Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Tác động của mức độ sở hữu nhà nước đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN KHƯU HUY

TÁC ĐỘNG CỦA MỨC ĐỘ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC
ĐẾN HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN KHƯU HUY

TÁC ĐỘNG CỦA MỨC ĐỘ SỞ HỮU NHÀ NƯỚC
ĐẾN HÀNH VI ĐIỀU CHỈNH LỢI NHUẬN CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP NIÊM YẾT Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS BÙI THỊ MAI HOÀI



TP. Hồ Chí Minh – 2018


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI .......................................................................1
1.1. Đặt vấn đề .......................................................................................................1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu.......................................................................................3
1.3. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................3
1.4. Phạm vi thu thập dữ liệu và đối tượng nghiên cứu .....................................4
1.5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................4
1.6. Kết cấu đề tài ..................................................................................................6
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ......8
2.1. Hành vi quản trị lợi nhuận ............................................................................8
2.1.1. Khái niệm quản trị lợi nhuận ....................................................................8
2.1.2. Phương pháp đo lường hành vi quản trị lợi nhuận..................................10
2.2. Cơ sở lý thuyết ..............................................................................................13
2.2.1. Lý thuyết đại diện....................................................................................13
2.2.2. Bất cân xứng thông tin ............................................................................14
2.3. Các yếu tố quyết định hành vi quản trị lợi nhuận ....................................15
2.3.1. Quy mô doanh nghiệp .............................................................................15
2.3.2. Cơ hội tăng trưởng ..................................................................................16
2.3.3. Đòn bẩy ...................................................................................................16

2.3.4. Lợi nhuận ................................................................................................17


2.2. Bằng chứng thực nghiệm .............................................................................17
CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP HỒI QUY ....26
3.1 Mô hình nghiên cứu ......................................................................................26
3.2. Đo lường biến và kỳ vọng về dấu ................................................................27
3.2.1. Quản trị lợi nhuận ...................................................................................27
3.2.2. Sở hữu nhà nước .....................................................................................30
3.2.3. Kiệt quệ tài chính ....................................................................................31
3.2.4. Quy mô doanh nghiệp .............................................................................31
3.2.5. Cơ hội tăng trưởng ..................................................................................32
3.2.6. Đòn bẩy ...................................................................................................33
3.2.7. Lợi nhuận ................................................................................................33
3.2.8. Thành viên hội đồng quản trị độc lập .....................................................34
3.2.9. Chất lượng kiểm toán ..............................................................................34
3.3. Phương pháp hồi quy ...................................................................................37
3.4. Dữ liệu nghiên cứu .......................................................................................38
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU..............................................................40
4.1. Thống kê mô tả và ma trận tương quan ....................................................40
4.2. Kết quả kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi ......................48
4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu.....................................................................50
CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN ......................................................................................58
5.1 Kết luận ..........................................................................................................58
5.2. Khuyến nghị ..................................................................................................60
5.3. Hạn chế đề tài và hướng nghiên cứu tiếp theo ..........................................62
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT

DIỄN GIẢI

OLS

Phương pháp hồi quy bé nhất

GMM

Phương pháp hồi quy moment tổng quát

HĐQT

Hội Đồng Quản Trị

AR

Auto Regression

2SLS

Phương pháp hồi quy hai bước

BCTC

Báo cáo tài chính

HOSE


Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh

HNX

Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hà Nội

VIF

Hệ số phóng đại phương sai

CFO

Giám đốc tài chính

EPS

Lợi nhuận trên cổ phần


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số thứ tự

Tên Bảng Biểu

1.1

Số lượng doanh nghiệp sở hữu nhà nước tại
hai sàn giao dịch chứng khoán HOSE và HNX


3.1

Mô tả biến

4.1

Thống kê mô tả

4.2

Ma trận tương quan

4.3

Kiểm định đa cộng tuyến bởi hệ số VIF

4.4

Kết quả kiểm định tự tương quan

4.5

Kết quả kiểm định phương sai thay đổi

4.6

Kết quả hồi quy ảnh hưởng của sở hữu nhà
nước đến hành vi quản trị lợi nhuận



TÓM TẮT

Luận văn phân tích tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước đến hành vi quản trị
lợi nhuận của các nhà quản lý của 536 công ty phi tài chính niêm yết ở HOSE và
HNX trong giai đoạn từ 2007 đến 2017. Bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy
GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước đến
hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý doanh nghiệp Việt Nam, luận văn tìm
thấy rằng khi tỷ lệ sở hữu nhà nước ở doanh nghiệp càng gia tăng thì sẽ càng làm
gia tăng khả năng các nhà quản lý doanh nghiệp thực hiện hành vi quản trị lợi
nhuận. Luận văn cho rằng sở hữu nhà nước càng cao có tương quan với cơ chế quản
trị doanh nghiệp yếu kém, hiệu quả hoạt động yếu kém, phân bổ nguồn lực không
hiệu quả và các hành vi phi đạo đức do các yếu tố như quan liêu, thiếu sự cạnh
tranh. Cho nên điều này sẽ làm cho các nhà quản lý của các doanh nghiệp có tỷ lệ
sở hữu nhà nước càng cao sẽ thực hiện các hành vi quản trị lợi nhuận hơn.
Ngoài ra, các yếu tố thể hiện đặc điểm mà luận văn đưa vào mô hình nghiên
cứu nhằm giải thích hành vi quản trị lợi nhuận cũng có tác động đáng kể. Cụ thể,
các doanh nghiệp sử dụng nhiều nợ vay trong cấu trúc vốn, có nhiều lợi nhuận, có
nhiều cơ hội tăng trưởng, được kiểm toán bởi công ty kiểm toán big4 và có tỷ lệ
thành viên HĐQT độc lập càng cao thì các nhà quản lý của các doanh nghiệp này sẽ
có xu hướng thực hiện các hành vi quản trị lợi nhuận. Ngược lại, các doanh nghiệp
đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính, và quy mô càng lớn thì các nhà quản lý của
các doanh nghiệp này sẽ hạn chế thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận.
Từ khóa: Quản trị lợi nhuận, sở hữu nhà nước, đặc điểm công ty, GMM


1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1 Đặt vấn đề
Trong những năm gần đây, hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý đã

thu hút nhiều sự hứng thú và quan tâmcủa các nhà quản trị lẫn các nhà nghiên cứu
trên thế giới (Saleem Salem Alzoubi, 2016). Theo kết quả khảo sát 169 CFO tại các
doanh nghiệp niêm yết và 206 CFO tại các doanh nghiệp phi niêm yết tại thị trường
Mỹ được thực hiện bởi Dichev và các cộng sự (2016), thì có ít nhất 20% doanh
nghiệp đã điều chỉnh lợi nhuận trong báo cáo tài chính, trong đó phần trăm thay đổi
mà các CFO này thường thay đổi là khoảng 10% so với EPS của báo cáo tài chính.
Bên cạnh đó chỉ tiêu lợi nhuận là chỉ tiêu đóng vai quan trọng nhất đối với
một doanh nghiệp bởi các nhà đầu tư có thể đánh giá khả năng hoạt động của một
công ty thông qua chỉ tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, trong môi trường tài chính thiếu
minh bạch như tại Việt Nam, liệu các thông tin về lợi nhuận đó có phản ánh đúng
năng lực của doanh nghiệp hay không? Và người ngoài cuộc khó lòng phát hiện ra
được điều này. Kèm theo đó vấn đề bất cân xứng thông tin đã gây ra nhiều khó khăn
cho các nhà đầu tư khi phải cân nhắc quyết định đầu tư vào công ty nào. Động cơ để
một doanh nghiệp bóp méo lợi nhuận có thể là vì việc thao túng giá cổ phiếu, doanh
nghiệp đang đối mặt với áp lực bên ngoài: công ty bắt buộc phải duy trì một mức
lợi nhuận nào đó ngân hàng mới thực hiện/tiếp tục cấp tín dụn, áp lực từ phía nhà
cung cấp, hoặc do nghiệp vụ phát hành cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO). Mục
đích tư lợi của nhà quản lý cũng là một lý do thường dẫn tới hành vi điều chỉnh lợi.
Các khoản tiền lương thưởng cho các nhà quản trị dựa trên kết quả hoạt động kinh
doanh chính là động cơ khiến cho nhà quản lý muốn làm đẹp báo cáo tài chính bằng
cách việc thực hiện các hành vi quản trị lợi nhuận. Từ đây có thể thấy rằng việc giải
đáp câu hỏi làm thế nào để phát hiện được hành vi điều chỉnh của một công ty là
một điều hết sức cần thiết được tiến hành tại Việt Nam.
Mặt khác, trong giai đoạn vừa qua, Chính phủ đã tiến hành nhiều cuộc thoái
vốn tại các doanh nghiệp sở hữu nhà nước. Kết quả có thể thấy rằng số lượng doanh


2

nghiệp đang niêm yết có mức sở hữu cổ phần của nhà nước cao (tỷ lệ nắm giữ cao

hơn 50%) đang có khuynh hướng suy giảm đáng kể trong những năm 2005 – 2008
(chi tiết trong bảng 1.1). Điều này cho thấy rằng cấu trúc sở hữu của các doanh
nghiệp niêm yết, ở đây là tỷ lệ sở hữu nhà nước, đang có nhiều sự thay đổi đáng kể.
Mặt khác,các bằng chứng thực nghiệm cho rằng cấu trúc sở hữu là yếu tố có tầm
quan trọng đối với quá trình hoạt động của một công ty cũng như có ảnh hưởng
đáng kể đến hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lýcủa công ty do làm thay
đổi quyền quản lý (managerial discretion), vấn đề đại diện cũng như cải thiện thông
tin tài chính của doanh nghiệp (Klein và các cộng sự, 2002; Kent và các cộng sự,
2010; Ali và Zhang, 2015; Agrawal và Cooper, 2016).
Bảng 0.1. Số lượng doanh nghiệp sở hữu nhà nước tại HOSE và HNX
Năm

Sàn giao dịch

Số lượng công ty

Sở hữu nhà nước

2005

HNX

68

35

2005

HOSE


74

28

2006

HNX

47

21

2006

HOSE

35

12

2007

HNX

65

24

2007


HOSE

47

22

2008

HNX

53

19

2008

HOSE

17

3

406

164

TỔNG

Nguồn: FiinPro (2018)



3

Cho nên liệu rằng mức sở hữu cổ phần của nhà nước cao có ảnh hưởng như
thế nào đến hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lýcủa công ty? Nói cách
khác, các doanh nghiệp nhà nước sẽ có hành vi quản trị lợi nhuận khác với các công
ty tư nhân như thế nào là điều cần được kiểm tra. Tuy nhiên, mặc dù chủ đề sở hữu
nhà nước và hành vi quản trị lợi nhuận nhận được nhiều sự lưu ý và quan tâm của
các nhà nghiên cứu trên thế giới, nhưng tại Việt Nam, hầu như rất ít nghiên cứu
phân tích mối quan hệ giữa hai biến số này. Đây chính là lý do mà học viên tiến
hành thực hiện nghiên cứu “Tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước đến hành vi
quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn bao gồm hai mục tiêu:
Đầu tiên, luận văn phân tích tác động của tỷ lệ sở hữu nhà nước đến hành vi
quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2007–
2017.
Đồng thời, luận văn khám phá mối quan hệ giữa các yếu tố đại diện cho đặc
điểm doanh nghiệp và hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty phi tài chính niêm
yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2017.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết hai mục tiêu nghiên cứu mà luận văn đề cập, luận văn tiến
hành trả lời các câu hỏi nghiên cứu sau:
Đầu tiên, tỷ lệ sở hữu nhà nước có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi quản trị
lợi nhuận của các công ty niêm yết ở Việt Nam trong giai đoạn 2007– 2017 hay
không? Nếu có thì ảnh hưởng này cùng chiều (+) hay ngược chiều (-) ?
Thứ hai, các yếu tố đại diện cho đặc điểm doanh nghiệp có tác động đáng kể
đến hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam trong giai



4

đoạn 2007– 2017 hay không? Nếu có thì tác động này là cùng chiều (+) hay ngược
chiều (-) ?
1.4 Phạm vi thu thập dữ liệu và đối tượng nghiên cứu
Phạm vi thu thập dữ liệucủa luận văn bao gồm 536 công ty phi tài chính
niêm yết trên hai sàn giao dịch chứng khoán lớn ở Việt Nam (bao gồm HOSE và
HNX) trong giai đoạn 2007 – 2017.
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn bao gồm (1) hành vi quản trị lợi
nhuận được đo lường thông qua các mô hình đo lường của Jones (1991), Dechow
và các cộng sự (1995), Kothari và các cộng sự (2005) và Roychowdhury (2006) và
(2) tỷ lệ sở hữu nhà nước. Bên cạnh đó, luận văn thực hiện nghiên cứu các đối
tượng đại diện cho đặc điểm doanh nghiệp như quy mô của công ty, tỷ lệ đòn bẩy,
lợi nhuận, cơ hội tăng trưởng, chất lượng kiểm toán, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
và vấn đề kiệt quệ tài chính.
1.5 Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết câu hỏi nghiên cứu “Liệu tỷ lệ sở hữu nhà nước có ảnh hưởng
đáng kể đến hành vi quản trị lợi nhuận hay không?”, luận văn áp dụng mô hình
nghiên cứu của Wang và Yung (2011), Wang và Campbell (2012), Campa và
Camacho – Minano (2015) và Saleem Salem Alzoubi (2016). Cụ thể phương trình
nghiên cứu được trình bày như sau:

Trong đó,
là hành vi quản trị lợi nhuậnđược đo lường dựa vào các phương pháp
tiếp cận của Jones (1991), Dechow và các cộng sự (1995), Kothari và các cộng sự
(2005) và Roychowdhury (2006);


5


là tỷ lệ sở hữu nhà nướcđược tính bởi tỷ lệ cổ phần được nắm giữ bởi
chính phủ;
là biến giả đại diện tình hình kiệt quệ tài chính trong đó biến giả
bằng 01 khi thu nhập hoạt động kinh doanh trước thuế nhỏ hơn chi phí lãi vay của
doanh nghiệp và ngược lại bằng 0.;
là quy mô của công tyđược tính bởi logarithm tự nhiên của giá trị sổ
sách của tổng tài sản của doanh nghiệp;
là đòn bẩy của công ty và được đo lường bằng cách lấy tỷ lệ vay ngắn
hạn và dài hạn so với tổng tài sản của doanh nghiệp;
là lợi nhuận của công ty vàđược tính bởi tỷ lệ lợi nhuận sau thuế so
với tổng tài sản của doanh nghiệp;
là cơ hội tăng trưởng vàđược tính bởi sự thay đổi trong doanh số
thuần của công ty giữa năm t và năm t – 1;
là biến giả đại diện cho chất lượng kiểm toán của công ty với biến giả
bằng 01 khi doanh nghiệp được kiểm toán bởi một trong các công ty kiểm toán
Big4 (PwC, KPMG, Deloitte và Ernst & Young) và ngược lại bằng 0;
là tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập;


là sai số mô hình.

1.6 Kết cấu đề tài
Luận văn bao gồm 05 chương như sau:
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Trong chương này luận văn sẽ thực hiện đề cập lý do lựa chọn đề tài, mục
tiêu và câu hỏi nghiên cứu, cũng như xác định phạm và đối tượng nghiên cứu và
đưa ra mô hình nghiên cứu giải thích hành vi quản trị lợi nhuận mà luận văn áp
dụng.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết vả bằng chứng thực nghiệm



6

Luận văn trình bày khái niệm về quản trị lợi nhuận và các đo lường hành vi
quản trị lợi nhuận. Đồng thời, lý thuyết đại diện và bất cân xứng thông tin được
luận văn đề cập khi giải thích hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý. Cuối
cùng, luận văn tổng quan các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa sở hữu nhà
nước và hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý cũng như các yếu tố quyết
định hành vi quản trị lợi nhuận.
Chương 3. Mô hình nghiên cứu và phương pháp hồi quy
Trong chương 03, luận văn thể hiện dữ liệu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu,
đo lường và các kỳ vọng về dấu của các biến cũng như trình bày phương pháp ước
lượng mà luận văn sẽ sử dụng để ước lượng mô hình nghiên cứu và các kiểm định
cần thiết.
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Chương này thể hiện thống kê mô tả và ma trận tương quan để người đọc
khái quát về dữ liệu nghiên cứu của luận văn. Đồng thời luận văn trình bày các kết
quả kiểm định tự tương quan và phương sai thay đổi. Cuối cùng, kết quả hồi quy
được luận văn thể hiện và thảo luận các kết quả đạt được.
Chương 5. Kết luận
Cuối cùng, luận văn kết luận các phát hiện đạt được từ đó đưa ra một số
khuyến nghị dành cho các nhà quản lý cũng như các nhà hoạch định chính sách. Sau
đó, luận văn đề cập đến các hạn chế mà đề tài vướng phải và hướng nghiên cứu tiếp
theo.


7

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM
2.1 Hành vi quản trị lợi nhuận

2.1.1 Khái niệm quản trị lợi nhuận
Kế toán thường được sử dụng như là công cụ để các công ty có thể truyền đạt
các thông tin nội bộ quan trọng của công ty đến các bên ngoài có liên quan với công
ty (chẳng hạn như các ngân hàng, các nhà đầu tư bên ngoài…), những người mà
dựa vào các thông tin này để đánh giá hiệu quả hoạt động của công ty và từ đó đưa
ra các quyết định sáng suốt. Theo đó các thông tin kế toán có thể được báo cáo cho
các nhà quản lý theo cách tốt nhất và hiệu quả nhất với mục đích phản ánh hiệu quả
hoạt động và giá trị của công ty nhưng phải tuân thủ các yêu cầu của các chuẩn mực
kế toán. Tuy nhiên không phải lúc nào các báo cáo này cũng có thể được sử dụng để
phản ánh chính xác giá trị công ty, mà các báo cáo này có thể được sử dụng với mục
đích cơ hội của các nhà quản lý công ty và do đó sẽ làm gia tăng khả năng thực hiện
hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý của các công ty đối với các báo cáo
tài chính của công ty.
Bên cạnh đó, Canning (1929) đã cho rằng những gì được đặt ra trong bất kỳ
cách đo lường nào của thu nhập ròng không bao giờ có thể được xem là mức thu
nhập thực tế của công ty trong bất kỳ trường hợp nào. Tương tự như vậy, Ball và
Brown (1968) cho rằng thu nhập chỉ được xác định như là kết quả của việc áp dụng
một tập hợp các phương pháp cho một vấn đề mà không có ý nghĩa rõ ràng nào
khác. Ở một mức độ nào đó, quản trị lợi nhuận cũng có thể được xem như là một
sản phẩm của các chiến lược của công ty dùng để giải quyết vấn đề đại diện giữa
các bên liên quan và các nhà quản lý của công ty (Jensen và Meckling, 1976).
Chẳng hạn như các cổ đông muốn các nhà quản lý công ty tối đa hóa giá cổ phiếu
và theo một cách nào đó thì điều này có tương quan dương với thu nhập của công
ty. Do đó, các cổ đông sẽ thiết kế hệ thống đo lường hiệu quả hoạt đồng và các hợp
đồng bồi thường có liên quan đến các nhà quản lý công ty để đảm bảo rằng thu nhập


8

công ty luôn gia tăng để tối đa hóa giá cổ phiếu hay giá trị công ty. Cho nên trong

trường hợp này các nhà quản lý có khả năng thực hiện các hành vi quản trị lợi
nhuận. Khi đó vấn đề đại diện xảy ra giữa các người đại diện (nhà quản lý) và các
người sở hữu (các cổ đông) sẽ có khuynh hướng suy giảm.
Mặc dù các hợp đồng ràng buộc như vậy là cần thiết để giảm thiểu chi phí
đại diện và có thể đo lường hiệu suất làm việc của các nhà quản lý, nhưng các hợp
đồng này có thể gián tiếp khuyến khích các nhà quản lý công ty cố tình thao túng
thu nhập của công ty để đáp ứng mục tiêu thu nhập nhất định hoặc có thể gây ra các
lệch lạc cho các bên liên quan (Dye, 1988; Burgstahler và Dichev, 1997; Healy và
Wahlen, 1999; Trueman và Titman, 1998).
Mặt khác, Schipper và các cộng sự (1980) đã định nghĩa quản trị lợi nhuận
như là một sự can thiệp có mục đích trong quá trình hoàn thành báo cáo tài chính
cho các đối tượng bên ngoài nhằm mục đích đạt được một số lợi ích cá nhân. Theo
cách định nghĩa này, quản trị lợi nhuận có thể xảy ra trong bất kỳ phần nào của quá
trình tiết lộ thông tin ra bên ngoài và có thể thể hiện ở một số dạng khác nhau. Một
phần mở rộng nhỏ của định nghĩa này là bao gồm quản trị lợi nhuận “thực” được
thực hiện bằng cách điều chỉnh quyết định đầu tư và quyết định tài trợ để thay đổi
báo cáo tài chính hoặc một số báo cáo phụ có liên quan.
Tương tự như vậy, Healy và Wahlen (1999) đã khám pháquản trị lợi nhuận
bằng việc cho rằng quản trị lợi nhuận xảy ra khi người quản lý sử dụng các phán
quyết (judgment) trong quá trình lập báo cáo tài chính và cơ cấu các giao dịch để
thay đổi báo cáo tài chính nhằm mục đích đánh lừa các đối tượng bên ngoài có liên
quan với công ty ở góc độ hiệu quả hoạt động của công ty.
Nhìn chung, từ các định nghĩa đã đề cập, có thể thấy rằng quản trị lợi nhuận
có liên quan đến việc thực thi kế toán theo các tiêu chuẩn và quy tắc kế toán và về
bản chất thì quản trị lợi nhuận có thể lệch khỏi ý nghĩa của các quy tắc này. Các
định nghĩa này đã nêu bật lên một số động cơ quan trọng để người quản lý tiến hành


9


quản trị lợi nhuận, bao gồm cả quản trị lợi nhuận dựa trên phương pháp kế toán dồn
tích và thu nhập thực, chẳng hạn như khuyến khích các nhà quản lý thực hiện để đạt
được các lợi ích cá nhân, lừa gạt các bên liên quan.
2.1.2 Phương pháp đo lường hành vi quản trị lợi nhuận
Hành vi quản trị lợi nhuận được nghiên cứu đo lường qua các phương pháp
đo lường của Jones (1991), Dechow và các cộng sự (1995), Kothari và các cộng sự
(2005) và Roychowdhury (2006).
Hành vi quản trị lợi nhuận được nghiên cứu đo lường qua các phương pháp
đo lường của Jones (1991), Dechow và các cộng sự (1995), Kothari và các cộng sự
(2005) và Roychowdhury (2006).


Phương pháp đo lường củaJones (1991)

Bước 1: Xác định hệ số hồi quy của biến dồn tích bình thường bằng cách sử
dụng mô hình hồi quy tuyến tính sau

Trong đó:
 TA: Tổng dồn tích (total accruals) = Lợi nhuận sau thuế - Dòng tiền thuần từ
hoạt động kinh doanh
 REV: Doanh số thuần (revenues)
 PPE: Nguyên giá của tài sản cố định hữu hình (Property, plant and
equipment)
Bước 2: Xác định biến dồn tích bình thường (Không thể điều chỉnh) bằng
cách sử dụng các hệ số hồi quy từ phương trình trên, thế vào công thức:


10

 NDA: Dồn tích bình thường (Non-discretionary – Biến dồn tích không thể

điều chỉnh)
Bước 3: Xác định hành vi quản trị lợi nhuận



Phương pháp đo lường củaDechow và các cộng sự (1995)

Dựa trên mô hình của Jones (1991), Dechow và các cộng sự (1995) cải tiến
mô hình Jones (1991) như sau:

Trong đó,

là sự thay đổi trong tài khoản nợ phải thu.

Sau khi xác định biến dồn tích bình thường NDA, hành vi quản trị lợi nhuận
được xác định như sau:



Phương pháp đo lường củaKothari và các cộng sự (2005)

Các tài liệu trước đây tìm ra khuyến điểm của các mô hình dồn tích có điều
chỉnh (discretionary accrual models) khi được sử dụng với các doanh nghiệ có kết
quả hoạt động kinh doanh tương đối tốt. Cho nên, các nghiên cứu sau này đã đưa ra
mô hình mới đo lường mức độ dồn tích có điều chỉnh có liên kết với hiệu quả hoạt
động kinh doanh của công ty (performance-matched discretionary accrual measure).
Dựa vào mô hình Jones (1991) và mô hình Dechow và các cộng sự (1995),
Kothari và các cộng sự (2005) đã phát triển mô hình sau:



11

Trong đó,

là tỷ lệlợi nhuận sau thuế so với giá trị sổ sách của tổng tài

sản ở năm t-1.
Sau khi xác định biến dồn tích bình thường NDA, hành vi quản trị lợi nhuận
được xác định như sau:



Phương pháp đo lường củaRoychowdhury (2006)

-

Mô hình dòng tiền bất thường: RM_CFO

-

Mô hình chi phí sản xuất bất thường: RM_PROD

-

Mô hình chi phí hữu ích bất thường: RM_DISEXP

Trong đó:


thể hiện dòng tiền từ hoạt động kinh doanh của công tyI tại thời điểm t




là giá trị sổ sách của tổng tài sản của công ty i trong năm t-1



là doanh sốthuần của công tyi trong năm t



là doanh sốthuần của công tyI trong năm t trừ đi doanh sốthuần trong
năm t-1



là doanh sốthuần của công tyI trong năm t – 1



là tổng giá vốn hàng bán của công ty i trong năm t


12



là tổngchi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí sản xuất chung và chi
phí bán hàng của công ty i trong năm t.
Sau khi hồi quy ba mô hình RM_CFO, RM_PROD, RM_DISEXP theo hồi


quy dữ liệu bảng (panel data), luận văn tiến hành tính phần dư EM4, EM5, EM6 từ
3 mô hình trên để đại diện cho hành vi quản trị lợi nhuận tương tự như cách làm ở
03 mô hình trên.
2.2 Cơ sở lý thuyết
2.2.1 Lý thuyết đại diện
Theo các nghiên cứu trước đây, vấn đề đại diện xuất phát từ sự phân tách
giữa quyền sở hữu (ownership) và quyền kiểm soát (control) ở các doanh nghiệp cổ
phần (Fama và Jensen, 1963; Jensen và Meckling, 1976). Ở nhiều tổ chức, các nhà
quản lý sẽ thực hiện các quyền kiểm soát và do đó các nhà quản lý sẽ thực hiện các
quyết định có liên quan đến tất cả các chính sách của doanh nghiệp và thay mặt cho
các cổ đông của công ty, những người nắm giữ quyền sở hữu của công ty. Tuy
nhiên, đôi khi sự phân tách quyền sở hữu và quyền kiểm soát lại gây ra mâu thuẫn
lợi ích của các bên liên quan, và cho nên sẽ thúc đẩy động cơ điều chỉnh lợi nhuận
của các nhà quản lý công ty. Bên cạnh đó, mục tiêu chính của các cổ đông của công
ty nhằm tối đa hóa giá trị của công ty, nhưng lợi ích của các cổ đông đôi khi không
giống với mục đích của các nhà quản lý nắm giữ ít cổ phần trong công ty và ưa
thích xây dựng “đế chế” (empire) cho họ dựa vào chi phí của các cổ đông (chẳng
hạn như đầu tư quá mức…). Tương tự vậy, Smith (1776) cho rằng các nhà quản trị
đang điều hành công ty dựa trên tiền của người khác thay vì dựa vào tiền của họ, do
đó, các nhà quản lý này sẽ không hành xử đúng cách và cống hiến nhiều cho công
ty như mong muốn của các chủ sở hữu (cổ đông của công ty). Đồng thời, để có thể
duy trì vị trí hiện tại của các nhà quản lý, các nhà quản lý sẽ sẵn lòng thể hiện một
bức tranh đẹp về tình hình tài chính hiện tại của công ty cho các cổ đông của các
công ty. Khi đó khả năng quản lý thu nhập hay điều chỉnh lợi nhuận của các nhà
quản lý công ty có thể gia tăng.


13


Tuy nhiên, nếu cổ phần được nắm giữ bởi các nhà quản lý của công ty, mục
tiêu của các nhà quản lý và cổ đông sẽ được điều chỉnh và khả năng quản lý thu
nhập sẽ ít xảy ra hơn bởi vì lợi ích của người quản lý và cổ đông có phần như nhau.
Teshima và Shuto (2008) cho rằng khi các nhà quản lý nắm giữ cổ phần của công ty
thì tồn tại hiệu ứng liên kết động cơ(incentive alignment effect) và hiệu ứng liên kết
động cơ này được kỳ vọng sẽ có tác động nhiều hơn khi mức độ sở hữu của các nhà
quản lý tăng lên. Lập luận của các tác giả này cho thấy rằng hiệu quả hoạt động của
doanh nghiệp được cải thiện và hành vi quản lý cơ hội sẽ suy giảm khi quyền sở
hữu quản lý tăng lên trong công ty. Nhưng, khi mức độ sở hữu của các nhà quản lý
chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu sở hữu của công ty thì sẽ làm gia tăng khả năng
quản lý thu nhập của các nhà quản lý ở các công ty này bởi vì mức độ sở hữu càng
lớn càng cung cấp cho các nhà quản lý sức mạnh chi phối doanh nghiệp cao hơn và
cho nên sẽ gây ra hành vi quản lý cơ hội (Morck và các cộng sự, 1988).
2.2.2 Bất cân xứng thông tin
Vấn đề bất cân xứng thông tin được coi là một yếu tố giải thích cho khả năng
quản lý thu nhập của các nhà quản lý của công ty. Vấn đề bất cân xứng thông tin
giúp các nhà quản lý của công ty có thể quản lý thu nhập vì các nhà đầu tư sẽ gặp
nhiều khó khăn để xác định được mức độ thao tác lợi nhuận ở các doanh nghiệp
thiếu thông tin có sẵn (Liu và các cộng sự, 2010). Hơn thế nữa, khi vấn đề bất cân
xứng thông tin tương đối cao, các bên liên quan của công ty (chẳng hạn như ngân
hàng…) có thể thiếu nguồn lực, động cơ hoặc khả năng truy cập thông tin liên quan
để cho phép các bên liên quan có thể theo dõi các hành động của các nhà quản lý,
và cho nên sẽ dẫn đến khả năng quản lý thu nhập của các nhà quản lý của các công
ty này (Richardson, 2000).
Bên cạnh đó, Jiraporn và các cộng sự (2008) cho rằng mức độ bất cân xứng
thông tin càng cao sẽ có thể làm cho các cổ đông hiện hữu của công ty gặp khó
khăn hơn trong việc theo dõi hành vi của các nhà quản lý, điều này giúp các nhà


14


quản lý dễ dàng hơn trong việc lạm dụng quyền kiểm soát của họ đối với báo cáo tài
chính. Ngoài ra, Al-Fayoumi và các cộng sự(2010) cho rằng với sự gia tăng mức độ
sở hữu của các nhà đầu tư tổ chức trong một công ty, vấn đề bất đối xứng thông tin
giữa các nhà quản lý và cổ đông sẽ giảm bởi vì các nhà đầu tư tổ chức tinh vi hơn
và thông tin tốt hơn các nhà đầu tư cá nhân, do đó các công ty này sẽ có mức quản
lý thu nhập thấp hơn so với các công ty khác.
2.3 Các yếu tố quyết định hành vi quản trị lợi nhuận
2.3.1 Quy mô doanh nghiệp
Hầu hết các nghiên cứu phân tích các yếu tố quyết định hành vi quản trị lợi
nhuận đều đưa biến quy mô công ty vào trong mô hình nghiên cứu. Johnson và các
cộng sự (2002) chi ra rằng sự phức tạp của hệ thống báo cáo tài chính sẽ có sự khác
biệt theo quy mô của công ty khi các công ty có quy mô lớn sẽ tăng trưởng tốt hơn
và đa dạng hóa tốt hơn các công ty có quy mô nhỏ. Bushmen và các cộng sự (2004)
nhấn mạnh tầm quan trọng của quy mô công ty trong cấu trúc sở hữu của doanh
nghiệp. Các tác giả chỉ ra rằng vấn đề bất cân xứng thông tin giữa các nhà quản trị
và cổ đông sẽ tương đối cao hơn ở các công ty có quy mô lớn so với các công ty có
quy mô nhỏ do sự phức tạp trong cấu trúc sở hữu của các công ty có quy mô lớn.
Đồng thời, các tác giả cũng lập luận rằng nhu cầu về quản trị doanh nghiệp được kỳ
vọng cao hơn ở các công ty có quy mô lớn so với các công ty có quy mô nhỏ hơn.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của quy mô công ty đến hành vi quản trị lợi nhuận thì chưa
rõ ràng. Một mặt, Dechow và Dichev (2002) tìm thấy mối quan hệ cùng chiều giữa
chất lượng dồn tích và quy mô công ty. Điều này chỉ ra rằng các công ty có quy mô
lớn có chất lượng dồn tích ổn định hơn. Choi và Lee (2002) tìm thấy bằng chứng
thực nghiệm cho rằng các công ty có quy mô nhỏ có động cơ quản trị lợi nhuận cao
hơn để tránh báo cáo lỗ hơn so với các công ty có quy mô lớn. Mặt khác, Lobo và
Zhou (2006) lập luận rằng các công ty có quy mô lớn sẽ có nhiều cơ hội để quản trị
lợi nhuận của họ hơn so với các công ty có quy mô nhỏ do các đối tượng bên ngoài
khó có thể phát hiện việc quản trị lợi nhuận trong hệ thống báo cáo tài chính phức



15

tạp. Phù hợp với quan điểm này, Moses (1987) cho rằng các công ty có quy mô lớn
điều chỉnh lợi nhuận nhiều hơn so với các công ty có quy mô nhỏ.
2.3.2 Cơ hội tăng trưởng
Các nghiên cứu trước đây tìm thấy bằng chứng thực nghiệm cho rằng các
nhà quản lý của công ty sẽ thực hiện các hành vi quản trị lợi nhuận để tránh xu
hướng tăng trưởng tiêu cực (Bartov, 1993; Wild, 1996). Tương tự thế, Nagar (2002)
cũng tìm thấy kết quả cho thấy rằng các nhà quản trị tránh xu hướng tiêu cực bởi vì
các nhà quản trị sẽ đạt được lợi ích nhất định khi công ty đạt được mục tiêu đề ra.
Tuy nhiên, Abdul Rahman và Haneem Mohamed (2006) và Bowen và các cộng sự
(2008) đề nghị một hướng khác. Kết quả của các nghiên cứu này cho thấy rằng cơ
hội tăng trưởng thể hiện mối tương quan ngược chiều với biến kế toán dồn tích có
thể điều chỉnh bởi các nhà quản trị (discretionary accruals). Hơn thế nữa, Gunny
(2010) tìm thấy rằng các công ty có tốc độ tăng trưởng cao thì ít có hành vi gian lận
báo cáo tài chính thông qua việc quản trịlợi nhuận đến từ các hoạt động thực.
2.3.3 Đòn bẩy
Bartov (1993) và DeFond và Park (1994) tìm thấy mối quan hệ cùng chiều
giữa mức độ đòn bẩy của các công ty và hành vi quản trị lợi nhuận. Các tác giả cho
rằng các công ty đối mặt với tình trạng kiệt quệ tài chính hoặc đang có gánh nặng
lãi vay càng cao thì sẽ có động cơ để tiến hành các hành vi quản trị lợi nhuận của
mình. Ngược lại, Balsam và các cộng sự (2005) cho rằng có mối tương quan ngược
chiều mức độ đòn bẩy và hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty. Do đó, ảnh
hưởng của đòn bẩy đến hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý của các công
ty vẫn chưa rõ ràng.
2.3.4 Lợi nhuận
Lợi nhuận của công ty và hành vi quản trị lợi nhuận được cho rằng có mối
quan hệ đáng kể với nhau. Cụ thể, Kirschenheiter và Melumad (2002) đã cho rằng



16

lợi nhuận được công bố cho phép các nhà đầu tư có thể đánh giá được lợi nhuận
trong tương lai của công ty. Do đó, việc duy trì mức độ biến động ở mức nhỏ nhất
có thể giúp cải thiện sự kỳ vọng của các nhà đầu tư về tình hình hoạt động của công
ty trong tương lai. Phản ứng lại tình huống này, các công ty đang đối mặt với sự gia
tăng (sự suy giảm) trong lợi nhuận có thể thực hiện các hành vi quản trị lợi nhuận
giảm xuống (gia tăng) để duy trì mức độ lợi nhuận không quá biến động. Điều này
có thể giúp giá cổ phiếu của các công ty gia tăng trong ngắn hạn, và do đó làm gia
tăng động cơ của các nhà quản trị làm trơn (smooth) lợi nhuận (Hunt và các cộng
sự, 1997; Trueman và Titman, 1988). Theo đó, có thể thấy rằng các công ty có dòng
tiền thặng dư sẽ có hành vi quản trị lợi nhuận giảm và ngược lại các công ty có
dòng tiền cạn kiệt có xu hướng điều chỉnh gia tăng thu nhập của mình.
2.4 Bằng chứng thực nghiệm
Ding và các cộng sự (2007) tiến hành nghiên cứu hành vi quản trị lợi nhuận
giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động ở
Trung Quốc. Để giải quyết mục tiuee nghiên cứu này các tác giả đã thực hiện thu
thập mẫu nghiên cứu bao gồm 273 doanh nghiệp niêm yết ở Trung Quốc vào năm
2002. Trong mô hình này các tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu của Jones (1991)
để đo lường hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý doanh nghiệp, đồng thời
các tác giả đưa thêm các yếu tố như quy mô doanh nghiệp, đòn bẩy, mức độ sở hữu
của cổ đông lớn nhất và biến giả đại cho công ty là công ty tư nhân vào mô hình
nghiên cứu để giải thích hành vi quản trị lợi nhuận. Bằng cách sử dụng phương
pháp hồi quy OLS, nghiên cứu tìm thấy rằng các doanh nghiệp tư nhân sẽ thực hiện
nhiều hành vi quản trị lợi nhuận vào năm các doanh nghiệp này niêm yết hơn so với
các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, nghiên cứu của các giả cũng t́m thấy mối
quan hệ h́nh chữ U ngược giữa mức độ sở hữu của cổ đông lớn nhất và hành vi
quản trị lợi nhuận của các nhà quản lý công ty.
Wang và Yung (2011) đã nghiên cứu tác động của sở hữu nhà nước đến hành

vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp ở Trung Quốc với hành vi quản trị lợi


17

nhuận của các doanh nghiệp được đo lường bởi mô hình đo lường của Dechow và
Dichev (2002). Bằng cách sử dụng số liệu được thu thập từ các báo cáo tài chính
của 557 doanh nghiệp niêm yết ở Trung Quốc từ năm 1998 đến 2006, kết hợp với
việc sử dụng các biến số khác như quy mô doanh nghiệp, cơ hội tăng trưởng, đòn
bẩy, lợi nhuận như là các biến độc lập có ảnh hưởng đến hành vi quản trị lợi nhuận
của các doanh nghiệp ở Trung Quốc, nghiên cứu của các tác giả tìm thấy rằng tỷ lệ
sở hữu nhà nước làm giảm hành vi quản trị lợi nhuận, nói cách khác tỷ lệ sở hữu
nhà nước càng cao có xu hướng giúp các doanh nghiệp ngăn cản hành vi quản trị lợi
nhuận của các nhà quản trị. Đồng thời, quy mô doanh nghiệp càng lớn cũng sẽ làm
giảm hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản trị. Ngược lại, các biến số khác
như cơ hội tăng trưởng càng nhiều, đòn bẩy càng cao và lợi nhuận càng cao sẽ càng
thúc đẩy hành vi quản trị lợi nhuận của các nhà quản trị.
Naz và các cộng sự (2011) đã nghiên cứu mức độ tác động của quy mô
doanh nghiệp và cấu trúc vốn đến hành vi quản trị lợi nhuận của 75 doanh nghiệp ở
Pakistan trong giai đoạn 2006 – 2010. Bằng cách sử dụng tổng tài sản làm đại diện
cho quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ đòn bẩy tài chính để đo lường cấu trúc vốn doanh
nghiệp và biến kế toán dồn tích chính làm đại diện cho hành vi quản trị lợi nhuận.
Qua đó, bài nghiên cứu của các tác giả đã sử dụng mô hình của Jones (1991) nhằm
mục đích đo lường hành vi quản trị lợi nhuậncủa các doanh nghiệp và kết quả chỉ ra
rằng cấu trúc vốn có tương quan âm với hành vi quản trị lợi nhuận. Cho nên các tác
giả cho rằng các doanh nghiệp có đòn bẩy cao thì các chủ nợ sẽ đóng vai trò như cơ
quan giám sát quản lý hành vi quản trị lợi nhuận.
Wang và Campbell (2012) đã sử dụng số liệu của 1329 doanh nghiệp niêm
yết ở Trung Quốc từ năm 1998 – 2009 để nghiên cứu tác động của sở hữu nhà nước
và hội đồng quản trị đến hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp. Qua đó

các tác giả tìm thấy rằng, sở hữu nhà nước càng cao càng làm giảm hành vi quản trị
lợi nhuận của các nhà quản trị, nói cách khác các doanh nghiệp nhà nước ít có
khuynh hướng bóp méo thu nhập. Đồng thời, số lượng thành viên hội đồng quản trị


18

độc lập có thể giúp các doanh nghiệp giảm thiểu hành vi quản trị lợi nhuậncác nhà
quản trị.
Madani và các cộng sự (2013) tiến hành nghiên cứu nhằm phân tích tác động
của cơ chế quản trị doanh nghiệp đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty,
trong đó cơ chế quản trị doanh nghiệp được các tác giả xác định như là cấu trúc sở
hữu bao gồm tỷ lệ sở hữu nhà nước, sở hữu gia đình và sở hữu tổ chức. Để giải
quyết được mục tiêu nghiên cứu này, các tác giả đã tiến hành thu thập mẫu nghiên
cứu bao gồm 102 doanh nghiệp niêm yết ở Iran trong giai đoạn 2003 – 2010. Đồng
thời, trong nghiên cứu này, các tác giả sử dụng mô hình của McNichols (2002) để
đo lường hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp có trong mẫu nghiên cứu.
Bằng cách sử dụng phương pháp hồi quy OLS, cụ thể mô hình ảnh hưởng cố định,
để ước lượng mô hình nghiên cứu, nghiên cứu này tìm thấy rằng cấu trúc sở hữu
không có tác động đáng kể đến hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty ở mức ý
nghĩa thống kê 10%. Kết quả này cho thấy rằng cấu trúc sở hữu chưa thật sự đóng
vai trò quan trọng trong việc xác định hành vi quản trị lợi nhuận của các công ty.
Tuy nhiên, nghiên cứu của các tác giả lại tìm thấy rằng các đặc điểm doanh nghiệp
có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp. Cụ thể,
đòn bẩy, quy mô doanh nghiệp và cơ hội tăng trưởng đều có mối tương quan âm với
hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp ở mức ý nghĩa thống kê 10%.
Swastika (2013) đã phân tích tác động của các yếu tố quản trị doanh nghiệp,
quy mô doanh nghiệp đến hành vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp được
niêm yết ở Indonesia. Trong đó, tác giả đã sử dụng số lượng thành viên hội đồng
quản trị, tính độc lập của Hội đồng quản trị, quy mô doanh nghiệp và chất lượng

của công ty kiểm toán đóng vai trò như các biến độc lập có ảnh hưởng đến hành vi
quản trị lợi nhuận. Đồng thời, tác giả đã áp dụng mô hình của Dechow (1995) để đo
lường hành vi quản trị lợi nhuận. Qua đó, nghiên cứu của tác giả tìm thấy rằng các
biến về hội đồng quản trị có tương quan dương với hành vi quản trị lợi nhuận, chất
lượng của công ty kiểm toán và quy mô doanh nghiệp có tương quan âm với hành
vi quản trị lợi nhuận của các doanh nghiệp.


×