối
rối.
Hiểu rõ bản thân.
Chúng ta biết một số thứ và không biết một số thứ khác, chúng ta đều sẽ được trả hoặc
phải trả giá cho những thứ ấy.

Trong một khoảnh khắc gay cấn, Joy nói với Neil Walker: “Tôi không biết về các biểu đồ

và đường thẳng hoặc kinh doanh. Nhưng tôi biết về cái giẻ lau này”. Câu nói đó đã đưa Joy xuất
hiện ở mạng lưới minh họa sản phẩm của cô dù chưa từng có tiền lệ nào ở nơi từng chỉ dành cho
các ngôi sao và diễn giả chuyên nghiệp. Còn câu trước đó cũng dẫn tới những sai lầm cực kỳ đắt
giá về các hợp đồng sản xuất, quyền sở hữu trí tuệ và quản lý tồn kho mà Joy phụ thuộc rất nhiều
vào những bạn bè và gia đình cô tin tưởng. Joy đã học cách nên tin tưởng ai (không phải là cô chị
cùng cha khác mẹ), bài học nhận từ người khác (bài học về sự dấn thân và tiết kiệm từ người tình
giàu có của cha). Cuối cùng, niềm tin của Joy về bản năng kinh doanh của chính cô đã cứu giúp
việc kinh doanh và đưa cô đến với tòa lâu đài khổng lồ bao quanh bởi các cố vấn đáng tin vậy và
nhiều thành công ở cuối phim.
Thiết lập những mối quan hệ thật sự.
Joy có mối quan hệ thú vị với bạn gái mới của cha cô. Người phụ nữ giàu có, khôn ngoan,
đôi khi rất hà khắc này là người mà Joy đã nhờ cậy rất nhiều. Bà đã mạnh tay đầu tư vào phát
minh của cô và cho cô những bài học kinh doanh đầu tiên.
Bạn cần phải cởi mở trước sự giúp đỡ.

Trang 11


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
Khác với lời khuyên đầu tiên là tìm kiếm sự giúp đỡ, điều này khuyến khích bạn hãy sẵn
sàng nhận những sự giúp đỡ khi chúng tìm đến. Trong bộ phim, bước ngoặt lớn nhất trong sự
nghiệp của Joy được tạo ra là nhờ mối quan hệ của người chồng cũ với Gián đốc công ty QVC.
Mặc dù là một người chồng tồi tệ, nhưng anh ta lại là một người cộng sự kinh doanh lí tưởng
luôn quan tâm và luôn giúp đỡ đến cô như một người bạn. Hiện chồng cũ của Joy hiện đang là
phó chủ tịch cho công ty. Nếu Joy vì lòng tự ái mà khước bỏ sự giúp đỡ, có lẽ chúng ta sẽ không
biết đến sự tồn tại của cây lau nhà tự vắt.
Bạn không thể tự làm tất cả một mình.
Rất nhiều phụ nữ hiện tại – đặc biệt là những bà mẹ đơn thân đang ngầm gửi đi một thông
điệp rằng bởi vì họ có thể tự làm tất cả nên họ phải một mình xoay sở mọi thứ. Cuộc sống hằng
ngày phải tất bật với đủ chuyện. Từ việc đi chợ mua thực phẩm, chăm sóc con, nấu ăn và thậm

chí là sửa ống nước trong khi bà mẹ nghiện phim truyền hình dài tập đang lau chùi chiếc lược của
bà và người chồng cũ sống ở tầng hầm mà không phải chi trả bất kì khoản nào. Thông điệp về sự
độc lập này một cách vô thức sẽ kiềm hãm phụ nữ, bởi vì phụ nữ sẽ áp dụng nó trong cả công
việc kinh doanh, xây dựng sự nghiệp và cuộc sống. Họ tin rằng họ phải tự làm mọi thứ một cách
đơn độc. Đó là chuyện không thể.

Trong phim, nhân vật Joy có thể xây dựng và phát triển công việc kinh doanh của mình là
nhờ vào sự động viên từ người bà, sự đầu tư của bà mẹ kế, lời giới thiệu đến từ chồng cũ, sự ủng
hộ của người bạn thân và người hướng dẫn tại QVC. Hãy từ bỏ ý nghĩ bạn có thể thực hiện
những điều lớn lao chỉ với một thân một mình. Tất cả chúng ta đều cần những nguồn hỗ trợ.
Im lặng
Trong cảnh ở khách sạn di động cho người đi đường, Joy đối mặt với doanh nhân Texas
đang sở hữu bằng sáng chế cạnh tranh với giẻ lau tự vắt của cô. Cô đã trưng ra nghiên cứu cho
thấy hắn quịt của cô hàng vạn USD và đang ngăn cản cô thành công. Hắn phải đồng ý rằng đó là
những sự thật sẽ khiến hắn trở thành tội phạm dưới mắt tòa án. Bị bắt quả tang, gã cao bồi đề
nghị trả lại Joy 70 ngàn USD mà cô đã thanh toán vượt mức. Joy không phản ứng mà quay người
nhìn chăm chú vào cửa sổ. Không một lời nói. Hắn nâng giá lời đề nghị lên 100 ngàn USD. Im

Trang 12


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT
lặng. “Cộng thêm lãi suất”, hắn nói. Joy lôi hợp đồng đã làm sẵn để trong túi ngực của áo khoác
da màu đen, điền vào tổng số tiền và họ ký kết ngay ở đó.
Con người thường khiếp sợ sự im lặng. Họ sẽ nói và làm bất cứđiều gì để lấp đầy nó.

Trang 13


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT


TÀI LIỆU THAM KHẢO



Arasteh, H., Enayati, T., Zameni, F., & Khademloo, A. (2012). Entrepreneurial Personality
Characteristics of University Students: A Case Study. Procedia - Social and Behavioral Sciences,



46, 5736–5740. doi:10.1016/j.sbspro.2012.06.507
Boissin, J.-P., Branchet, B., Emin, S., & Herbert, J. I. (2009). Students and Entrepreneurship: A
Comparative Study of France and the United States. Journal of Small Business &



Entrepreneurship, 22(2), 101–122. doi:10.1080/08276331.2009.10593445
Brandstätter, H. (2011). Personality aspects of entrepreneurship: A look at five meta-analyses.
Personality and Individual Differences, 51(3), 222–230. doi:10.1016/j.paid.2010.07.007



Chand, M., & Ghorbani, M. (2011). National culture, networks and ethnic entrepreneurship: A
comparison of the Indian and Chinese immigrants in the US. International Business Review,
20(6), 593–606. doi:10.1016/j.ibusrev.2011.02.009



Ghasemi, F., Rastegar, A., Jahromi, R. G., & Marvdashti, R. R. (2011). The relationship between
creativity and achievement motivation with high school students’ entrepreneurship. Procedia Social and Behavioral Sciences, 30, 1291–1296. doi:10.1016/j.sbspro.2011.10.250




Gupta, V. K., & Bhawe, N. M. (2007). The Influence of Proactive Personality and Stereotype
Threat on Women’s Entrepreneurial Intentions. Journal of Leadership & Organizational Studies,
13(4), 73–85. doi: 10.1177/10717919070130040901



Haynie, J. M., Shepherd, D., Mosakowski, E., & Earley, P. C. (2010). A situated metacognitive
model of the entrepreneurial mindset. Journal of Business Venturing, 25(2), 217–229.
doi:10.1016/j.jbusvent.2008.10.001



Huber, L. R., Sloof, R., & Van Praag, M. (2014). The effect of early entrepreneurship education:
Evidence

from

a

field

experiment.

European

Economic


Review,

72,

76–97.

doi:10.1016/j.euroecorev.2014.09.002

Trang 14


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT


Kuckertz, A., & Wagner, M. (2010). The influence of sustainability orientation on entrepreneurial
intentions - Investigating the role of business experience. Journal of Business Venturing, 25(5),
524–539. doi:10.1016/j.jbusvent.2009.09.001



Mathisen, J. E., & Arnulf, J. K. (2013). Competing mindsets in entrepreneurship: The cost of
doubt.

International

Journal

of

Management


Education,

11(3),

132–141.

doi:10.1016/j.ijme.2013.03.003


Nicolaou, N., & Shane, S. (2010). Entrepreneurship and occupational choice: Genetic and
environmental influences. Journal of Economic Behavior & Organization, 76(1), 3–14.
doi:10.1016/j.jebo.2010.02.009



Pablo-Lerchundi, I., Morales-Alonso, G., & González-Tirados, R. M. (2015). Influences of
parental occupation on occupational choices and professional values. Journal of Business
Research. doi:10.1016/j.jbusres.2015.02.011



Pruett, M., Shinnar, R., Toney, B., Llopis, F., & Fox, J. (2009). Explaining entrepreneurial
intentions of university students: a cross-cultural study. International Journal of Entrepreneurial
Behaviour & Research, 15(6), 571– 594. doi:10.1108/13552550910995443



Rae, D., & Woodier-Harris, N. R. (2013). How does enterprise and entrepreneurship education
influence postgraduate students’ career intentions in the New Era economy? Education +

Training, 55(8/9), 926–948. doi:10.1108/ET-07-2013-0095



Schwarz, E. J., Wdowiak, M. a., Almer-Jarz, D. a., & Breitenecker, R. J. (2009). The effects of
attitudes and perceived environment conditions on students’ entrepreneurial intent: An Austrian
perspective. Education + Training, 51(4), 272–291. doi:10.1108/00400910910964566

Trang 15


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT


Sesen, H. (2013). Personality or environment? A comprehensive study on the entrepreneurial
intentions of university students. Education + Training, 55(7), 624–640. doi:10.1108/ET-05-20120059



Shane, S., Locke, E. a., & Collins, C. J. (2003). Entrepreneurial motivation. Human Resource
Management Review, 13(2), 257–279. doi:10.1016/S1053-4822(03)00017-2



Souitaris, V., Zerbinati, S., & Al-Laham, A. (2007). Do entrepreneurship programmes raise
entrepreneurial intention of science and engineering students? The effect of learning, inspiration
and

resources.


Journal

of

Business

Venturing,

22(4),

566–591.

doi:10.1016/j.jbusvent.2006.05.002


Sullivan, D. M., & Meek, W. R. (2012). Gender and entrepreneurship: a review and process
model. Journal of Managerial Psychology (Vol. 27). doi:10.1108/02683941211235373



Turker, D., & Selcuk, S. S. (2009). Which factors affect entrepreneurial intention of university
students?

Journal

of

European

Industrial


Training,

33(2),

142–159.

doi:10.1108/03090590910939049


Wu, S., & Wu, L. (2008). The impact of higher education on entrepreneurial intentions of
university students in China. Journal of Small Business and Enterprise Development, 15(4), 752–
774. doi:10.1108/14626000810917843



Yurtkoru, E. S., Ku?cu, Z. K., & Do?anay, A. (2014). Exploring the Antecedents of
Entrepreneurial Intention on Turkish University Students. Procedia - Social and Behavioral
Sciences, 150, 841–850. doi:10.1016/j.sbspro.2014.09.093



Zhang, Z., Zyphur, M. J., Narayanan, J., Arvey, R. D., Chaturvedi, S., Avolio, B. J., ... arsson, G.
(2009). The genetic basis of entrepreneurship: Effects of gender and personality. Organizational
Behavior and Human Decision Processes, 110(2), 93–107. doi:10.1016/j.obhdp.2009.07.002

Trang 16


Giảng viên: CAO QUỐC VIỆT



Trang web : />


Trang web: tckh.ou.edu.vn/vi/downloadfile?idbaiviet=329


Trang web:

Trang 17



×