Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tranh chấp lao động, cách giải quyết tranh chấp .Trình bầy một vụ tranh chấp lao động được giải quyết tại DN hoặc tại cơ quan lao động huyện hoặc tòa án.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.64 KB, 24 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Từ lâu, khoa học luật lao động đã quan tâm nghiên cứu về tranh chấp
lao động và đã có được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên để hiểu được một
cách sâu sắc về tranh chấp lao động thì cần phải có sự nghiên cứu sâu rộng
hơn nhằm mổ xẻ những khiá cạnh căn bản của tranh chấp lao động và
nghiên cứu những vấn đề liên quan trong tổng thể các vấn đề kinh tế – xã
hội là cơ sở nảy sinh các tranh chấp cũng như cơ chế pháp luật đIều chỉnh
quan hệ tranh chấp .
Với mong muốn được nghiên cưu vấn đề này, đặc biệt ở khía cạnh sử
dụng cơng cụ pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp lao động, từ đó
mạnh dạn đề suất những kiến nghị nhằm từng buớc hoàn thiện hệ thống
pháp luật về tranh chấp lao động, tôi đã chọn cho mình đề tài “Tranh chấp
lao động, cách giải quyết tranh chấp .Trình bầy một vụ tranh chấp lao
động được giải quyết tại DN hoặc tại cơ quan lao động huyện hoặc tòa
án“. Bài viết này đề cập một số nội dung nhằm làm rõ hơn những vuớng
mắc đó để trao đổi cùng bạn đọc.
Nội dung đề tài đươc trình bày qua 4 phần :
Phần I. Những vấn đề chung về tranh chấp lao động.
Phần II. Giải quyết tranh chấp lao động.
Phần III. Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động và thực tiễn về
một vụ tranh chấp lao động xảy ra ở DN vàng bạc đá quý ACT.
Phần IV. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp lao động :
Có thể khẳng định rằng, đây là một đề tài phức tạp và khó. Trong điều
kiện khả năng cịn hạn chế của một sinh viên cả về điều kiện nghiên cứu và
kinh nghiệm thực tiễn, chắc chắn bài tiểu luận sẽ khơng tránh khỏi những
hạn chế và khiếm khuyết. Do đó, tơi rất mong muốn nhận được sự góp ý,
phê bình của thầy cơ, các nhà chun mơn cùng tồn thể bạn đọc quan tâm
đến đề tài này.
1



PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
1. Khái niệm tranh chấp lao động (TCLĐ ).
Tranh chấp lao động (TCLĐ) là hiện tượng kinh tế – xã hội tất yếu
trong đời sống lao động ở bất kì quốc gia nào. Điều này xuất phát chủ yếu từ
sự khác nhau về lợi ích của 2 bên chủ thể tham gia quan hệ lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ lao động chủ yếu được thiết lập
qua hình thức hợp đồng lao động theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình
đẳng giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ).
Thực chất đây là quan hệ hợp tác cùng có lợi, trên cơ sở hiểu biết và quan
tâm lẫn nhau để cùng đạt được lợi ích mà mỗi bên đã đặt ra. Song, chính do
mục tiêu đạt được lợi ích tối đa là động lực trực tiếp của cả 2 bên, mà giữa
họ khó có thể dung hịa được quyền lợi trong suốt qúa trình thực hiện quan
hệ lao động. Hơn nữa, quan hệ lao động thường là quan hệ tương đối lâu dài
cho nên trong qúa trình duy trì quan hệ, việc lúc này hay lúc khác có thể xảy
ra những bất đồng, mâu thuẫn giữa các bên cũng là điều dễ lí giải. Người lao
động thường có nhu cầu tăng lương, gỉam thời gian lao động và được làm
việc trong điều kiện lao động ngày càng tốt hơn….người sử dụng lao động
lại ln có xu hướng tăng cường độ, thời gian làm việc, giảm chi phí nhân
cơng…nhằm đạt được lợi nhuận cao hơn. Những lợi ích ngược chiều này sẽ
trở thành những bất đồng, mâu thuẫn nếu 2 bên khơng biết dung hịa quyền
lợi với nhau. Do đó, sự phát sinh tranh chấp lao động giữa người lao động
và người sử dụng lao động là một điều khó tránh khỏi.
Hiên nay, tuy giải quyết tranh chấp lao động được qui định trong pháp
luật của hầu hết các nước trên thế gíơi, nhưng tùy theo đặc điểm kinh tế,
chính trị, xã hội của từng nước mà khái niệm tranh chấp lao động được hiểu
khác nhau .
2



Tại Việt Nam vấn đề tranh chấp đã được qui định ở ngay những văn
bản đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa dưới thuật ngữ “việc
kiện tụng “, “việc xích mích” (sắc lệnh số 29-SL ,ngày 12/3/1947). Tuy
nhiên, chỉ đến khi có bộ luật lao động (23/6/1994) thì mới có định nghĩa
chính thức về tranh chấp luật lao động.
Điều 157 BLLĐ qui định về TCLĐ ,trong đó khoản 1 đề cập khái
niệm tranh chấp lao động về mặt nội dung (hoặc đối tượng tranh
chấp ).Theo đó, xét về mặt nội dung thì “TCLĐ là những tranh chấp về
quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các Điều
kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước tập thể và
trong qúa trình học nghề". Đây là một định nghĩa tương đối hồn chỉnh bởi
vì nó khơng những chỉ ra được nội dung tranh chấp mà còn phân biệt được
các đối tượng tranh chấp .
2 . Đặc điểm của tranh chấp lao động :
Tranh chấp lao động phát sinh tồn tại gắn liền với quan hệ lao động .
Mối quan hệ này thể hiện ở hai điểm cơ bản : Các bên tranh chấp bao giờ
cũng là chủ thể của quan hệ lao động và đối tượng tranh chấp chính là nội
dung của quan hệ lao động đó . Trong q trình thực hiện quan hệ lao động ,
có nhiều lý do để các bên không thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ đã được thống nhất ban đầu . Ví dụ , một trong hai bên chỉ quan
tâm đến lợi ích riêng của mình , hoặc điều kiện thực hiện hợp đồng , thoả
ước đã thay đổi làm cho những quyền và nghĩa vụ đã xác định khơng cịn
phù hợp , hoặc cũng có thể do trình độ xây dựng hợp đồng và sự hiểu biết về
pháp luật còn hạn chế dẫn đến các bên không hiểu đúng các qui định của
pháp luật , các thoả thuận trong hợp đồng …
Tranh chấp lao động không chỉ là những tranh chấp về quyền , nghĩa vụ



mà còn bao gồm cả những tranh chấp về quyền và lợi của các bên trong

quan hệ lao động . Thực tế , hầu hết các tranh chấp khác ( như tranh chấp
dân sự ) thường xuất phát từ sự vi phạm pháp luật , vi phạm hợp đồng hoặc
3


do không hiểu đúng quyền và nghĩa vụ đã được xác lập mà dẫn đến tranh
chấp . Riêng tranh chấp lao động có thể phát sinh trong trường hợp khơng có
vi phạm pháp luật . Đặc điểm này bị chi phối bởi bản chất quan hệ lao động
và cơ chế điều chỉnh của pháp luật . Trong nền kinh tế thị trường các bên
của quan hệ lao động được tự do thương lượng , thoả thuận hợp đồng , thoả
ước phù hợp với quy luật của pháp luật cũng như khả năng đáp ứng của mỗi
bên . Quá trình thoả thuận thương lượng đó khơng phải bao giờ cũng đạt kết
quả . Ngay cả khi đạt kết quả thì những nội dung đã thoả thuận được cũng
có thể trở thành không phù hợp do các yếu tố mới phát sinh tại thời điểm
tranh chấp



Tính chất và mức độ của tranh chấp lao động luôn phụ thuộc
vào quy mô và số lượng tham gia của một bên tranh chấp là người
lao động.
Sự ảnh hưởng của nó đến hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ ở mức độ



hạn chế nên thường được xem là ít nghiêm trọng. Nhưng nếu trong một thời
điểm, có nhiều người lao động cùng tranh chấp với người sử dụng lao động,
những tranh chấp đó lại cùng nội dung và nhất là khi những người lao động
này cùng liên kết với nhau thành một tổ chức thống nhất để đấu tranh địi
quyền lợi chung thì những tranh chấp lao động đó đã mang tính tập thể. Mức

độ ảnh hưởng của tranh chấp tập thể tuỳ thuộc vào phạm vi xảy ra tranh
chấp. Tranh chấp lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của bản
thân, gia đình người lao động , nhiều khi còn tác động đến an ninh công
cộng. Tranh chấp lao động nếu chỉ phát sinh giữa một người lao động và
người sử dụng lao động ( đối tượng tranh chấp là quyền , nghĩa vụ , lợi ích
chỉ liên quan đến một cá nhân người lao động ) thì tranh chấp đó đơn thuần
là tranh chấp cá nhân .
Đặc điểm này xuất phát từ bản chất quan hệ lao động là quan hệ chứa
đựng nhiều vấn đề mang tính xã hội như thu nhập , đời sống , việc làm …
4


của người lao động . Thực tế hầu hết mọi người lao động tham gia quan hệ
lao động để có thu nhập đảm bảo cuộc sống và gia đình họ cũng trơng chờ
vào nguồn thu nhập đó . Vì vậy , khi tranh chấp lao động xảy ra , quan hệ
lao động có nguy cơ bị phá vỡ , người lao động có thể bị mất việc làm , mất
thu nhập , mất nguồn đảm bảo cuộc sống thường xuyên cho bản thân và gia
đình nên đời sống của họ trực tiếp bị ảnh hưởng .
Người sử dụng lao động sẽ phải tốn thời gian , công sức vào quá trình
giải quyết tranh chấp nên có thể việc sản xuất kinh doanh bị gián đoạn dẫn
đến mất các cơ hội kinh doanh , mất một phần lợi nhuận và khả năng đầu tư
phát triển sản xuất . Nghiêm trọng hơn , là khi tranh chấp lao động tập thể
xảy ra ở những doanh nghiệp thiết yếu của nền kinh tế quốc dân hoặc an
ninh quốc phòng , trong một ngành hoặc một địa phương , thì cịn có thể ảnh
hưởng đến sự phát triển và đời sống xã hội trong cả một khu vực , thậm chí
có thể ảnh hưởng đến tồn bộ nền kinh tế . Nếu khơng giải quyết kịp thời ,
những tranh chấp đó có thể ảnh hưởng tới an ninh cơng cộng và đời sống
chính trị xã hội của quốc gia .
3. Phân loại tranh chấp lao động.
Sự phân loại TCLĐ là nhằm để đánh giá đúng thực chất của các tranh

chấp lao động trên cơ sở đó mà giải quyết chúng có hiệu qủa.
Theo cách nhìn nhận khái quát, tranh chấp lao động được chia thành
nhiều loại dựa trên những tiêu chí khác nhau, tùy theo mối quan tâm của
những người phân loại.
a. Căn cứ vào quy mơ của tranh chấp(mục đích tham gia của các
bên tranh chấp ), có thể phân chia các tranh chấp lao động gồm tranh chấp
lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể. Cách phân loại này có ý
nghĩa trong việc xác định cơ chế giải quyết thích hợp nhằm đạt được hiệu
qủa mong muốn đồng thời trực tiếp xác định chủ thể tham gia TCLĐ (chỉ có
thể) là NLĐ, tập thể lao động và NSDLĐ.
5


Thực tế, có thể hiểu tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa
nguời sử dụng lao động với cá nhân người lao động (hoặc một nhóm nhỏ
người lao động ) đó. Loại tranh chấp này thường phát sinh trong quá trình áp
dụng pháp luật lao động hoặc thực hiện, thay đổi, chấm dứt các hợp đồng
lao động cá nhân.Trong q trình giải quyết tranh chấp cá nhân, cơng đoàn
thường chỉ tham gia với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích của người
lao động chứ khơng với tư cách là người đại diện cho một bên tranh chấp.
Như vậy tranh chấp cá nhân thường mang tính đơn lẻ, riêng rẽ, khơng có
tính tổ chức chặt chẽ. Tranh chấp lao động cá nhân hầu như không ảnh
hửơng đến những quan hệ lao động khác và giải quyết các tranh chấp này
chủ yếu nhằm thừa nhận, khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của các bên
trong quan hệ lao động.
Tranh chấp lao động tập thể là tranh chấp gĩưa tập thể người lao động
với người sử dụng lao động về quyền, lợi ích liên quan đến tập thể lao động.
Người đại diện cho tập thể người lao động là tổ chức cơng đồn tham gia
với tư cách là một bên tranh chấp, yêu cầu người sử dụng lao động đáp ứng
các quyền, lợi ích mà tập thể lao động đặt ra. Trong một số trường hợp tranh

chấp lao động cá nhân được chuyển hóa thành tranh chấp lao động tập thể
và nguợc lại. Do vậy việc phân biệt tranh chấp lao động tập thể và tranh
chấp lao động cá nhân là một vấn đề khó khăn, phức tạp cả về mặt lý luận
và trong thực tiễn đời sống.
b. Căn cứ vào tính chất của tranh chấp, có thể chia tranh chấp lao
động thành các tranh chấp về quyền và các tranh chấp về lợi ich. Tuy nhiên,
hiện tại khơng có qui định nào của pháp luật giải thích như thế nào là tranh
chấp về quyền và như thế nào là các tranh chấp về lợi ích. Sự giải thích về
vấn đề này chỉ hiện hữu trong các quan điểm của các nhà khoa học pháp lí.
Theo quan điểm của các nhà khoa học, tranh chấp về quyền là tranh
chấp về những cái đã được pháp luật xác định hoặc đã được thoả thuận hợp
pháp. Những đối tượng được ghi nhận rõ ràng, cụ thể trong các qui định của
6


pháp luật hoặc đã thoả thuận trong hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập
thể như tiền lương tối thiểu, tiền lương làm thêm giờ, thời giờ làm việc tối
đa, số ngày nghỉ hàng năm, tiền bồi thường tai nạn lao động. Nếu được đưa
vào vụ phân tranh thì đó được goi là các tranh chấp về quyền. Ngược lại,
những đối tượng được đưa vào vụ phân tranh dưới dạng những yêu cầu mới
chưa được xác định trứơc, ví dụ người lao động đòi tăng lương cao hơn mức
cũ 15% nhưng chưa có bằng chứng xác định việc tăng lương này trong hợp
đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể hoặc trong các văn bản pháp luật
thì được gọi là các tranh chấp về “lợi ích”. Cách phân loại đó lấy tiêu chí là
tính chất pháp lí để phân định các loại tranh chấp lao động nhằm tạo cơ sở
pháp lí cho các phương thức giải quyết tranh chấp lao động, đặc biệt có tác
dụng trong việc đưa ra các quyết định của các chủ thể tài phán lao động.
Bên cạnh đó, cơ sở phân loại khác ít được nhắc tới, đó là dựa vào
tính chất vật chất của tranh chấp lao động. Nếu theo cơ sở này, tranh chấp
lao động cũng vẫn được chia thành 2 loại là tranh chấp về quyền và tranh

chấp về lợi ích nhưng cách hiểu thì hồn tồn khơng gíơng cách phân loại
dựa vào cơ sở tính chất pháp lí . Theo cách phân loại này, các tranh chấp về
quyền gồm các tranh chấp có đối tượng là những vấn đề phi vật chất, bao
gồm tranh chấp về quyền tiếp tục làm việc theo hợp đồng lao động, tranh
chấp về việc giao kết hợp đồng lao động; tranh chấp về quyền thành lập, gia
nhập, hoạt động cơng đồn; tranh chấp về quyền nghỉ ngơi: tranh chấp về
việc có bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm đối với người lao động …còn các
tranh chấp về lợi ích bao gồm các đối tượng tranh chấp là các vấn đề vật
chất, như tranh chấp về tiền lương, tranh chấp về bảo hiểm xã hội , tranh
chấp về khoản bồi thường thiệt hại tài sản đối với người sử dụng lao động

Tranh chấp lao động là loại tranh chấp có chiều hướng gia tăng trong
nền kinh tế thị trường, đăc biệt trong q trình hơi nhập và Tồn cầu hóa
kinh tế. Việc nghiên cứu về tranh chấp lao động để hoạch định các chính
7


sách , pháp luật và áp dụng vào thực tiễn giải quyết các tranh chấp lao động
là việc làm cần thiết và có tính thiết thực trong giai đoạn hiên nay.
4. Trình tự giải quyết tranh chấp lao động :
a. Đối với các tranh chấp lao động cá nhân :
- Hội đồng hoà giải lao động cơ sở tiến hành hoà giải chậm nhất bảy
ngày , kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu hoà giải. Tại phiên họp hoà giải ,
phải có mặt hai bên tranh chấp hoặc đại diện được uỷ quyền của họ .
- Hội đồng hoà giải lao động cơ sở đưa ra phương án hoà giải để các
bên xem xét. Nếu hai bên chấp nhận phương án hồ giải thì lập biên bản hồ
giải thành, có chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch và thư ký Hội
đồng hoà giải lao động cơ sở . Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận
ghi trong biên bản hoà giải thành .
Trong trường hợp hồ giải khơng thành , Hội đồng hồ giải lao động

cơ sở lập biên bản hồ giải khơng thành , ghi ý kiến của hai bên tranh chấp
và của Hội đồng , có chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch và thư ký
Hội đồng. Bản sao biên bản phải được gửi cho hai bên tranh chấp trong thời
hạn ba ngày kể từ ngày hoà giải khơng thành . Mỗi bên tranh chấp đều có
quyền yêu cầu Toà án nhân dân cấp huyện xét xử tranh chấp . Hồ sơ gửi Toà
án nhân dân phải kèm theo biên bản hồ giải khơng thành .
- Tồ án nhân dân
Toà án nhân dân cấp huyện giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân
mà Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động hồ giải
khơng thành , khi có đơn u cầu của một hoặc hai bên tranh chấp .
b. Đối với tranh chấp lao động tập thể :
Bước 1 : Hội đồng hoà giải
- Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động tiến
hành hoà giải chậm nhất bảy ngày , kể từ ngày nhận đơn yêu cầu hoà giải .
Tại phiên họp hoà giải , phải có mặt hai bên tranh chấp hoặc đại diện được
uỷ quyền của họ .
8


- Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động đưa ra
phương án hoà giải để các bên xem xét. Nếu hai bên chấp nhận phương án
hồ giải thì lập biên bản hồ giải thành , có chữ ký của hai bên tranh chấp ,
của Chủ tịch và thư ký Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc của hoà giải
viên lao động . Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi trong biên
bản hoà giải thành .
Trong trường hợp hoà giải khơng thành , thì Hội đồng hồ giải lao động

-

cơ sở hoặc hoà giải viên lao động lập biên bản hồ giải khơng thành , ghi ý

kiến của hai bên tranh chấp và của Hội đồng hoặc của hoà giải viên lao động
, có chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch và thư ký Hội đồng hoặc
của hoà giải viên lao động ; mỗi bên hoặc cả hai bên tranh chấp có quyền
yêu cầu Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết .
Bước 2 : Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh
Hội đồng trọng tài lao động tiến hành hoà giải và giải quyết vụ tranh
chấp lao động tập thể chậm nhất 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu .Tại
phiên họp giải quyết tranh chấp lao động tập thể , phải có mặt các đại diện
được uỷ quyền của hai bên tranh chấp .
Hội đồng trọng tài lao động đưa ra phương án hoà giải để hai bên xem
xét. Trong trường hợp hai bên nhất trí thì lập biên bản hồ giải thành , có
chữ ký của hai bên tranh chấp , của Chủ tịch Hội đồng trọng tài lao động .
Hai bên có nghĩa vụ chấp hành các thoả thuận ghi trong biên bản hoà giải
thành .
Trong trường hợp hồ giải khơng thành , thì Hội đồng trọng tài lao động
giải quyết vụ tranh chấp và thông báo ngay quyết định của mình cho hai bên
tranh chấp ; nếu hai bên khơng có ý kiến thì quyết định đó đương nhiên có
hiệu lực thi hành .
Bước 3 : Tồ án nhân dân
Trong trường hợp tập thể lao động không đồng ý với quyết định của Hội
đồng trọng tài lao động thì có quyền u cầu Tồ án nhân dân giải quyết
9


hoặc đình cơng .
Trong trường hợp người sử dụng lao động không đồng ý với quyết định
của Hội đồng trọng tài lao động , thì có quyền u cầu Tồ án nhân dân xét
lại quyết định của Hội đồng trọng tài . Việc người sử dụng lao động yêu cầu
Toà án nhân dân xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài khơng cản trở
quyền đình cơng của tập thể lao động .


10


PHẦN II
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
1.Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động
Theo điều 158 BLLĐ tranh chấp lao động được giải quyết theo
nguyên tắc sau ;
- Nguyên tắc thứ nhất; Thương lượng trực tiếp và tự dàn xếp giữa các
bên tại nơi phát sinh tranh chấp .
Hiện nay, các bên của quan hệ lao động được tự do thoả thuận hợp
đồng lao động, thỏa ước tập thể trong khuôn khổ của pháp luật lao động.
Khi các thoả thuận của các bên bi phá vỡ, tranh chấp lao động xảy ra thì các
bên có quyền và nghĩa vụ tự thương lượng, dàn xếp để thoả thuận lai
.Nguyên tắc này vừa đảm bảo cho quyền và nghĩa vụ của các bên luôn phù
hợp với điều kiện của họ, vừa ngăn ngừa những hậu qủa xấu xảy ra do tranh
chấp lao động phát sinh. Sự tự thương lượng, dàn xếp còn được nhận cả sau
khi các bên đã gửi đơn đến cơ quan có thẩm quyền yêu cầu giải quyết và đó
là căn cứ để chấm dứt vụ tranh chấp lao động đó.
Ngun tắc thứ hai; Thơng qua hồ giải để gỉai quyết tranh chấp

-

trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của 2 bên, tơn trọng lợi ích chung của
xã hội.
Nếu các bên đã thương lượng không thành, và một trong 2 bên, họăc
cả 2 bên gửi đơn yêu cầu giải quyết thì cơ quan có thẩm quyền trứơc hết
phải hoà giải tranh chấp giữa các bên. Đây là cách giải quyết tiếp tục quá
trình thương lượng, thoả thuận giua 2 bên có sự thuyết phục, giải thich của

người hồ giải. Mục đích của hịa giải là làm cho các bên hiểu nhau, hiểu
pháp luật để chính các bên lựa chọn hướng giải quyết phù hợp, đảm bảo
được sự duy trì quan hệ lao động sau tranh chấp. Vi vây, hồ giải là ngun
tắc xun suốt q trình giải quyết tranh chấp , là thủ tục bắt buộc ở tất cả
các cấp, các giai đoạn. Thực tế, công tác hoà giải chỉ đạt được hịêu qủa nếu
11


người hồ giải biết tơn trọng lợi ích của cả hai bên tranh chấp và lợi ích
chung của xã hội và có phương pháp hồ giải thích hợp.
Ngun tắc thứ ba ; giải quyết tranh chấp lao động công khai,

-

khách quan, nhanh chóng, đúng pháp luật .
Một đặc điểm của tranh chấp lao động là có ảnh hửơng lớn tới đời
sống người lao động, tới sản xuất và Toàn xã hội nên cần giải quyết nhanh
chóng kịp thời để hạn chế những ảnh hưởng xấu. Song, muốn giải quyết
được nhanh chóng, muốn khơi phục, thừa nhận quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên và ổn định sản xuất thì cơ quan có thẩm quyền phải thật khách
quan, cơng khai và đúng pháp luật.
Nguyên tắc thứ tư; đảm bảo quyền tham gia của đại diện các bên

-

trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động.
Nếu các bên tham gia thì việc cung cấp thông tin, tài liệu sẽ đầy đủ
hơn và cơ quan có thẩm quyền có điều kiện đánh giá về vụ tranh chấp chính
xác hơn, đại diện các bên lại thường là người am hiểu pháp luật, hiểu điều
kiện của các bên, tự do có thể gíup cơ quan có thẩm quyền có các phương án

giải quyết phù hợp . Tuy nhiên vì nhiều lý do mà hiện nay pháp luật chưa cụ
thể nguyên tắc này một cách rõ nét, nhất là sự tham gia của đại diện người
sử dụng lao động. Nhưng, một trong các quyền của các bên tranh chấp đã
được pháp luật ghi nhận là được “trực tiếp hoặc thơng qua người đại diện
của mình để tham gia quá trình giải quyết tranh chấp “k1, Điều 60 BLLĐ )
2. Các cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao
động.
Các cơ quan giải quyết tranh chấp lao động gồm có; Hội đồng hồ
giải lao động ở cơ sở hoặc là hoà giải viên lao động của cơ quan lao động
cấp huyện; Hội đồng trọng tài do cơ quan lao động địa phương cấp quận,
huyện trở lên cử ra; Tòa án nhân dân.

12


a.Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động cấp
huyện.
Theo qui định hiện hành, về nguyên tắc vụ TCLĐ trứơc khi đưa ra
toà án nhân dân hoặc hội đồng trọng tài lao động giải quyết phải được giải
quyết trứơc tại hội đồng hoà giải lao động (HĐHGLĐ) hoặc hồ giải vien
(HGV) nhưng khơng thành, trừ một số trừơng hợp đặc biệt HĐHGLĐ cơ sở
được thành lập ở các doanh nghiêp sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở
lên và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp lao động cá nhân và tập thể
xảy ra tại DN đó. HGVdo cơ quan lao động và xã hội cấp huyện cử ra, có
thẩm quyền hồ giải các TCLĐ cá nhân và tập thể xảy ra o các DN sử dụng
duoi 10 NLĐ .
Hội đồng hoà giải có nhiệm vụ hồ giải các tranh chấp lao động cá
nhân và tranh chấp lao động tập thể phát sinh trong đơn vị khi đương sự yêu
cầu trong thời hiệu luật định. Khi hồ giải, hội đồng hồ giải có quyền;
- Tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ các bên tranh chấp, người co liên quan,

người làm chứng.
- Thu thập tài liệu chứng cứ, yêu cầu đương sự cung cấp đầy đủ các
tài liệu có liên quan tới vụ việc phải hoà giải.
-Đưa ra phuong án hoà giải để 2 bên tranh chấp cung xem xét thương
lượng.
Hoà giải viên của cơ quan lao động cấp huyện là những cán bộ có đủ
năng lực, phẩm chất, trinh độ và uy tin, giải quyết tranhchấp gĩưa người
gíup việc gia đình và người sử dụng lao động và tranh chấp về thực hiện hợp
đồng học nghề và chi phí dạy nghề. Khi hồ giải các tranh chấp nay, hồ giải
viên có các quyền tương tự hội đồng hoà giải cơ sở.
Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện những qui định trên đã làm phát sinh 1
số vướng mắc. Nhiều DN sử dụng từ 10 NLĐ trở lên khơng thể thành lập
HĐHGLĐ vì khơng có tổ chức cơng đồn (70%các DN ngồi quốc doanh
và DN có vốn đầu tư nước ngoài chưa thành lập tổ chức cơng đồn cơ sở ).
13


Cũng khơng ít có tổ chức cơng đồn cơ sở nhưng khơng thành lập
HĐHGLĐ hoặc có thành lập nhưng khơng hoạt động. Các điều 163, 164,
165, 166 BLLĐ hiện hành liên quan đến thẩm quyền và hoạt động của
HĐHGLĐ và HGV. Theo đó, HĐHGLĐ bắt buộc phai được thành lập trong
các DN có tổ chức cơng đồn cơ sở hoặc ban chấp hành cơng đồn lâm thời,
khơng phụ thuộc vào số lượng lao động mà DN đó sử dụng (có thể dưới 10
NLĐ). Nếu vì lí do nào đó mà đơn vị chưa thành lập HĐHGLĐ thì các bên
tham gia tranh chấp lao động cá nhân có thể yêu cầu HGV giải quyết. Ngồi
ra, trong q trình giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, nếu đã triệu tập
hợp lệ đến lần thứ 2 mà 1 bên tranh chấp vẫn vắng mặt khơng lý do chính
đáng nên khơng thể tiến hành hồ giải được thì HĐHGLĐ hoặc HGV lập
biên bản hồ giải khơng thành làm cơ sở cho biên bản kia có thể khởi kiện
tiếp tục tại tồ án. Đây cũng là điểm mới mà pháp luật hiện hành chưa đặt ra

để bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của một bên tranh chấp khi bên
đối phương cố ý vắng mặt nhằm trì hỗn dẫn đến vơ hiệu hố giải quyết q
trình tranh chấp. Ngồi ra, trường hợp một hoặc cả hai bên tranh chấp đã
yêu cầu mà HĐHGLĐ và HGV không giải quyết tranh chấp trong thời hạn
qui định thi các bên vẫn có quyền yêu cầu TAND Giải quyết mặc dù khơng
có biên bản hồ giải khơng thành.
Có thể nói những sửa đổi, bổ sung nêu trên là hoàn toàn hợp lý nhằm
bảo vệ kịp thời và đầy đủ hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh
chấp. Tuy nhiên, lại là chưa thỏa đáng và chưa hoàn chỉnh khi việc sửa đổi,
bổ sung các qui định pháp luật hiện hành về HĐHGLĐ và HGV trong luật
sửa đổi bổ sung chỉ nhằm vào lĩnh vực giải quyết TCLĐ cá nhân mà “bỏ
qua“ lĩnh vực giải quyết TCLĐ tập thể. Khó có thể tìm ra căn cứ để lí giải
cho sự giới hạn này những vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung các điều về
BLLĐ về quá trình giải quyết TCLĐ để được hòan thiện hơn.
b. Hội đồng trọng tài lao động.

14


Hội đồng trọng tài lao động do chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định theo đề nghị của giám đốc sở Lao động thương binh và Xã hội.
Thành phần của hội đồng trọng tài lao động được thành lập theo số lẻ, từ 5
đến 9 thành viên.
Hội đồng trọng tài có nhiệm vụ hồ giải và giải quyết các tranh chấp
tập thể mà hội đồng hoà giải cơ sở hoặc hoà giải viên của các cơ quan lao
động cấp huyện hồ giải nhưng khơng thành, các bên đương sự có đơn yêu
cầu hội đồng trọng tài giải quyết. Khi giải quyết, Hội đồng trọng tài có
quyền;
- Tìm hiểu vụ việc, gặp gỡ các bên tranh chấp, người làm chứng và
người có liên quan.

- Thu thập tài liệu, chứng cứ, yêu cầu đương sự, Hội đồng hoà giải cơ
sở hoặc hoà giải viên cung cấp đầy đủ tài liệu có liên quan đến tranh chấp.
- Yêu cầu đương sự tới phiên họp giải quyết của hội đồng.
- Đưa phương án hoà giải, ra quyết định giải quyết vụ việc.
Nếu hồ giải khơng thành và trọng tài khơng có hiệu qủa, mỗi bên có
thể đưa vụ tranh chấp ra tồ án nhân dân xét xử.
c.Toà án nhân dân.
Điều 1 luật sửa đổi bổ sung 1 số điều của luật tổ chức toà án nhân
dân đã ra quyết định “Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hơn nhân
gia đình, lao động, kinh tế và những việc khác theo qui định của pháp
luật.Vì vậy ngày 1/7/1996 , tồ lao động được thành lập trong hệ thống toà
án nhân dân với tư cách là một tồ chun trách, có phân toà từ cấp tỉnh trở
lên , ở toà án cấp huyện có các thẩm phán lao động do chánh án phân cơng
phụ trách .
Là một tồ chun trách, co quyền nhân danh nhà nước, đua ra các
quyết định, kết luận, bản án. Tồ lao động có nhiệm vụ xét xử các vụ án lao
động đã được cơ quan hoà giải, trọng tài giải quyết những các bên tranh
chấp không đồng ý và khởi kiện ra toà án và giải quyết các cuộc đình cơng.
15


Do đặc trưng của quan hệ lao động mà toà án không chỉ là một cơ quan xét
xử thuần túy. Ngồi việc xét xử, tồ án cịn có thẩm quyền công nhận sự
thoả thuận của các đương sự và tuyên bố cuộc đình cơng hợp pháp hay là
bất hợp pháp theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức hữu quan. Đây cũng là
điểm khác nhau gĩưa nhiệm vụ của toà án lao động và nhiệm vụ của một số
toà chuyên trách khac.
Điều 166 BLLĐ được sửa đôi, bo sung, theo hướng mở rộng hơn
phạm vi các TCLĐ cá nhân có thể u cầu tồ án nhân dân giải quyết ngay
mà khơng nhất thiết phải qua hồ giải trước tại cơ sở, trong đó đặc biệt là

tranh chấp người gíup vịêc gia đình với NSDLĐ; tranh chấp về BHXH hoặc
gĩưa NSDLĐ với cơ quan BHXH và tranh chấp ve bồi thường thiệt hại giữa
NLĐ voi DN xuất khẩu lao động. Tuy nhiên qui định này vẫn cần tiếp tục
sửa đổi để hồn thiện hon, ví dụ cần bổ sung 1 số tranh chấp liên quan đến
quá trình học nghề ….
Rõ ràng điều này đang đặt ra những vướng mắc cần được tiếp tục
nghiên cứu tháo gỡ .

16


PHẦN III.
THỜI HIỆU GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG VÀTHỰC
TIỄN VỀ MỘT VỤ TRANH CHẤP LAO ĐỘNG XẢY RA Ở DN
VÀNG BẠC ĐÁ QUÝ ACT.
1.Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động(TCLĐ) .
a.Thời hiệu giải quyết TCLĐ cá nhân .
Theo điều 167, 172 BLLĐ thì thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ cá
nhân, kể từ khi mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích bị vi phạm .
Các TCLĐ cá nhân phải qua Hội đồng hoà giải hay hoà giải viên lao động
hoà giải (Hoà giải cơ sở ), chỉ khi hồ giải khơng thành, các đương sự mới
có quyền khởi kiện ra tồ án, trừ những TCLĐ cá nhân qui định sau đây;
- Một năm đối với các TCLĐ về xử lý kỷ luật lao động theo hình thức
sa thải hoặc về trừơng hợp bị đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động;
tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động;
tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động .
- Một năm đối với tranh chấp về bảo hiểm xã hội giữa NLĐ đã nghỉ
vịêc theo chế độ với NSDLĐ hoặc với cơ quan BHXH.
- Ba năm đối với tranh chấp về bồi thường thiệt hại giữa NLĐ với DN
xuất khẩu lao động .

- Sáu tháng đối với các tranh chấp lao động khác .
Điều 172 khơng nhất thiết phải qua hồ giải cơ sở trứơc khi khởi kiện
ra toà án .
Theo điều 32 pháp lệnh thủ tục giải quyết các TCLĐ thì các TCLĐ cá
nhân khơng nhất thiết phải qua hồ giải cơ sở hoà giải trước khi khởi kiện ra
toà án thi thời hiệu khởi kiện là 1 năm kể từ ngày phát sinh tranh chấp, cịn
nhữngTCLĐ cá nhân phải qua hồ giải cơ sở hoà giải trứơc khi khởi kiện ra
toà án và những TCLĐ cá nhân không nhất thiết phải qua hoà giải cơ sở hoà

17


giải, nhưng đã qua hoà giải cơ sở hoà giải trứơc khi khởi kiện ra tồ án thì
thời hiệu khởi kiện là 6 tháng kể từ khi hoà giải cơ sở hồ giải khơng thành.
Như vậy, khi giải quyết tranh chấp lao động toà án phải áp dụng thời
hiệu khởi kiện qui định tại điều 167 BLLĐ và điều 32 pháp lệnh.

b.Thời hiệu giải quyết TCLĐ tập thể .
Điều 32 pháp lệnh TTGQCT-CLĐ qui định; Thời hiệu khởi kiện các
TCLĐ tập thể là 3 tháng kể từ khi có quyết định của hội đồng trọng tài lao
động cấp tỉnh, những bộ luật lao động lại không qui định thời hiệu giải
quyết TCLĐ tập thể, nên thời hạn các bên TCLĐ tập thể yêu cầu Hội đồng
hoà giải lao động cơ sở hay hồ giải viên lao động giải quyết khơng được
xác định. Khắc phục tình trạng này, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
BLLĐ đã qui định;” Thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ tập thể là một năm
kể từ khi các bên tranh chấp cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm.
“Song TCLĐ tập thể bao giờ cũng phải qua hoà giải cơ sở hồ giải trứơc;
nếu hồ giải khơng thành mà các bên có tranh chấp thì phải thơng qua Hội
đồng trọng tài lao động cấp tỉnh giải quyết và chỉ sau khi có phán quyết của
trọng tài lao động cấp tỉnh, nếu các bên khơng đồng ý với phán quyết đó

mới được khởi kiện ra toà án; tuy nhiên khoảng thời gian sau khi hoà giải cơ
sở hoà giải đến khi các bên tranh chấp yêu cầu trọng tài lao động giải quyết
thì vẫn chưa được qui định. Như vậy, về TCLĐ tập thể vấn đề thời hiệu,
Luật vẫn qui định chưa đầy đủ và chặt chẽ. Vì vậy, cần phải tiếp tục sửa đổi
và bổ sung nhằm hoàn thiện hơn bộ máy pháp luật nhà nứơc.
2. Ví dụ về tranh chấp lao động ở DN vàng bạc đá qúy ACT.
Tại công ty vàng bạc đá qúi ACT bà HồThị H được tuyển dụng vào
ngân hàng tỉnh AG từ ngày 1-1-1982. Ngày 28-9-1996 bà H và công ty vàng
bạc đá qúy ACT kí hợp đồng lao động khơng xác định thời hạn với chức
danh “Trưởng phòng khai thác kinh doanh , “ hệ số lương 2,98, phu cấp
chức vụ 0,3. Ngày 14-7-1998 Cơng ty sát nhập phịng khai thác kinh doanh
do bà H làm trưởng phòng với phòng nghiệp vụ cầm đồ do ông Trần Anh N
18


làm trưởng phòng thành phòng kinh doanh. Căn cứ vào sự tín nhiệm của tập
thể ngày 1-9-1998 Cơng ty bổ nhiệm ơng N làm trưởng phịng kinh doanh.
Từ đó bà H trở thành nhân viên dưới sự điều hành của ông N, và không
được hưởng phụ cấp chức vụ 0,3. Ngày 4-10-2000 Gíam đốc Cơng ty ra
quyết định số 255 miễn nhiệm chức vụ Trưởng phòng khai thác kinh doanh
của bà H.
Ngày 1-12-2000, Công ty ra quyết định số 304 xử lý kỷ luật bà H với
hình thức chuyển làm cơng việc khác có mức lượng thấp hơn trong thời hạn
6 tháng kể từ ngày 1-12-2000 với lý do vi phạm về tổ chức và có hành vi
chiếm giữ trái phép tài sản của Công ty, bụôc bà H nộp trả Công ty
12.311.000 dong. Không đồng ý với 2 quyết định trên bà H yêu cầu Hội
đồng hoà giải lao động giải quyết. Ngày 28-2-2001 Hội đồng hoà giải lao
động hồ giải khơng thành. Ngày 19-3-2001 ba H khởi kiện đến Tồ án u
cầu cơng ty phải hủy bỏ Quyết định 255 ngày 4-10-2000 và quyết định 304
ngày 1-12-2000, phuc hồi chức danh Trưởng phòng và các quyền lợi vật

chất khác như tiền phụ cấp, Tiền điện thoại, ..không đồng ý nộp lại
12.311.000 đồng.
Trong vụ án trên tôi không đi sâu vào phần giải quyết nội dung vụ án,
chỉ phân tích về thời hiệu khởi kiện. Căn cứ điều 32 Pháp lệnh thì thời hiệu
khởi kiện các loại việc trên là 6 tháng kể từ ngày Hội đồng hoà giải lao động
hồ giải khơng thành. Trong vụ án trên ngày 28-2-2001 Hội đồng hồ giải
lao động hồ giải khơng thành. Ngày 19-3-2001 bà H đã khởi kiện đến Toà
án. Nếu chỉ căn cứ vào Điều 32 Pháp lệnh thì bà H khởi kiện trong thời hạn
luật định. Song căn cứ vào điều 167 Bộ luật lao động thi đối với các loại
việc trên thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ là 6 tháng kể từ ngày các bên
cho rằng quyền và lợi ích của mình bị vi phạm.
a. Về u cầu đòi huỷ Quyết định 255 ngày 4-10-2000 thực chất là bà
H u cầu khơi phục chức trưởng phịng cùng các chế độ kèm theo cua bà
H. Việc bà H mất chức vụ trưởng phịng khơng phải xảy ra từ khi có Quyết
19


định 255 mà nó xảy ra từ ngày 1-9-1998 vì từ ngày đó bà H đã phải làm
nhân viên dứơi sự điều hành của trưởng phòng N. Đồng thời, bà H cũng
khơng được hửơng các chế độ trưởng phịng từ ngày 1-9-1998. Như vậy
ngay từ ngày 1-9-1998, bà H đã biết được quyền và lợi ích của mình bị vi
phạm, nên thời hiệu yêu cầu giải quyết TCLĐ phải tính từ ngày 1-9-1998
chứ khơng phải tính từ ngày 4-10-2000. Cơng ty ra quyết định 255 chỉ là thủ
tục hành chính mà pháp luật lao động khơng địi hỏi phải ra qêt định đó.
Chức trưởng phịng là do bà H kí hợp đồng lao động với công ty. Công ty
không để bà H làm trưởng phịng tức cơng ty đã thay đổi nội dung hợp đồng
lao động. Nếu bà H không đồng ý, bà H phải yêu cầu các cơ quan giải quyết
TCLĐ trong thời hạn 5 tháng. Vi vậy, khi bà H yêu cầu Hội đồng hoà giải
lao động giải quyết thì đã quá 6 tháng. Theo hứơng dẫn của TANDTC thì
các trừơng hợp này đã hết thời hiệu khởi kiện.

b. Đối với yêu cầu đòi huỷ Quyết định kỷ luật số 304 ngày 1-12-2000
của bà H thì cịn thời hiệu. Vì vậy vụ án này Tồ án phải đình chỉ giải quyết
yêu cầu hủy Quyết định 255 khôi phục chức vụ trưởng phòng cua bà H. Rat
tiec tại bản án sơ thẩm lao động số 01 ngày 5-9-2001 Toà án thành phố LX
và tại bản án phúc thẩm lao động số 2 ngày 18-12-2001 Toà án tỉnh AG đều
chấp nhận cả 2 yêu cầu của bà H về việc hủy Quyết định 255 và quyết định
304 buộc công ty khơi phục chức trưởng phịng và các chế độ cho bà H. Bản
án đó đã bị Phó chánh án TANDTC kháng nghị phán quyết định hủy Quyết
định 255 khôi phục chức trưởng phòng cho bà H.

20


PHẦN IV
Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG
- Giải quyết tranh chấp lao động nhằm duy trì và củng cố , đảm bảo
sự hồ bình và ổn định trong quan hệ lao động .
- Giải quyết tranh chấp lao động giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên trong quan hệ lao động , qua đó tạo điều kiện thuận lợi
cho người lao động làm việc nhiều hơn , kết quả lao động tốt hơn , động
viên khuyến khích sản xuất phát triển .
- Giải quyết tranh chấp lao động cịn góp phần hồn thiện pháp luật ,
nhằm đảm bảo các quy phạm pháp luật được áp dụng một cách thống nhất
và đúng đắn .

21


KẾT LUẬN
Bằng gần 30 điều luật tại chương XIV Bộ luật lào động (BLLĐ) cùng

với pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lào động (TCLĐ) và một số
nghị định của Chính phủ về Hội đồng hịa gỉai lao động cơ sở và hội đồng
trọng tài lao động cấp tỉnh, TCLĐ và cơ chế, nguyên tắc giải quyết TCLĐ
đã được qui định khá cụ thể và được điều chỉnh tương đối toàn diện. Qua 67 năm thực hiện, các quy định đã dần đi vào cuộc sống, phần lớn đã được
thực tiễn kiểm nghiệm chấp nhận và ngày càng phát huy tác dụng. Song bên
cạnh đó cũng khơng tránh khỏi một số qui định đã bộc lộ những hạn chế
nhất định, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả giải quyết tranh chấp. Để
có được cách giải quyết tranh chấp lao động phù hợp với tình hình hiện nay
địi hỏi pháp luật của chúng ta phải được từng bước hoàn thiện và hướng
hoàn thiện cũng xuất phát từ nhu cầu thực tiễn cuộc sống.

22


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giao trình Luật Lao Động (Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội)
2. Giáo trình Luật kinh tế (Trường Đại học Quản Lí và Kinh Doanh
Hà Nội)
3. Giáo trình Luật Lao Động(Trường Đại học Luật Hà Nội)
4. Tạp Chí Luật học số 1/2003
5. Tạp Chí Luật học số 4/2003
6. Tạp Chí Lao Động và Cơng Đồn số 291/2003
7. Toà án Nhan Dan 2003

23


MỤC LỤC
Lời nói đầu.....................................................................................................1
Phần I. Những vấn đề chung về tranh chấp lao động ...............................2

1. Khái niệm tranh chấp lao động (TCLĐ).....................................................2
2. Đặc điểm của tranh chấp lao động..............................................................3
3. Phân loại tranh chấp lao động.....................................................................5
4. Trình tự giải quyết tranh chấp lao động......................................................7
Phần II. Giải quyết tranh chấp lao động .................................................10
1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động ..............................................10
2. Các cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động .......11
Phần III. Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động và thực tiễn về một
vụ tranh chấp lao động xảy ra ở doanh nghiệp vàng bạc đá quý ACT..16
1. Thời hiệu giải quyết tranh chấp lao động .....................................................
2. Ví dụ về tranh chấp lao động ở doanh nghiệp vàng bạc đá quý ACT.......17
Phần IV. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp lao động .....................20
Kết luận
Tài liệu tham khảo

24



×