Tải bản đầy đủ (.docx) (207 trang)

Giải thích hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (955.78 KB, 207 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HÀ THỊ THÚY

GIẢI THÍCH HỢP ĐỒNG THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự
Mã số: 9 38 01 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2019


2

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS 2005) ra đời như là một cột mốc đánh dấu
sự hội nhập của pháp luật dân sự nước ta với pháp luật dân sự các nước trên thế
giới, đưa pháp luật dân sự của Việt Nam tiến gần hơn với pháp luật dân sự của các
quốc gia khác. Với sự ra đời của BLDS 2005, luật dân sự được xây dựng với vai trò
là “luật mẹ”, luật chung điều chỉnh tất cả các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân
phát sinh trong giao lưu dân sự. Sau gần 10 năm thi hành thì BLDS 2005 đã bộc lộ


nhiều điểm chưa phù hợp với sự phát triển của các quan hệ dân sự ngày càng phức
tạp. Hiện nay, Việt Nam đã thông qua Bộ luật Dân sự mới – Bộ luật Dân sự năm
2015 (BLDS 2015). Bộ luật dân sự mới này vẫn giữ nguyên mục tiêu xây dựng Bộ
luật dân sự là nền tảng pháp lý cơ bản (luật chung) của hệ thống luật tư, luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội được thiết lập trên nguyên tắc bình đẳng giữa các bên
tham gia1. Các chế định pháp luật hợp đồng trong BLDS 2015 có nhiều sửa đổi. Tuy
vậy, sự sửa đổi này vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của người dân về một Bộ luật
Dân sự hợp lý, có tính khái quát, tính dự báo và tính ổn định.
Giải thích hợp đồng không phải là chế định mới trong pháp luật dân sự nói
chung và pháp luật hợp đồng nói riêng. Ngay từ trước công nguyên, các luật gia La
Mã đã đặt nền móng cho việc xây dựng chế định giải thích hợp đồng. Hiện nay, chế
định giải thích hợp đồng được ghi nhận trong hầu hết Bộ luật dân sự của các nước
trên thế giới. Giải thích hợp đồng được hiểu là một công việc, trong đó chủ thể giải
thích làm rõ nội dung của hợp đồng khi hợp đồng có những nội dung, điều khoản
không rõ ràng hoặc mâu thuẫn nhau. Từ đó nhằm xác định quyền và nghĩa vụ của
các bên trong hợp đồng, đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện đúng, đầy đủ. Việc
nghiên cứu các vấn đề lý luận về giải thích hợp đồng, nhằm xác định chủ thể có
thẩm quyền giải thích hợp đồng, nhận diện hoạt động giải thích hợp đồng và phân
biệt giải thích hợp đồng với các hoạt động khác của chủ thể có thẩm quyền có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Nhưng ở Việt Nam hiện nay gần như thiếu vắng các công
trình khoa học nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về
giải thích hợp đồng.
Việc nghiên cứu các khái niệm pháp lý, thiết lập các quy tắc, phương pháp
giải thích cũng như các căn cứ giải thích sẽ tạo cơ sở lý luận vững chắc cho các nhà
1 Bộ tư pháp, Báo cáo về quan điểm và định hướng lớn trong xây dựng Bộ luật dân sự (sửa đổi).


3

lập pháp xem xét, tiếp nhận và phản ánh chúng vào quy phạm pháp luật nhằm hoàn

thiện quy định pháp luật về giải thích hợp đồng. Như TS. Nguyễn Ngọc Khánh đã
viết: “vấn đề đặt ra đối với chúng ta hôm nay không phải chỉ là việc khắc phục
những bất cập của chế định giải thích hợp đồng hiện hành, và cũng không phải chỉ
là việc bổ sung hay phát triển những phương pháp giải thích trên cơ sở tiếp thu có
chọn lọc kinh nghiệm các nước, mà quan trọng hơn, chúng ta cần phải tiếp tục
nghiên cứu, trao đổi, tổng hợp để xây dựng cơ sở lý luận sâu sắc hơn, hoàn thiện
hơn cho hoạt động giải thích hợp đồng ở nước ta”2.
Về mặt thực tiễn, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên làm phát sinh, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 385 BLDS 2015). Khi tham gia vào
quan hệ hợp đồng các bên luôn mong muốn đạt được một lợi ích vật chất hoặc tinh
thần nhất định, đó chính là mục đích của hợp đồng. Để đạt được mục đích này thì
các bên luôn cố gắng soạn thảo cho mình một hợp đồng rõ ràng, cụ thể (dù bằng
hình thức văn bản hay lời nói, hành vi). Tuy nhiên, thực tế do rất nhiều lý do mà các
hợp đồng có thể có những điều khoản không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau hoặc có những điều khoản quy định quá chung chung, hoặc
mâu thuẫn nhau. Điều này gây ra sự khó khăn trong quá trình thực hiện hợp đồng,
dẫn đến tranh chấp, gây bất ổn trong giao lưu dân sự cũng như ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của một hoặc một số bên. Chính vì vậy, chế định pháp luật giải
thích hợp đồng được xây dựng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các tranh
chấp xảy ra giữa các bên, cũng như tránh sự tùy tiện của chủ thể có thẩm quyền khi
giải thích hợp đồng.
Bộ luật dân sự 1995, lần đầu tiên pháp điển hóa quy định pháp luật về giải
thích hợp đồng thành một điều luật cụ thể, Điều 408. So với Điều 408 BLDS 1995
thì Điều 409 BLDS 2005 đã giải quyết được mối quan hệ giữa việc áp dụng học
thuyết ý chí hay học thuyết thể hiện ý chí để giải thích hợp đồng. Bộ luật dân sự
2015 mới được Quốc hội thông qua thì vấn đề giải thích hợp đồng được quy định tại
Điều 404, giải thích giao dịch dân sự được quy định tại Điều 121. So với Điều 409
BLDS 2005 thì Điều 404 BLDS 2015 đã rút gọn lại chỉ còn sáu căn cứ giải thích
hợp đồng: giải thích dựa vào ý chí chung của các bên trong hợp đồng, giải thích dựa
vào ngôn từ của hợp đồng, giải thích theo nghĩa phù hợp với tính chất, mục đích của

hợp đồng, giải thích theo tập quán tại địa điểm giao kết hợp đồng, giải thích trong
2 TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Giải thích hợp đồng dân sự: So sánh nước ngoài và liên hệ Điều 408, Bộ luật dân
sự, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2004.


4

mối liên hệ với các điều khoản khác của hợp đồng, giải thích theo hướng bất lợi cho
bên soạn thảo hợp đồng. Có thể thấy BLDS 2015 đã bỏ đi một số căn cứ giải thích
không khả thi, nhưng các căn cứ giải thích hợp đồng còn lại vẫn còn chưa đầy đủ,
và BLDS cũng chưa đưa ra các căn cứ để xác định ý chí của các bên. Những bất cập
này của quy định pháp luật về giải thích hợp đồng cần được nghiên cứu làm rõ
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật vô cùng quan trọng này.
Mặc khác, một câu hỏi đặt ra là, khi nào thì phải giải thích hợp đồng? Đó là
khi trong hợp đồng có những điều khoản hoặc những từ, cụm từ không rõ ràng,
hoặc có những điều khoản quy định quá chung chung, mâu thuẫn nhau, dẫn đến các
bên không có cách hiểu thống nhất. Lúc này, mỗi bên đều viện dẫn cách hiểu khác
nhau nhằm đạt được lợi ích tốt nhất cho mình, và điều này sẽ gây bất lợi cho phía
bên kia. Bởi vì trong quan hệ hợp đồng thì quyền của bên này chính là nghĩa vụ của
phía bên kia và ngược lại. Như vậy, sẽ rất khó tìm ra được ý chí chung của các bên
trong trường hợp này, trong khi đó, các căn cứ giải thích hợp đồng được quy định
trong BLDS lại chưa đầy đủ. Điều này làm cho chủ thể giải thích khi giải quyết
tranh chấp về giải thích hợp đồng thiếu cơ sở pháp lý để giải quyết, dẫn đến sự tùy
tiện trong việc áp dụng pháp luật.
Khi quy định của pháp luật còn chưa hoàn thiện thì việc xét xử của tòa án
trong thời gian qua trong các vụ án liên quan đến giải thích hợp đồng, các thẩm
phán thường căn cứ vào rất nhiều căn cứ để giải thích hợp đồng. Thực tiễn cho thấy
các chủ thể giải thích thường giải thích hợp đồng dựa vào các thông tin tiền hợp
đồng, sự ứng xử của các bên sau khi hợp đồng được giao kết, căn cứ vào thói quen
được hình thành giữa các bên, căn cứ vào tập quán, ... Như PGS. TS. Đỗ Văn Đại đã

viết, tòa án giải thích hợp đồng dựa vào “một “ma trận” thông tin Tòa án giải thích
hợp đồng căn cứ vào những thông tin (dấu hiệu) tiền hợp đồng, thông tin (dấu hiệu)
hậu hợp đồng cũng như một số thông tin khác”3. Và việc vận dụng này của tòa án là
chưa có đầy đủ căn cứ pháp lý.
Về phía các bên trong hợp đồng, khi một hợp đồng có những điều khoản
được soạn thảo không rõ ràng dẫn đến có nhiều cách hiểu không thống nhất giữa
các bên sẽ gây ra tranh chấp. Nếu không được giải thích một cách chính xác thì sẽ
dẫn đến quyền và lợi ích hợp pháp của một trong các bên có thể bị xâm phạm. Bởi
3 Đỗ Văn Đại, Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận án, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2014, tr.206


5

vì việc thực hiện đúng sự thỏa thuận trong hợp đồng phụ thuộc vào cách giải thích
các điều khoản của hợp đồng. Hoạt động giải thích hợp đồng được thực hiện dựa
trên những nguyên tắc, căn cứ quy định tại BLDS. Tuy nhiên kết quả giải thích và
hiệu quả của việc giải thích phụ thuộc nhiều vào sự áp dụng linh hoạt các nguyên
tắc giải thích, căn cứ giải thích. Chính vì vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp
luật về giải thích hợp đồng nhằm tạo ra cơ sở pháp lý khách quan, đầy đủ hơn, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các bên trong hợp đồng, thúc đẩy sự
phát triển và giữ ổn định cho giao lưu dân sự.
Việc nghiên cứu vấn đề giải thích hợp đồng ở Việt Nam hiện nay còn ít.
Trong khi đó nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hóa ngày càng cao dẫn đến
số lượng hợp đồng được giao kết ngày càng nhiều. Sự bất đồng ngôn ngữ vùng,
miền, sự bất đồng ngôn ngữ giữa các quốc gia cùng với sự cẩu thả hoặc việc quá tin
tưởng lẫn nhau của các bên khi soạn thảo hợp đồng, sự thiếu hiểu biết pháp luật, tập
quán khác nhau khi giao kết hợp đồng, việc giao kết các hợp đồng mẫu, hoàn cảnh
chi phối việc thực hiện hợp đồng luôn thay đổi làm cho các hợp đồng khi thực hiện
có những điều khoản không thống nhất cách hiểu ngày càng nhiều. Yêu cầu giải

thích hợp đồng ngày càng tăng, dẫn đến quy định pháp luật về giải thích hợp đồng
càng có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định cho quan hệ hợp đồng, tạo cơ sở
pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp. Quy định của pháp luật hiện hành chưa đảm
bảo được căn cứ pháp lý cho việc giải thích hợp đồng. Chính vì vậy, cần phải thiết
lập các nguyên tắc giải thích, bổ sung một số căn cứ giải thích hợp đồng để đáp ứng
yêu cầu của việc giải thích hợp đồng và hoàn thiện hơn nữa quy định pháp luật này
để đáp ứng nhu cầu giải thích hợp đồng của các bên trong giao lưu dân sự.
Chính vì những lý do trên, nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật cũng như
góp phần bổ sung vào cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc giải thích hợp đồng, tác
giả chọn đề tài “Giải thích hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” làm
đề tài luận án tiến sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Ở nước ngoài
Về giải thích hợp đồng, ở nước ngoài đã có khá nhiều công trình khoa học
nghiên cứu. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu, như: các sách chuyên khảo:
“Толкование права и договора” của tác giả Черданщев А. Ф., nhà xuất bản Yuniti –


6

daha, Москва, năm 2003; : “Введение в cравнительное правоведение в сфере
частного права”, tập 2, của tác giả Konard Zweigert và Hein Kotz, nhà xuất bản
Международные отношения, Москва, 1998, bản dịch bằng tiếng Nga;
“Толкование договора судом” của tác giả Сошуро Л. В., nhà xuất bản проспест,
Москва, 2008; “Толькование гражданско – правового договора: проблемы
теории и практики” của tác giả Степанюк Н. В., nhà xuất bản Научная Мысль,
Москва, 2014; “Elements of contract interpretation” của tác giả Steven J. Burton,
nhà xuất bản Oxford, 2009; bài viết “Толькование договора” của tác giả Жученко
С. П. trong cuốn «Практика применения общих положений об обязательствах»,
nhà xuất bản Status, Москва, 2011, Luận án tiến sỹ “Толкование договора как вид

юридического толкования” của tác giả Березина Е. А., Học viện Luật Quốc gia
Uran, Ekateburg, 2001; Luận án tiến sỹ luật học “Толькование гражданско –
правового договора” của Степанюк Н. В., năm 2008.
2.2. Ở trong nước
Ở trong nước, cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề hợp
đồng, tuy nhiên, hầu như chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải thích hợp đồng tại Việt Nam, chỉ có các
công trình nghiên cứu một cách sơ lược một số khía cạnh của giải thích hợp đồng.
Ở cấp độ tổng quát có thể kể đến các công trình: Sách chuyên khảo: “Việt
Nam dân luật lược khảo” của tác giả Tiến sỹ Vũ Văn Mẫu, Bộ Quốc gia giáo dục
xuất bản, Sài Gòn, năm 1963, “Pháp luật về hợp đồng” của Tiến sỹ Nguyễn Mạnh
Bách, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995; “Chế định hợp đồng
trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, Nhà xuất bản Tư
pháp, năm 2007; “Luật hợp đồng Việt Nam: bản án và bình luận án”, tập 2, của
PGS. TS. Đỗ Văn Đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, năm 2014; giáo
trình “Luật hợp đồng - Phần chung”, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm
2013 của tác giả PGS. TS Ngô Huy Cương; Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, của trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Hồng Đức, năm 2014.
Về các bài báo, bài tham dự hội thảo có thể kể đến đó là: “Giải thích hợp
đồng dân sự: So sánh nước ngoài và liên hệ Điều 408 Bộ luật dân sự” của Tiến sỹ
Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 10/2004; “Bàn về chế định
giải thích hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi)” của hai tác giả PGS.
TS. Hà Thị Mai Hiên và Th.S Hà Thị Thúy, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số


7

tháng 3/2015; “Về chế định giải thích giao dịch dân sự trong Dự thảo Bộ luật dân
sự (sửa đổi)”, của tác giả PGS. TS. Nguyễn Quốc Sửu, Tạp chí Cộng sản điện tử,

ngày 23/3/2015; Bài tham luận “Chế định giao kết hợp đồng hợp trong Dự thảo Bộ
luật dân sự 2005 sửa đổi” của TS. Nguyễn Bích Thảo tại hội thảo “Chế định tài
sản, nghĩa vụ và hợp đồng trong Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi” do Đại học quốc
gia Hà Nội phối hợp với tổ chức.
Những công trình trên là những nguồn tài liệu tham khảo vô cùng quý giá cho
luận án. Nhưng những công trình này chỉ mới dừng lại ở việc nghiên cứu một cách sơ
lược hoặc một khía cạnh của pháp luật về giải thích hợp đồng mà chưa nghiên cứu
một cách có hệ thống các vấn đề lý luận và thực tiễn về quy định pháp luật này. Vì
thế, đề tài “Giải thích hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” có tính mới
và không trùng lắp với công trình nghiên cứu của các tác giả khác.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận án
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về giải thích
hợp đồng nhằm mục đích cung cấp cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về
giải thích hợp đồng trong Bộ luật dân sự. Việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý và
thực tiễn giải thích hợp đồng ở Việt Nam trong thời gian qua sẽ cung cấp một cái
nhìn tổng quan về những điểm hợp lý, bất hợp lý của quy định pháp luật về giải
thích hợp đồng trong Bộ luật dân sự, từ đó dựa trên cơ sở lý luận về giải thích hợp
đồng, luận án hướng tới mục đích đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định của
pháp luật về giải thích hợp đồng và nâng cao hiệu quả của việc giải thích hợp đồng
ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
- Làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về giải thích hợp đồng, bao gồm: khái niệm,
bản chất của hợp đồng, lý do phải giải thích hợp đồng, phân biệt giải thích hợp đồng
với một số hoạt động giải thích khác, như giải thích di chúc, giải thích pháp luật, và
với trường hợp áp dụng quy định tùy nghi của pháp luật, lịch sử quy định pháp luật
về giải thích hợp đồng ở Việt Nam và ở một số quốc gia khác trên thế giới.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện hành về giải thích hợp đồng và thực
tiễn giải thích hợp đồng ở Việt Nam, trong đó, luận án sẽ nghiên cứu từng căn cứ

giải thích hợp đồng được quy định trong luật thực định và thực tiễn vận dụng căn cứ
đó để giải thích hợp đồng của chủ thể có thẩm quyền giải thích. Từ đó có những
phân tích, nhận định về sự hợp lý, bất hợp lý của các nguyên tắc giải thích và các


8

căn cứ giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, nhằm tạo nền tảng cho những
đề xuất về bổ sung, hoàn thiện pháp luật về giải thích hợp đồng vào BLDS.
- Trên cơ sở xem xét các quan điểm giải thích hợp đồng được quy định trong
pháp luật của một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới và thực tiễn giao kết, thực hiện
hợp đồng ở Việt Nam, luận án đề xuất một số căn cứ giải thích hợp đồng nhằm xem
xét bổ sung vào pháp luật giải thích hợp đồng trong BLDS.
- Cuối cùng luận án đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về giải thích hợp đồng, trong đó bao gồm kiến nghị về việc bố trí chế định giải thích
hợp đồng trong BLDS, kiến nghị sửa đổi, bổ sung các nguyên tắc, căn cứ giải thích
hợp đồng và kiến nghị cụ thể nhằm tăng hiệu quả của việc giải thích hợp đồng ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Với đề tài này, luận án đi vào nghiên cứu các vấn đề sau đây:
- Các vấn đề lý luận về hợp đồng, giải thích hợp đồng, giải thích di chúc và
giải thích giao dịch dân sự;
- Các quy định về giải thích hợp đồng của các Bộ luật dân sự ở Việt Nam qua
các thời kỳ, Bộ luật dân sự Liên bang Nga 1994, sửa đổi bổ sung 2014 và Bộ luật
dân sự của một số quốc gia khác, Bộ nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương
mại quốc tế 2004, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và
một số văn bản pháp luật có liên quan có quy định về giải thích hợp đồng ở Việt
Nam, bao gồm Luật thương mại, Luật bảo vệ người tiêu dùng.
- Thực tiễn giải thích hợp đồng ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu

Hợp đồng theo quy định của BLDS hiện hành được hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm các hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh doanh - thương mại, hợp đồng lao
động. Tuy nhiên luận án chỉ giới hạn nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực
tiễn hoạt động giải thích các loại hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh doanh thương
mại, mà không nghiên cứu về hợp đồng lao động vì đây là một loại hợp đồng đặc
thù trong quan hệ lao động.
Giải thích hợp đồng là chế định được ghi nhận trong pháp luật của hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, khi nghiên cứu chế định giải thích hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam thì luận án cũng mở rộng phạm vi nghiên cứu về chế định giải
thích hợp đồng ở một số nước trên thế giới và các văn bản pháp luật quốc tế về giải
thích hợp đồng để làm cơ sở so sánh, tiếp thu và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
giải thích hợp đồng.
Về mặt thời gian, luận án nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam


9

-

-

-

về giải thích hợp đồng trong các Bộ luật dân sự từ thời Pháp thuộc cho đến BLDS
1995, BLDS 2005, và BLDS 2015, nhưng chủ yếu đi vào nghiên cứu quy định pháp
luật về giải thích hợp đồng trong BLDS 2015. Về thực tiễn giải thích hợp đồng,
luận án chỉ giới hạn nghiên cứu thực tiễn giải thích hợp đồng của các chủ thể có
thẩm quyền giải thích từ khi Bộ luật dân sự 1995 có hiệu lực đến nay. Việc nghiên
cứu thực tiễn giải thích hợp đồng từ khi BLDS 1995 có hiệu lực đến nay vẫn có giá
trị phục vụ cho mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án vì các căn

cứ giải thích được quy định trong BLDS 2015 đều là sự kế thừa của các căn cứ giải
thích hợp đồng trong BLDS 1995 và BLDS 2005.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử trên cơ sở quan điểm, mục tiêu, đường lối của Đảng và Nhà
nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Về phương pháp nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau, bao gồm cả các phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn nói chung và phương pháp nghiên cứu khoa học luật cho từng nội dụng cụ
thể để đạt được mục tiêu nghiên cứu mong muốn. Cụ thể các phương pháp được sử
dụng như sau:
Để đạt được nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề lý luận, trong chương I, luận án chủ
yếu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn
dịch, so sánh để làm rõ khái niệm, bản chất của hoạt động giải thích hợp đồng, lý do
giải thích hợp đồng, mối quan hệ giữa giải thích hợp đồng với các hoạt động giải
thích khác.
Trong chương II, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là nghiên cứu thực trạng pháp luật
Việt Nam hiện hành về giải thích hợp đồng và thực tiễn giải thích hợp đồng ở nước
ta hiện nay, luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích, mô tả,
quy nạp, diễn dịch, so sánh pháp luật và thực tiễn.
Trong chương III và chương IV, với nhiệm vụ nghiên cứu là xem xét và đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật nên phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu
là phương pháp quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật.
Luận án sử dụng cách nghiên cứu vấn đề theo chiều dọc và chiều ngang
nhằm tạo ra cái nhìn tổng quan về vấn đề cần nghiên cứu, từ đó phục vụ cho việc
đạt được mục đích nghiên cứu của luận án.
7. Những đóng góp mới của luận án
Luận án “Giải thích hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” thể
hiện các điểm mới sau đây:
Thứ nhất, Luận án xây dựng được một cách có hệ thống các vấn đề lý luận



10

về giải thích hợp đồng, bao gồm xây dựng được khái niệm giải thích hợp đồng,
nhận diện bản chất pháp lý của giải thích hợp đồng và phân biệt với các hoạt động
khác có liên quan, xác định sự cần thiết phải giải thích hợp đồng, chủ thể giải thích
hợp đồng, phạm vi của giải thích hợp đồng, nguyên tắc giải thích hợp đồng và hậu
quả pháp lý của giải thích hợp đồng.
Thứ hai, Luận án phân tích, đánh giá một cách khách quan, toàn diện các căn
cứ giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam hiện hành và thực tiễn giải thích hợp
đồng ở Việt Nam. Cụ thể Luận án đi sâu vào phân tích các căn cứ giải thích hợp đồng
trên cơ sở đối chiếu với thực tiễn giải thích hợp đồng thông qua một số bản án, quyết
định điển hình. Từ đó, Luận án chỉ ra những bất cập còn tồn tại trong pháp luật về
giải thích hợp đồng Việt Nam và đưa ra các định hướng áp dụng các căn cứ giải thích
hợp đồng ở Việt Nam.
Thứ ba, Luận án phân tích các học thuyết về giải thích hợp đồng trên thế giới
cũng như các quan điểm hiện đại về căn cứ giải thích hợp đồng của các nước trên
thế giới. Từ đó đề xuất quan điểm về căn cứ giải thích hợp đồng cho pháp luật về
giải thích hợp đồng của Việt Nam
Thứ tư, Luận án cũng chỉ ra các căn cứ giải thích hợp đồng cần bổ sung vào
pháp luật giải thích hợp đồng của Việt Nam trên cơ sở tiếp thu pháp luật nước
ngoài, sự phù hợp với lý thuyết giải thích hợp đồng và thực tiễn giải thích hợp đồng
ở Việt Nam.
Thứ năm, trên cơ sơ chỉ ra những bất cập cần khắc phục trong chế định giải
thích hợp đồng ở Việt Nam, Luận án đã đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về giải thích hợp đồng, bao gồm đề xuất về vị trí của chế định giải
thích hợp đồng trong Bộ luật Dân sự, đề xuất về thứ tự áp dụng các căn cứ giải
thích hợp đồng ở Việt Nam và đề xuất xây dựng chế định giải thích hợp đồng trong
Bộ luật Dân sự một cách cụ thể, bao gồm 16 Điều quy định trường hợp giải thích

hợp đồng, nguyên tắc giải thích hợp đồng, các căn cứ giải thích hợp đồng, hậu quả
pháp lý của trường hợp hợp đồng không giải thích được.
Cuối cùng, Luận án đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc áp dụng
pháp luật trong việc giải thích hợp đồng ở Việt Nam, bao gồm hai nhóm giải pháp:
nhóm giải pháp đối với chủ thể giải thích và giải pháp đối với chính các bên trong
hợp đồng.
8. Ý nghĩa khoa học của luận án
Thứ nhất, luận án có đóng góp khoa học trong việc cung cấp hệ thống các
vấn đề lý luận và thực tiễn về giải thích hợp đồng. Từ đó, làm cơ sở cho các nhà lập


11

pháp nghiên cứu, phán ánh chúng vào quy định của pháp luật. Đồng thời, cũng là cơ
sở cho các chủ thể áp dụng pháp luật nắm bắt cơ sở của việc giải thích hợp đồng để
thực hiện việc giải thích hợp đồng một cách hiệu quả.
Thứ hai, luận án đưa ra những kiến nghị về hoàn thiện chế định pháp luật
giải thích hợp đồng Việt Nam. Vì vậy, luận án có ý nghĩa trong việc hoàn thiện pháp
luật hợp đồng ở Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu của nên kinh tế thị
trường trong thời kỳ toàn cầu hóa ngày càng cao.
Thứ ba, luận án cũng là nguồn tài liệu tham khảo cho các luật gia trong việc
nghiên cứu, vận dụng hoặc giảng dạy chuyên ngành luật hợp đồng trong các cơ sở
nghiên cứu, đào tạo và giảng dạy ngành luật.
9. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan tình hình nghiên cứu, kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo, thì luận án có kết cấu gồm 04 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giải thích hợp đồng
Chương 2: Các căn cứ giải thích hợp đồng theo pháp luật Việt Nam hiện
hành và thực tiễn giải thích hợp đồng ở Việt Nam
Chương 3: Các quan điểm hiện đại về căn cứ giải thích hợp đồng và việc bổ

sung một số căn cứ giải thích hợp đồng vào pháp luật Việt Nam
Chương 4: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải thích hợp đồng và nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải thích hợp đồng ở Việt Nam


12

B. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Để nghiên cứu về giải thích hợp đồng trước hết cần phải nghiên cứu những vấn
đề lý luận chung về hợp đồng, mối quan hệ giữa giải thích hợp đồng và chế định pháp
luật khác. Chính vì vậy, trong phần này, tác giả đi từ việc phân tích tình hình nghiên
cứu về các vấn đề lý luận chung về hợp đồng sau đó, tác giả phân tích tình hình nghiên
cứu về chế định giải thích hợp đồng. Từ những nghiên cứu về tình hình nghiên cứu
này, tác giả xác định định hướng nghiên cứu cho Luận án, bao gồm những điểm luận
án sẽ tiếp thu từ các công trình trước và tiếp tục phát triển, những điểm mới mà chưa
công trình nào nghiên cứu để tác giả phát triển cho luận án của mình.
1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hợp đồng
Hợp đồng là một trong những chế định pháp luật xuất hiện sớm nhất trong
lịch sử phát triển của pháp luật trên thế giới. Ngay từ thời La Mã, quan hệ hợp đồng
đã được điều chỉnh trong luật. Ở Việt Nam, Bộ luật Hồng Đức cũng đã có nhiều quy
định liên quan đến hợp đồng. Và ngày nay, hợp đồng là một trong những chế định
pháp luật quan trọng nhất của Bộ luật dân sự, là căn cứ làm phát sinh phần lớn quan
hệ nghĩa vụ, là loại hành vi pháp lý phổ biến nhất trong đời sống của con người
nhằm phục vụ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng của xã hội.
Chế định hợp đồng là một trong những loại chế định pháp lý vừa đơn giản vừa phức
tạp, “nó đơn giản đến nỗi một bà nội trợ đi mua rau cũng không cần phải học về
luật hợp đồng mới thực hiện giao dịch được. Nhưng nó cũng phức tạp đến nỗi
những hãng luật nổi tiếng cũng không soạn thảo được một hợp đồng hoàn chỉnh
hay giải quyết các tranh chấp xảy ra giữa các đối tác” 4. Chính vì vậy nghiên cứu

có hệ thống các vấn đề lý luận, pháp lý cũng như thực tiễn về chế định pháp luật
hợp đồng là rất cần thiết đối với cả người tham gia hợp đồng và cơ quan quản lý
nhà nước cũng như với các nhà làm luật. Đây là một trong những lý do làm cho các
công trình nghiên cứu về hợp đồng trở nên rất đồ sộ, trong đó có nhiều công trình
nghiên cứu về hợp đồng nói chung, có công trình nghiên cứu về các hợp đồng cụ
thể như hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, hợp đồng
tín dụng, ... Tác giả chia các công trình này thành hai nhóm lớn: các công trình nước
ngoài và các công trình trong nước.

4 Nguyễn Xuân Quang, Lê Nết, Nguyễn Hồ Bích Hằng, Luật dân sự Việt Nam, 2007, NXB Đại học quốc gia
TP. Hồ Chí Minh.


13

1.1.1. Các công trình ở nước ngoài
Hợp đồng luôn là một trong những chế định pháp luật quan trọng nhất của hệ
thống pháp luật tư ở bất kỳ quốc gia nào. Từ trước đến nay các công trình nghiên
cứu về hợp đồng chiếm một số lượng lớn trong hệ thống các công trình nghiên cứu
luật pháp của các nước trên thể giới.
Ở nước ngoài, các công trình nghiên cứu về hợp đồng có thể kể đến các công
trình sau:
Cuốn sách “Договорное право России: основы теории и практика
реализации” của tác giả Корецкий А. Д., nhà xuất bản Март, Москва – Ростов на
– Дону, 2004: tác giả đi từ nghiên cứu cơ sở lý thuyết của luật hợp đồng liên bang
Nga đến thực tiễn thi hành luật hợp đồng ở Liên bang Nga. Về tổng quát, công trình
có cấu trúc gồm hai phần: phần thứ nhất là cơ sở lý luận của luật hợp đồng của Liên
bang Nga và phần thứ hai là thực tiễn thi hành luật hợp đồng ở Liên bang Nga.
Công trình đã giải quyết các vấn đề sau: Phân tích khái niệm, thành phần, dấu hiệu
của hợp đồng; Phân biệt hợp đồng và giao dịch dân sự; Phân loại và hệ thống hóa

hợp đồng; Trình tự hình thành và chấm dứt hợp đồng; Khái niệm và nội dung của
luật hợp đồng, vị trí của luật hợp đồng trong hệ thống luật dân sự; Thực tiễn áp
dụng luật hợp đồng của tòa án Liên bang Nga dựa trên các bản án cụ thể của tòa án.
Cuốn sách “Недействительные сделки в гражданском праве – Теория и
практика оспаривания” của tác giả Гуников О. В., Nhà xuất bản Книрный мир,
Москва, 2005. Công trình đưa ra những phân tích về tính chất chung của giao dịch
dân sự vô hiệu, phân biệt giao dịch dân sự vô hiệu tương đối và giao dịch dân sự vô
hiệu tuyệt đối. Trong đó Гуников О. В. đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề lý luận và
thực tiễn còn nhiều tranh cãi trong khoa học pháp lý cũng như trong thực tiễn, trên
cơ sở so sánh, phân tích các quan điểm khác nhau của các luật gia Liên bang Nga
xoay quanh vấn đề giao dịch dân sự vô hiệu.
Cuốn sách “Недействительнось и незаключенность гражданско –
правового договора: проблемы теории и практика” của tác giả Степанова И.
Е., nhà xuất bản Проспест, Москва, 2014. Nghiên cứu chế định hợp đồng trong
giới hạn hợp đồng vô hiệu và hợp đồng chưa được giao kết, bằng phương pháp so
sánh, phân tích, cuốn sách đi vào giải quyết các vấn đề sau: trước hết tác giả nêu
lịch sử cuộc tranh luận giữa hợp đồng vô hiệu và hợp đồng chưa được giao kết ở
nước ngoài và ở liên bang Nga, bản chất pháp lý của hợp đồng vô hiệu và bản chất
pháp lý của hợp đồng chưa được xác lập, cuối cùng tác giả đánh giá sự vô hiệu của
hợp đồng trong pháp luật và thực tiễn áp dụng nó của tòa án.


14

Luận văn Thạc sỹ Luật học “Недействительность сделки и организация
судебного разбирательства по делам о действительности сделок” (theo pháp
luật Việt Nam và Liên bang Nga) của tác giả Hà Thị Thúy nghiên cứu về giao dịch
dân sự vô hiệu và việc xét xử vụ việc về hiệu lực của giao dịch dân sự. Công trình
nghiên cứu những vấn đề lý luận và pháp lý về giao dịch dân sự vô hiệu và việc xét
xử vụ việc dân sự về hiệu lực của giao dịch dân sự, trên cơ sở so sánh pháp luật Việt

Nam và liên bang Nga. Cuối cùng luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật của Việt Nam về giao dịch dân sự, và việc nâng cao hiệu quả của việc xét xử vụ
việc về hiệu lực của giao dịch dân sự ở Việt Nam.
Nhìn chung các công trình này đều đi nghiên cứu khái quát về hợp đồng
hoặc một khía cạnh chuyên sâu về hợp đồng theo pháp luật của Liên bang Nga,
trong sự so sánh với pháp luật của một số nước trên thế giới.
1.1.2. Các công trình ở trong nước
Các công trình khoa học nghiên cứu về hợp đồng ở trong nước cho đến nay
chiếm một số lượng rất lớn trong các công trình nghiên cứu về khoa học pháp lý.
Tác giả chỉ phân tích một số công trình tiêu biểu qua mỗi thời kỳ lịch sử phát triển
của chế định pháp luật hợp đồng ở Việt Nam.
Một trong những công trình khoa học pháp lý đầu tiên về luật luật dân sự ở
Việt Nam có thể kể đến đó là bộ “Việt Nam dân luật lược khảo” của tác giả Vũ Văn
Mẫu. Trong công trình này, tác giả dành quyển thứ II để nói về luật hợp đồng với
tên gọi “Nghĩa vụ và khế ước”, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn, năm 1963.
Trong cuốn sách này tác giả phân tích khái niệm nghĩa vụ, phân loại nghĩa vụ và các
văn bản pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ. Sau đó tác giả nghiên cứu về hợp đồng
(khế ước) với tư cách là một nguồn gốc làm phát sinh nghĩa vụ. Về hợp đồng Vũ
Văn Mẫu đã nghiên cứu một cách có hệ thống các vấn đề liên quan đến hợp đồng,
từ bản chất của hợp đồng (bằng cách phân loại hợp đồng dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau), giao kết hợp đồng (bao gồm trình tự giao kết hợp đồng, các khuyết tật
của hợp đồng, năng lực chủ thể của người giao kết hợp đồng, ...), hợp đồng vô hiệu
và hậu quả của hợp đồng vô hiệu, hiệu lực của hợp đồng, chấm dứt hợp đồng. Như
vậy, trong công trình này tác giả đã nghiên cứu một cách khái quát và hệ thống các
chế định pháp lý thời kỳ Pháp thuộc về nghĩa vụ và hợp đồng, trên cơ sở so sánh
với pháp luật của Cộng hòa Pháp. Đây là công trình có giá trị tham khảo, cung cấp
nền tảng lý luận cũng như pháp lý quan trọng cho việc nghiên cứu pháp luật về hợp
đồng sau này.



15

Một công trình nữa về hợp đồng có thể kể đến đó là cuốn sách chuyên khảo
“Pháp luật về hợp đồng (lược giải)” của tác giả TS. Nguyễn Mạnh Bách, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 1995. Nghiên cứu về hợp đồng trên cơ sở quy
định của pháp luật thời kỳ tiền Bộ luật dân sự 1995, tác giả nghiên cứu chế định
pháp luật hợp đồng từ khái niệm chung đến các yếu tố của hợp đồng, hiệu lực của
hợp đồng, sự vô hiệu của hợp đồng, trách nhiệm hợp đồng, thi hành nghĩa vụ trong
hợp đồng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng. Trong công trình này, với phương pháp nghiên cứu so sánh, tác giả đã
khái quát những vấn đề lý luận về hợp đồng, quy định của pháp luật về hợp đồng
theo Pháp lệnh hợp đồng dân sự và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Mặc dù được viết
trước khi Việt Nam có Bộ luật dân sự đầu tiên, nhưng công trình vẫn có giá trị tham
khảo về mặt lý luận.
Cuốn “Giáo trình Luật hợp đồng phần chung” của tác giả PGS. TS. Ngô Huy
Cương, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2013 là một công trình hiện
đại nghiên cứu về hợp đồng có tính hệ thống. Trên cơ sở nghiên cứu so sánh pháp
luật hợp đồng của nhiều nước trên thế giới, cùng với phương pháp phân tích khoa
học, tác giả có cái nhìn đa chiều về quan hệ hợp đồng và pháp luật hợp đồng của
Việt Nam hiện hành. Cuốn sách đi vào phân tích khái niệm hợp đồng, vai trò và ý
nghĩa của tự do ý chí trong giao kết hợp đồng, khái niệm, đặc điểm và chức năng
của luật hợp đồng, các nguyên tắc của luật hợp đồng, phân loại hợp đồng, giao kết
hợp đồng, hợp đồng vô hiệu, hiệu lực của hợp đồng. Bên cạnh việc nghiên cứu một
cách tổng thể, toàn diện các vấn đề lý luận và pháp lý về hợp đồng, trong công trình
này, tác giả có những đánh giá sâu sắc những ưu điểm và những bất cập của pháp
luật hợp đồng của Việt Nam hiện hành và gợi mở quan điểm cá nhân của tác giả về
hướng hoàn thiện.
Nghiên cứu từ góc độ thực tiễn xét xử của tòa án, phải kể đến bộ sách
chuyên khảo “Luật hợp đồng Việt Nam: bản án và bình luận án” tập 1, 2 của tác giả
PGS. TS. Đỗ Văn Đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2013. Công

trình nghiên cứu các chế định pháp luật hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005 theo
từng vấn đề bằng việc dẫn chứng các bản án từ thực tiễn xét xử của tòa án. Từ
những phán quyết của tòa án tác giả bình luận hướng giải quyết của tòa án, từ đó
đưa ra những đánh giá, phân tích về từng chế định cụ thể của Bộ luật dân sự về hợp
đồng, so sánh với pháp luật của các nước trên thế giới và đề xuất những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng.


16

Về các loại hợp đồng cụ thể trong pháp luật Việt Nam, có thể kể đến cuốn:
“Hợp đồng tín dụng và biện pháp bảo đảm tiền vay” của nhóm tác giả TS. Phạm
Văn Tuyết và TS. Lê Kim Giang, nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội, năm 2012, “Pháp
luật về tặng cho quyền sử dụng đất ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Hải An, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội, năm 2012, ... Các công trình này đi vào
nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý, thực tiễn liên quan đến từng loại hợp đồng
cụ thể dựa trên nền tảng chung của luật hợp đồng.
Ở cấp độ luận án, luận văn nghiên cứu về hợp đồng có thể kể đến các công
trình sau:
Luận án tiến sỹ luật học “Hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật
Việt Nam” của Nghiên cứu sinh Lê Minh Hùng, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2010. Luận án nghiên cứu vấn đề chuyên sâu về hợp đồng đó là hiệu lực
của hợp đồng. Trong công trình này, tác giả nghiên cứu những vấn đề lý luận chung
về hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng, hiệu lực ràng buộc của hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng khi hoàn cảnh thay
đổi. Qua nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn xét xử của tòa án liên
quan đến hiệu lực của hợp đồng, tác giả đánh giá những bất cập của pháp luật Việt
Nam hiện hành về hiệu lực của hợp đồng, từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện
quy định của Bộ luật dân sự 2005 về hiệu lực hợp đồng.
Luận án “Giai đoạn tiền hợp đồng trong pháp luật Việt Nam” của Nghiên

cứu sinh Lê Trường Sơn, năm 2015, cũng nghiên cứu về hợp đồng nhưng tác giả
chọn nghiên cứu về giai đoạn tiền hợp đồng. Giai đoạn tiền hợp đồng có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc hình thành nên hợp đồng cũng như giải thích hợp đồng.
Luận án nghiên cứu các vấn đề lý luận, pháp lý về giai đoạn tiền hợp đồng, đặc biệt
về nghĩa vụ cung cấp thông tin, bảo mật thông tin trong giai đoạn tiền hợp đồng và
hậu quả pháp lý của hành vi vi phạm nghĩa vụ tiền hợp đồng, về yêu cầu pháp lý,
hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, từ
đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện Bộ luật dân sự 2005 về chế định giao kết hợp đồng,
trên cơ sở so sánh với pháp luật một số nước trên thế giới.
Ở cấp độ bài báo khoa học, tham luận hội thảo, nghiên cứu về hợp đồng có
thể kể đến các công trình sau đây:
“Nhầm lẫn trong chế định hợp đồng: những bất cập và hướng sửa đổi Bộ
luật dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 22, 23, tháng 11, 12/2009 của tác giả
Đỗ Văn Đại. Công trình phân tích chế định giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn,
tại Điều 131 BLDS 2005, những khiếm khuyết của chế định này trên cơ sở phân
tích những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đề xuất hướng hoàn thiện.


17

“Hiệu lực của chấp nhận giao kết hợp đồng theo Bộ luật dân sự 2005 – nhìn
từ góc độ so sánh”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 24, tháng 12/2010 của tác giả
PGS. TS. Ngô Huy Cương. Công trình nghiên cứu về chế định chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng trong Bộ luật dân sự 2005 trên cơ sở so sánh với pháp luật Hoa
Kỳ, Quebec, cổ luật Việt Nam và pháp luật Liên bang Nga. Từ đó đánh giá những
điểm bất hợp lý trong chế định này của pháp luật Việt Nam và kiến nghị hoàn thiện.
Ngoài ra, có thể kể đến một số công trình như: “Thời điểm phát sinh hiệu lực
của hợp đồng vay tài sản và hợp đồng tặng cho tài sản theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2005”, của tác giả ThS. Vũ Thị Hồng Yến, tạp chí Luật học, số 4/2010,
“Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng trong Bộ

luật dân sự” của ThS. Nguyễn Văn Phái, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 24, tháng
12/2010, “Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng dân sự”
của tác giả Đinh Mai Phương, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số chuyên đề 2, tháng
11/2001, “Bàn về hợp đồng vô hiệu do được giao kết bởi người mất năng lực hành
vi dân sự qua một số vụ án” của TS. Đỗ Văn Đại, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 4
(41)/2007, “Bàn về sửa đổi các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật dân sự
2005” của PGS. TS. Ngô Huy Cương, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16
(153)/2009, “Về lãi suất trong hợp đồng vay tài sản và lãi suất quá hạn trong dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật dân sự 2005” của ThS. Lê Minh
Hùng, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 6/2008, v.v.
1.2. Tình hình nghiên cứu về giải thích hợp đồng
1.2.1. Các công trình ở nước ngoài
Liên quan đến vấn đề giải thích hợp đồng, ở nước ngoài có thể kể đến cuốn:
“Сравнительное правоведение в сфере частного права”, tập 2, của tác giả
Konrad Zweigert và Hein Kotz, nhà xuất bản Международные отношения,
Москва, 1998, bản dịch bằng tiếng Nga. Công trình này tác giả chủ yếu nghiên cứu
về hợp đồng, từ giao kết hợp đồng đến thực hiện hợp đồng, về sự được lợi vô căn
cứ, bồi thường thiệt hại do hành vi trái luật. Trong đó, tác giả dành từ trang 106 đến
trang 118 để viết về giải thích hợp đồng. Trong phần này, tác giả đề cập đến hai học
thuyết giải thích hợp đồng tồn tại trong khoa học pháp lý là học thuyết ý chí và học
thuyết thể hiện ý chí. Từ đó, tác giả phân tích so sánh pháp luật của các nước trên
thế giới, cùng với công ước Viên, cuối cùng tác giả cho rằng, việc vận dụng học
thuyết ý chí để giải thích hợp đồng trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp, do
nó chỉ phù hợp trong một xã hội lý tưởng. Còn trong giai đoạn hiện hay việc vận
dụng học thuyết thể hiện ý chí để giải thích hợp đồng vẫn là phù hợp hơn cả.


18

Sau khi bảo vệ Luận án Tiến sỹ: “Толькование граждаско – правового

договора” năm 2008, thì năm 2014, phát triển từ luận án của mình, Степанюк Н.
В. đã xuất bản cuốn sách “Толькование граждаско – правового договора:
проблемы теории и практики”, Nhà xuất bản Научная Мысль, Москва. Trong
công trình này, tác giả đã phân tích khái niệm giải thích dưới nhiều góc độ (góc độ
triết học, góc độ pháp lý), phân tích lịch sử chế định giải thích hợp đồng ở Liên
bang Nga, phân tích vai trò của ý chí và thể hiện ý chí trong giải thích hợp đồng.
Cuối cùng, Степанюк Н. В. phân tích các phương pháp và quy tắc giải thích hợp
đồng theo quy định của pháp luật Liên bang Nga hiện hành và thực tiễn giải thích
hợp đồng ở Liên bang Nga, sau khi so sánh với pháp luật một số nước tác giả đưa ra
một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật Liên bang Nga về giải thích hợp đồng.
Cuốn “Толкование договора судом” của tác giả Сошуро Л. В., nhà xuất bản
Проспест, Москва, 2008: Với nội dung gồm ba chương, hợp đồng dân sự như một
đối tượng của sự giải thích, thực tiễn pháp lý của việc giải thích và vai trò của việc
giải thích của tòa án trong việc thực thi pháp luật, công trình đi vào giải quyết các
vấn đề sau: Thứ nhất, cuốn sách phân tích các điều khoản của hợp đồng có ý nghĩa
về mặt khoa học và thực tiễn cho việc giải thích hợp đồng, liên hệ với các quy tắc
giải thích hợp đồng được quy định tại Điều 431 BLDS Liên bang Nga về giải thích
hợp đồng, đưa ra một số kiến nghị về các quy tắc áp dụng pháp luật. Thứ hai, tác
giả chỉ ra các tình tiết liên quan đến vụ án về giải thích hợp đồng và phân loại và
phân tích ý nghĩa của việc xác định các tình tiết có ý nghĩa chứng minh trong vụ
việc. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định rằng, việc đưa ra được một bản án giải
thích hợp đồng hợp pháp và có căn cứ thì chỉ có thể được thực hiện bởi mỗi thẩm
phán có tính sáng tạo trong việc vận dụng các quy định của pháp luật và có trình độ
chuyên môn cao. Cuối cùng, tác giả phân tích vai trò của việc giải thích hợp đồng
của tòa án trong việc thực thi pháp luật để xây dựng một nước Nga dân chủ.
Luận án tiến sỹ Luật học “Особенности толкования договора в российском
гражданском праве” của Байрамкулов Алан кемалович, Đại học Luật và so sánh
luật thuộc chính phù Liên bang Nga, năm 2015. Luận án đã làm rõ lý do phải giải
thích hợp đồng, khái niệm giải thích hợp đồng. Đặc biệt Luận án đã làm rõ những
cách tiếp cận để xây dựng chế định pháp luật về giải thích hợp đồng, bao gồm quan

điểm chủ quan, quan điểm khách quan về giải thích hợp đồng và nghiên cứu vận
dụng các quan điểm này vào chế định giải thích hợp đồng của Liên bang Nga. Từ
việc phân tích các cánh tiếp cận để xây dựng chế định giải thích hợp đồng trên thế
giới tác giả luận án đề xuất kiến nghị xây dựng chế định giải thích hợp đồng của


19

Liên bang Nga theo cách tiếp cận chủ quan, tức là giải thích hợp đồng căn cứ vào ý
chí chung đích thực của các bên. Trong trường hợp xác định được rằng ý chí chung
của các bên thì hợp đồng được giải thích theo cách hiểu của một người hợp lý đặt ở
vị trí của các bên xác lập hợp đồng. Cách tiếp cận này của tác giả luận án tương tự
với cách tiếp cận của Bộ Nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế,
hay Bộ luật Dân sự Pháp hiện hành. Bên cạnh đó, Luận án cũng nghiên cứu về việc
thiết lập các quy tắc giải thích hợp đồng cho pháp luật Liên bang Nga về giải thích
hợp đồng. Theo đó, tác giả nhận định rằng, việc thiết lập các quy tắc chung cho việc
giải thích hợp đồng là vô cùng khó khăn bởi vì mỗi hợp đồng đều có những đặc
điểm riêng biệt và luôn phụ thuộc vào một hoàn cảnh cụ thể. Và vì thế việc xây
dựng một quy tắc giải thích hợp đồng chung có thể dẫn đến thừa hoặc thiếu, mà nên
giao sự chủ động trong việc giải thích cho Thẩm phán. Luận án cũng đánh giá các
căn cứ giải thích hợp đồng theo pháp luật Liên bang Nga, bao gồm: ứng xử của các
bên sau khi hợp đồng được giao kết; những thư từ, trao đổi tiền hợp đồng; thói quen
được hình thành giữa các bên, mục đích và ý nghĩa chung của hợp đồng; tập quán
và những tình tiết khác được viện dẫn để giải thích hợp đồng. Cuối cùng Luận án
nghiên cứu về việc bổ sung hợp đồng – giải thích bổ sung. Những chủ đề nghiên
cứu trên cùng với những kết luận của luận án trên giúp nghiên cứu sinh có cái nhìn
tổng quan về pháp luật Liên bang Nga về giải thích hợp đồng. Từ đó, nghiên cứu so
sánh với pháp luật của Việt Nam, làm cơ sở đề xuất việc vận dụng cách tiếp cận cho
chế định giải thích hợp đồng ở Việt Nam và đề xuất việc bổ sung một số căn cứ giải
thích hợp đồng cho pháp luật Việt Nam.

Cuốn sách “Толкование договора в Российском и зарубежном праве” của
Байрамкулов А. К., nhà xuất bản Status, Moscow, năm 2016. Cuốn sách nghiên
cứu một cách tổng quát các vấn đề về giải thích hợp đồng theo pháp luật của một số
quốc gia tiêu biểu cho các hệ thống pháp luật, bao gồm Anh, Mỹ, Pháp, Đức trong
mối tương quan với pháp luật Liên bang Nga về giải thích hợp đồng. Bằng phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh tác giả đã đưa ra khái niệm giải thích hợp đồng
dựa trên các nguyên nhân dẫn đến giải thích hợp đồng; phân tích khái quát các cách
tiếp cận chủ quan và khách quan trong pháp luật giải thích hợp đồng từ thời La Mã
cho đến pháp luật về giải thích hợp đồng hiện đại. Từ đó đề xuất việc xem xét vận
dụng các cách tiếp cận chủ quan và khách quan vào việc xây dựng chế định giải
thích hợp đồng của Liên bang Nga. Nội dung cuốn sách một lần nữa khẳng định đề
xuất việc xây dựng chế định giải thích hợp đồng của Liên bang Nga dựa trên sự kết
hợp giữa cách tiếp cận chủ quan và cách tiếp cận khách quan. Cuốn sách cũng phân


20

tích các căn cứ giải thích hợp đồng theo pháp luật Liên bang Nga trên cơ sở so sánh
với pháp luật của một số quốc gia khác, phân tích những hạn chế của việc vận dụng
các căn cứ giải thích hợp đồng, và vấn đề giải thích bổ sung hợp đồng. Cuốn sách là
một công trình công phu nghiên cứu về pháp luật giải thích hợp đồng của nhiều
quốc gia đại diện cho các hệ thống pháp luật chính trên thế giới. Cuốn sách đã giải
quyết được nhiều vấn đề thời sự về giải thích hợp đồng hiện nay, bao gồm khái quát
hóa được các nguyên nhân của giải thích hợp đồng, khái niệm giải thích hợp đồng,
các cách tiếp cận xây dựng chế định pháp luật về giải thích hợp đồng. Cuốc sách
cũng đã đánh giá một cách khách quan các hạn chế trong việc xây dựng chế định
pháp luật về giải thích hợp đồng hiện nay của các quốc gia trên thế giới, bao gồm:
các hạn chế của việc vận dụng các căn cứ giải thích hợp đồng của Liên bang Nga và
khẳng định những hạn chế trong việc giải thích căn cứ vào nghĩa đen của từ ngữ
trong pháp luật Anh, Liên bang Nga; sự hạn chế của quy tắc giải thích không căn cứ

vào các chứng cứ khác như các đàm phán trước đó, có hành vi của các bên sau khi
hợp đồng được giao kết của pháp luật Anh và những ưu điểm của pháp luật Đức
trong việc coi trọng các thư từ đàm phán, các hành vi ứng xử của các bên được coi
là một căn cứ giải thích hợp đồng; vấn đề hạn chế trong việc xem xét lại bản án,
quyết định giải thích hợp đồng của tào án cấp trên, bởi vì chỉ xem việc giải thích
hợp đồng là vấn đề sự kiện, mà không phài là vấn đề pháp lý của một số nước.
Những kết quả nghiên cứu này sẽ tạo ra cái nhìn toàn diện cho nghiên cứu sinh
trong việc đánh giá các pháp luật thực định Việt Nam về giải thích hợp đồng và cân
nhắc đề xuất bổ sung một số căn cứ giải thích hợp đồng cho pháp luật Việt Nam.
Bài viết “Толькование договора” của tác giả Жученко С. П. trong cuốn
«Практика применения общих положений об обязательствах», nhà xuất bản
Статус, Москва, 2011, từ trang 371 đến trang 391. Trong công trình này ông đã
giải quyết năm vấn đề từ việc phân tích chế định giải thích hợp đồng trong BLDS
Liên bang Nga hiện nay. Thứ nhất, tác giả Жученко С. П. đề cập đến phương pháp
giải thích. Ông đặt câu hỏi, có thể sử dụng cùng một phương pháp để giải thích
pháp luật và giải thích hợp đồng hay không? Liên quan đến vấn đề phương pháp
giải thích, Жученко С. П. còn đặt thêm hai câu hỏi: Có nên thừa nhận hợp đồng là
một hệ thống (gồm tổng hợp các điều khoản của nó) hay không? Và có thể thừa
nhận với tư cách là một hệ thống đối với các «hợp đồng mẫu – giao dịch một lần»
hoặc «hợp đồng chính – hợp đồng bổ sung» hay không? Thứ hai, Жученко С. П.
phân tích hợp đồng không phải là hình thức pháp lý duy nhất chứa đựng sự thể hiện
ý chí của các bên tham gia giao lưu dân sự, mà còn có hành vi pháp lý đơn phương.


21

Với hành vi pháp lý đơn phương, BLDS Liên bang Nga chỉ có điều luật duy nhất là
điều về giải thích di chúc. Vậy vấn đề đặt ra là, đối với các loại giao dịch dân sự
khác thì phải áp dụng điều luật nào để giải thích, ví dụ như quan hệ ủy quyền, quan
hệ hứa thưởng, … Thứ ba, trong bài viết của mình Жученко С. П. đặt ra vấn đề

phân biệt việc loại bỏ lỗ hổng trong hợp đồng và giải thích hợp đồng. Vì trong thực
tế vẫn có nhiều quan điểm đồng nhất hai hoạt động này với nhau. Thứ tư, tác giả đặt
vấn đề, để hiểu được sự thể hiện ý chí thì phải dựa vào căn cứ nào: ý nghĩa của từ
ngữ, ý chí đích thực của các bên hay một các hiểu hợp lý nào khác. Thứ năm,
Жученко С. П. cho rằng thực tiễn giải thích hợp đồng ở Nga đang được phát triển
theo hai hướng là giải thích hệ thống – dựa vào cấu trúc của văn bản giải thích và
giải thích nội dung – có quan hệ với các quy tắc và phương pháp giải thích. Từ đó
ông đặt ra vấn đề về tính hợp lý của các quy tắc giải thích hợp đồng theo Điều 431
BLDS Liên bang Nga.
Ở Nga, các nhà khoa học pháp lý khá quan tâm đến mối quan hệ giữa giải
thích pháp luật và giải thích hợp đồng. Hoạt động giải thích hợp đồng và giải thích
pháp luật có nhiều điểm chung, trong đó bản chất của hai hoạt động này đều là làm
rõ nội dung không rõ ràng hoặc mâu thuẫn nhau của sự thể hiện ý chí. Chính vì vậy
hiện nay có một số quan điểm cho rằng giải thích hợp đồng và giải thích pháp luật
có mối quan hệ tương đồng nhau. Số lượng công trình nghiên cứu biện chứng hoạt
động giải thích pháp luật và giải thích hợp đồng có thể kể đến:
Cuốn sách “Толкование права и договора” của tác giả A. F. Cherdantsev
Черданщев А. Ф. được xuất bản năm 2003, nhà xuất bản Yuniti – daha, Москва
nghiên cứu về giải thích pháp luật và hợp đồng. Cuốn sách đi từ nghiên cứu giải
thích pháp luật về đối tượng của giải thích, tính chất chung của việc giải thích, trong
đó phân tích khái niệm và một số vấn đề lý luận về giải thích, bản chất nhận thức lý
luận của giải thích (tính khách quan của giải thích, giải thích là nhận thức trung
gian, giải thích – quá trình biện chứng của nhận thức, giải thích – quá trình chủ
quan của nhận thức, nguyên tắc giải thích), điều chỉnh pháp lý của giải thích (tác giả
phân tích vị trí của giải thích trong hệ thống điều chỉnh pháp luật, sự cần thiết giải
thích pháp luật để thực thi); kỹ thuật giải thích, trong đó tác giả nghiên cứu các
phương pháp giải thích: phương pháp ngữ nghĩa, phương pháp logic, phương pháp
hệ thống. Cuối cùng trong phần kết quả giải thích sau khi phân tích và đánh giá về
kết quả giải thích pháp luật của tòa án, tác giả đề cập đến giải thích hợp đồng. Trong
phần giải thích hợp đồng Черданщев А. Ф. cho rằng giải thích hợp đồng và giải

thích pháp luật có nhiều điểm chung hơn là sự khác biệt. Ông đánh giá vai trò của


22

học thuyết ý chí và học thuyết thể hiện ý chí trong giải thích hợp đồng, từ đó,
Черданщев А. Ф. đề xuất quan điểm không thể giải thích giải thích các loại hợp
đồng khác nhau chỉ dựa trên một học thuyết duy nhất. Tác giả cho rằng việc giải
thích hợp đồng là việc đi tìm ý chí chung của các bên trong hợp đồng, ý chí này
được thể hiện trước hết trong chính các điều khoản của hợp đồng, chính vì vậy, việc
phân tích các điều khoản của hợp đồng là rất cần thiết để giải thích hợp đồng. Và
nếu không phân tích chúng thì không thể xác định được bản chất pháp lý của hợp
đồng. Từ đó, ông phân tích các thành phần của hợp đồng nhằm đánh giá vai trò của
tùng thành phần (điều khoản) này trong việc giải thích hợp đồng. Cuối cùng tác giả
phân tích bốn quy tắc giải thích hợp đồng được quy định tại Điều 431 BLDS Liên
bang Nga 1994.
Nghiên cứu về giải thích hợp đồng trong sự so sánh với giải thích pháp luật,
Березина Е. А. nghiên cứu và bảo vệ luận án tiến sỹ “Толкование договора как
вид юридического толкования” tại Học viện Luật Quốc gia Uran, Ekateburg, năm
2001. Trong công trình này, tác giả nhìn nhận giải thích hợp đồng như một dạng đặc
biệt của giải thích pháp luật. Chính vì vậy, tác giả đi từ việc nghiên cứu khái niệm,
phương pháp giải thích pháp luật, khái niệm và đặc điểm của hợp đồng với tư cách
là đối tượng của giải thích pháp luật, các loại giải thích hợp đồng dân sự, từ đó
Березина Е. А. đặt ra vấn đề tính hợp lý của các phương pháp và quy tắc giải thích
hợp đồng theo pháp luật hiện hành theo Điều 431 BLDS Liên bang Nga và đưa ra
một số kiến nghị hoàn thiện.
Cuốn sách “Element of contract interpretation” của Steven J. Burton, nhà xuất
bản Oxford, năm 2009. Burton S. J. đi từ phân tích các vấn đề lý luận về giải thích
hợp đồng, bao gồm mục đích của giải thích hợp đồng, nhiệm vụ của giải thích hợp
đồng và các lý thiết về giải thích hợp đồng. Sau đó, tác giả nghiên cứu các căn cứ

giải thích hợp đồng. Tác giả chia các căn cứ giải thích hợp đồng thành ba nhóm căn
cứ: căn cứ vào nghĩa đen và cách diễn đạt của hợp đồng, căn cứ vào các yếu tố chủ
quan và căn cứ vào các yếu tố khách quan. Tác giả cuốn sách cũng phân tích các
quy tắc giải thích hợp đồng trong pháp luật Hoa Kỳ, bao gồm quy tắc giải thích
“parol”, quy tắc giải thích hợp đồng tích hợp, các nguyên tắc giải thích hợp đồng,
sự hạn chế của các quy tắc giải thích hợp đồng. Mặc dù tác phẩm chủ yếu nghiên
cứu các quy định pháp luật về giải thích hợp đồng của Hoa Kỳ, nhưng cuốn sách là
nguồn tài liệu để nghiên cứu sinh so sánh với pháp luật về giải thích hợp đồng của
Việt Nam và các nước khác trên thế giới. Đặc biệt, khái niệm căn cứ giải thích hợp
đồng và cách phân nhóm các căn cứ giải thích hợp đồng của tác giả có ý nghĩa quan


23

trọng cho nghiên cứu sinh tham khảo để đánh giá và nhận định về cách xác định thứ
tự ưu tiên vận dụng các căn cứ giải thích hợp đồng trong pháp luật giải thích hợp
đồng của Việt Nam. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải thích
hợp đồng của Việt Nam và cách vận dụng các căn cứ giải thích hợp đồng cho quá
trình giải thích hợp đồng của chủ thể giải thích hợp đồng ở Việt Nam.
Cuốn sách “The interpretation of contract” của Lewison K., nhà xuất bản
Sweet and Maxwell, năm 2011. Lewison phân tích các nguyên nhân dẫn đến giải
thích hợp đồng trong pháp luật Anh. Theo ông, nguyên nhân dẫn đến giải thích hợp
đồng là do hợp đồng có những nội dung không rõ ràng. Sự không rõ ràng trong hợp
đồng được chia thành hai loại: sự không rõ ràng hiển nhiên và sự không rõ ràng ẩn
dấu. Theo ông, sự không rõ ràng trong điều khoản của hợp đồng được hiểu bao gồm
tất cả các trường hợp, khi mà điều khoản tranh chấp có hai hoặc nhiều hôn hai cách
hiểu, mỗi cách hiểu đều có thể áp dụng mà không có sự sai lệch ngôn ngữ. Từ
những phân tích này, Lewison đã rút ra các quy tắc giải thích hợp đồng trong pháp
luật Anh. Ông cũng phê phán quy tắc vàng trong giải thích hợp đồng theo pháp luật
Anh. Kết luận của Lewison về khái niệm sự không rõ ràng của hợp đồng gần tương

đồng với khái niệm điều khoản hợp đồng được hiểu theo nhiều nghĩa trong pháp
luật của Việt Nam. Tuy vậy, sự không rõ ràng của điều khoản hợp đồng dường như
có phạm vi rộng hơn như thế, bởi vì nó còn bao gồm trường hợp điều khoản của
hợp đồng không có nghĩa – tức là không rõ ràng và trường hợp từng điều khoản của
hợp đồng đã rất rõ ràng nhưng nội dung của chúng lại mâu thuẫn nhau. Tuy vậy,
những phân tích và kết của của Lewison. K trong cuốn sách sẽ là cơ sở để nghiên
cứu sinh đánh giá, so sánh để rút ra sự cần thiết phải giải thích hợp đồng trong pháp
luật Việt Nam, cùng với đó kiến nghị trong việc xây dựng các căn cứ giải thích hợp
đồng nhằm hoàn thiện pháp luật giải thích hợp đồng của Việt Nam.
Cuốn sách “Interpretation of Contracts” của Catherine Mitchell, nhà xuất bản
Routledge – Cavendish, năm 2007. Cuốn sách nghiên cứu những vấn đề lý luận về
bản chất và phạm vi của giải thích hợp đồng, bao gồm khái niệm về hợp đồng, khái
niệm giải thích hợp đồng, những cuộc tranh luận về hợp đồng, giải thích và hiệu lực
của hợp đồng, phạm vi của vấn đề giải thích hợp đồng. Cuốn sách cũng nghiên cứu
về chủ nghĩa ngữ cảnh trong giải thích hợp đồng, các nguyên tắc giải thích hợp
đồng. Cuốn sách nghiên cứu vấn đề giải thích hợp đồng trong mối quan hệ với các
loại giải thích khác trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Tác giả cho
rằng giải thích hợp đồng khác với công việc giải thích ngữ nghĩa khác trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn. Bởi vì giải thích hợp đồng là việc xác định ý chí


24

của chủ thể tại thời điểm giao kết hợp đồng, và mỗi hợp đồng luôn được đặt trong
một ngữ cảnh cụ thể. Những kết luận này của Catharine Mitchell gợi mở cho nghiên
cứu sinh trong việc cân nhắc việc giải thích hợp đồng căn cứ vào nghĩa đen của từ
ngữ. Theo đó, việc giải thích hợp đồng căn cứ vào nghĩa đen từ ngữ dường như là
cách giải thích ngữ nghĩa của từ ngữ, trong khi hợp đồng là một phương tiện thể
hiện ý chí của các bên. Việc giải thích hợp đồng trước hết phải căn cứ trên ý chí
chung đích thực của các bên. Từ đó, nghiên cứu sinh cũng nhận thấy vai trò của

hoàn cảnh thực tế tại thời điểm giao kết, thực hiện hợp đồng cũng có ý nghĩa rất lớn
đối với việc làm rõ nội dung của hợp đồng.
1.2.2. Các công trình ở trong nước
Ở trong nước cũng có một số công trình nghiên cứu liên quan đến giải thích
hợp đồng. Tuy nhiên số lượng chưa nhiều. Các công trình này chủ yếu nghiên cứu
các vấn đề chung về hợp đồng, và có đề cập một cách khá rải rác về vấn đề giải
thích hợp đồng mà chưa có một công trình chuyên sâu nào đi vào nghiên cứu về
hoạt động này.
Một trong những cuốn sách chuyên khảo đầu tiên về luật dân sự ở Việt Nam
là cuốn “Việt Nam dân luật lược khảo” của tác giả Vũ Văn Mẫu, được xuất bản năm
1963, ở Sài Gòn. Cuốn sách dành quyển thứ II để nghiên cứu về nghĩa vụ và khế
ước, trong đó tác giả đưa ra những luận giải khái quát về giải thích hợp đồng, từ
trang 260 đến trang 270. Trong công trình này tác giả trình bày hai vấn đề sau: Thứ
nhất là, các nguyên tắc giải thích hợp đồng, theo tác giả thì nguyên tắc giải thích
hợp đồng là sự tìm kiếm ý chí của các người kết ước, và chỉ khi không tìm thấy ý
chí của người kết ước thì các thẩm phán mới có thể dùng luật pháp, tục lệ hay
nguyên tắc công bằng để giải thích hợp đồng. Và trong khi giải thích hợp đồng thì
cần phải cố gắng khám phá ra ý chí của các bên hơn là dựa vào nghĩa đen của từ
ngữ. Thứ hai là, về vấn đề kiểm soát của tòa phá án về sự giải thích hợp đồng thì
theo tác giả nếu việc giải thích hợp đồng là một vấn đề pháp lý thì tòa phá án có
quyền kiểm soát, còn nếu chỉ coi đó là vấn đề sự kiện (thực trạng) thì tòa phá án
không có thẩm quyền kiểm soát. Từ việc phân tích án lệ của Pháp và quy định của
luật thực định của Việt Nam lúc bấy giờ, theo tác giả thì việc giải thích hợp đồng
chỉ là xác nhận thực trạng, và vì thế nó không phải là giải thích pháp luật. Chính vì
vậy nên tòa phá án không có quyền kiểm soát việc giải thích hợp đồng.
Trước khi Việt Nam ban hành Bộ luật dân sự đầu tiên – Bộ luật dân sự 1995, ở
trong nước, cuốn “Pháp luật về hợp đồng”, xuất bản năm 1995, Tiến sỹ Nguyễn
Mạnh Bách đã đưa ra những luận giải về giải thích hợp đồng. Theo đó, ông cho rằng



25

việc giải thích hợp đồng là để xác định nghĩa vụ của mỗi bên đương sự. Vì thế ông
phân chia việc giải thích hợp đồng thành hai giai đoạn, đó là phân tích hợp đồng và
tìm kiếm các nghĩa vụ của hợp đồng. Trong giai đoạn phân tích hợp đồng, tác giả
luận giải, khi hợp đồng có những điều khoản mập mờ, tối nghĩa thì nhiệm vụ của
thẩm phán là phải tìm ra ý chí chung của các bên giao kết hợp đồng dựa vào các
nguyên tắc giải thích theo nghĩa làm cho điều khoản ấy có hiệu quả, giải thích theo
nghĩa phù hợp với bản chất của hợp đồng, giải thích căn cứ vào tập quán, thông lệ
của địa phương nơi hợp đồng được thiết lập, và giải thích theo nghĩa thích hợp nhất
với toàn bộ nội dung của hợp đồng. Khi không thể xác định được ý chí chung của các
bên trong hợp đồng thì tòa án sẽ giải thích hợp đồng dựa vào luật pháp, tập quán hay
nguyên tắc công bằng. Trong giai đoạn tìm kiếm nghĩa vụ của hợp đồng, thẩm phán
phải phân tich bản chất của hợp đồng để tìm nghĩa vụ của hợp đồng, bao gồm nghĩa
vụ chung cho mọi loại hợp đồng và nghĩa vụ riêng biệt cho từng loại hợp đồng.
Bộ luật dân sự 1995 lần đầu tiên, nước ta có một điều luật về giải thích hợp
đồng riêng, Điều 408 BLDS 1995, với mục đích góp ý dự thảo Bộ luật dân sự sửa
đổi, Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Khánh đã có bài báo“Giải thích hợp đồng dân sự: So
sánh nước ngoài và liên hệ Điều 408 Bộ luật dân sự” đăng trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 10/2004. Bài báo đưa ra những vấn đề khái quát nhất về lịch sử phát
triển các học thuyết giải thích hợp đồng và nêu sơ lược quy định của pháp luật một
nước về giải thích hợp đồng, bao gồm Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga, Vương quốc
Anh, Công ước Viên 1980, từ đó tác giả so sánh với Điều 408 BLDS 1995. Bên
cạnh đó, tác giả cũng đưa ra một số điểm chưa hợp lý của Bộ luật dân sự 1995 về
giải thích hợp đồng, như Điều 408 BLDS 1995 chưa giải quyết được vấn đề khi có
sự mâu thuẫn giữa ý chí đích thực của các bên và ngôn từ của hợp đồng thì phải ưu
tiên áp dụng quy tắc nào để giải thích hợp đồng. Cuối cùng, tác giả bài báo đưa ra
nhiệm vụ cần phải tiếp tục nghiên cứu, trao đổi, tổng hợp để xây dựng cơ sở lý luận
sâu sắc hơn, hoàn thiện hơn cho hoạt động giải thích hợp đồng ở nước ta.
Bộ luật dân sự 2005 ra đời thay thế cho Bộ luật dân sự 1995, khi nghiên cứu

về chế định hợp đồng trong bộ luật này trong cuốn sách chuyên khảo “Chế định
hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” tác giả Nguyễn Ngọc Khánh, xuất bản
năm 2007 cũng dành một mục lớn để nghiên cứu về vấn đề giải thích hợp đồng, từ
trang 251 đến trang 266. Từ phương pháp so sánh pháp luật La Mã, cùng với pháp
luật của một số nước trên thế giới, TS. Nguyễn Ngọc Khánh tiếp tục nêu một cách
khái quát các học thuyết pháp lý về giải thích hợp đồng tồn tại trên thế giới và chế
định giải thích hợp đồng của một số quốc gia như Cộng hòa Pháp, Liên bang Nga,


×