Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

giải pháp tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.94 KB, 29 trang )

TRƯỜNG HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
KHOA TÀI CHÍNH

CHUYÊN ĐỀ THẢO
LUẬN
MÔN HOẠT ĐỘNG CỦA HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
VIỆT NAM
ĐỀ TÀI 9:
GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM THÁO GỠ KHÓ KHĂN
CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Tuyết Lan


Mục Lục

Lời mở đầu........................................................................................................................................................1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNNVV Ở VIỆT NAM......................................................................2
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO DNNVV
...........................................................................................................................................................................5
2.1 Hỗ trợ từ ngành thuế.........................................................................................................................9
3.1 Những vấn đề đạt được:..................................................................................................................12
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO CÁC DNNVV Ở
VIỆT NAM........................................................................................................................................................14
3.4 Một số giải pháp tài chính khác.......................................................................................................23
Kết luận...........................................................................................................................................................25



Lời mở đầu
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là một bộ phận cấu thành trong hệ thống doanh


nghiệp của một quốc gia. Thống kê của các nước cho thấy, DNNVV chiếm trên 90%
trong tổng số doanh nghiệp của cả nước, đóng góp đáng kể cho sự phts triển của nền kinh
tế trên nhiều phương diện. So với các doanh nghiệp lớn, DNNVV có ưu điểm trong việc
tận dụng tất cả những nguồn lực tại chỗ, từ nguồn nguyên liệu, nguồn vốn cho đến nguồn
lao động đủ mọi trình độ, kể cả lao động phổ thông và đặc biệt là tạo khối lượng lớn việc
làm cho người lao động: người tàn tật, phụ nữ, những người lao động dôi dư qua việc sắp
xếp lại doanh nghiệp nhà nước, những người làm nông những lúc nông nhàn,… Đối với
DNNVV, một ý tưởng kinh doanh có thể trở thành hiện thực, bởi nó dễ thành lập, sự gọn
nhẹ , nguồn vốn ban đầu ít… đó cũng là nơi đào tạo doanh nhân lý tưởng, là cơ sở hình
thành nên các doanh nghiệp lớn.
Ở Việt Nam, DNNVV cũng đã phát triển rộng khắp cả nước. Cùng với quá trình đổi mới
kinh tế, Việt Nam đã và đang tích cực chủ động hội nhập. Quá trình hội nhập tác động
mạnh mẽ tới nền kinh tế nói chung và DNNVV nói riêng. Qua đó tạo được môi trường
kinh doanh thuận lợi giúp các doanh nghiệp có cơ hội để phát triển.
Do hạn chế từ quy mô nhỏ, yếu kém trong năng lực sản xuất, năng lực cạnh tranh, những
trở ngại trong môi trường kinh doanh, …, các DNNVV đã đang và sẽ phải đối mặt với rất
nhiều khó khăn và thách thức. Đó là sự cạnh tranh gay gắt, những biến động khó lường
trên thị trường, thị trường tài chính, sự tiến bộ khoa học công nghệ, chất lượng nguồn
nhân lực….
Trong hoàn cảnh hiện tại các DNNVV vừa trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế, khối doanh
nghiệp này đang chịu những tổn thất nặng nề và đứng trước bờ vực phá sản. Trước tình
trạng đó, nhà nước không thể khoanh tay đứng nhìn và đã đưa ra những giải pháp tài
chính nhằm cứu giúp doanh nghiệp thoát khỏi tình trang nguy hiểm hiện tại. Bài viết này
đã tiếp cận, phân tích và đưa ra một số đánh giá về những giải pháp đang có và đề xuất
những ý kiến nhằm đóng góp vào bộ giải pháp giải cứu DNNVV vượt qua khó khăn hiện
tại.

[Type text]

Page 1



CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DNNVV Ở VIỆT NAM
1. Khái niệm
Trong cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam thì doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) là loại
hình DN chiếm đa số và chủ yếu trong nền kinh tế. Cũng như trên toàn Thế giới, các
DNNVV Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Tuy nhiên tiêu chí xác định cùng với định nghĩa DNNVV hiện nay vẫn còn
rất nhiều tranh cãi. Việc xác định DNNVV thường dựa theo các tiêu chí về số nhân công,
vốn đăng ký, doanh thu, trình độ chuyên môn hóa, mức độ phức tạp của các cấp quản lý,
tính chất từng nghề,…, các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng chương trình
phát triển khác nhau.
Các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu truyền thống có cách định nghĩa về DNNVV
của riêng họ, ví dụ như ở Đức, DNNVV được định nghĩa là những doanh nghiệp có số
lao động dưới 500 người, trong khi đó ở Bỉ là 100 người. Nhưng cho đến nay Liên minh
Châu Âu (EU) đã có khái niệm về DNNVV chuẩn hóa hơn. Những doanh nghiệp có dưới
10 lao động được gọi là doanh nghiệp siêu nhỏ, có dưới 50 lao động và doanh thu hàng
năm dưới 7 triệu euro được gọi là doanh nghiệp nhỏ, còn những doanh nghiệp có trên
250 lao động và doanh thu hàng năm dưới 27 triệu euro được gọi là những doanh nghiệp
vừa. Ngược lại, ở Mỹ những doanh nghiệp có số lao động dưới 100 người được gọi là
doanh nghiệp nhỏ, dưới 500 người là doanh nghiệp vừa. Ở New ZeLand, các DNNVV có
số lao động dưới 50 lao động, ở Hàn Quốc là dưới 300 lao động. Các quốc gia Châu Phi
họ cũng có cách định nghĩa riêng và các định nghĩa này là khác nhau ở các quốc gia. Sự
khác nhau về định nghĩa khiến cho việc nghiên cứu về DNNVV trở nên khó khăn hơn.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh
nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh
độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10
tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Các doanh nghiệp
cực nhỏ được quy định là có từ 1 đến 9 nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân
công được coi là doanh nghiệp nhỏ.

Ngoài ra, theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính Phủ, Doanh
nghiệp nhỏ và vừa được định nghĩa như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh
doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ,
nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được
[Type text]

Page 2


xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm
(tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)”, cụ thể:
Quy mô

Khu vực

Doanh
nghiệp siêu Doanh nghiệp nhỏ
nhỏ
Số lao Tổng nguồn Số lao
động
vốn
động

Doanh nghiệp vừa
Tổng nguồn
vốn

Số lao
động


từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200
I. Nông, lâm
10 người trở 20 tỷ đồng
người đến đồng đến người đến
nghiệp và thủy sản
xuống
trở xuống
200 người 100 tỷ đồng 300 người
từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200
II. Công nghiệp và 10 người trở 20 tỷ đồng
người đến đồng đến người đến
xây dựng
xuống
trở xuống
200 người 100 tỷ đồng 300 người
từ trên 50
từ trên 10 từ trên 10 tỷ người đến
III. Thương mại và 10 người trở 10 tỷ đồng
người đến đồng đến 50 100 người
dịch vụ
xuống
trở xuống
50 người
tỷ đồng
Nhìn chung, hai định nghĩa về DNNVV vừa nêu trên không có gì mâu thuẫn với nhau,
tuy nhiên định nghĩa DNNVV theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP được sử dụng phổ biến
hơn cả vì nghị định này có ưu điểm hơn ở việc xét DNNVV trên cả tiêu trí về tính chất
từng khu vực.
2. Đặc điểm
Nhìn chung các DNNVV trên thế giới đều có đặc điểm chung đó là:

-

Quy mô vốn nhỏ bé, gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn tài chính.

-

Trình độ khoa học công nghệ, tay nghề lao động, trình độ quản lý nói chung là
thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn.

Ở Việt Nam, các DNNVV có những đặc điểm sau:
-

Là những doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ, dễ khởi nghiệp, đây thường là những
doanh nghiệp khởi sự thuộc khu vực kinh tế tư nhân.

Với quy mô nhỏ và vừa các doanh nghiệp này rất linh hoạt, ứng biến nhanh nhạy với sự
biến đổi nhanh chóng của thị trường, thích hợp với điều kiện sử dụng trình độ kỹ thuật
[Type text]

Page 3


khác nhau như thủ công, nửa cơ khí, cơ khí để sản xuất ra những sản phẩm thích ứng với
yêu cầu của nhiều tầng lớp dân cư có thu nhập khác nhau. Đồng thời có thể phát triển
rộng khắp ở cả thành thị và nông thôn vì thông thường để thành lập một DNNVV cần
vốn đầu tư ban đầu không lớn, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng vừa phải.
Đặc điểm này làm cho DNNVV năng động, phát triển ở khắp mọi nơi, mọi ngành nghề;
nó lấp vào khoảng trống, thiếu vắng của các doanh nghiệp lớn, tạo điều kiện cho nền kinh
tế quốc dân khai thác mọi tiềm năng, tạo ra một thị trường cạnh tranh lành mạnh hơn.
-


Khai thác và huy động các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương và
các nguồn tài chính của dân cư trong vùng.

Việc thành lập các DNNVV không đòi hỏi quá nhiều vốn, nhất là đối với doanh nghiệp
có quy mô nhỏ. Điều đó sẽ tạo cơ hội cho đông đảo dân cư có thể tham gia đầu tư, việc
đẩy mạnh phát triển các loại hình DNNVV được coi là phương tiện có hiệu quả trong
việc huy động vốn sử dụng các khoản tiền đang phân tán, nằm im trong dân cư thành các
khoản vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
-

Nguồn lực tài chính hạn chế

Tài chính của DNNVV xuất phát từ ba nguồn chính: vốn tự có, tự huy động từ bạn bè,
gia đình...; tín dụng thương mại và các khoản vay từ các tổ chức tín dụng.Trong đó, tỉ lệ
vốn tự có, tự huy động thường rất thấp. Vì vậy, hai nguồn tài chính còn lại đóng vai trò
quan trọng trong hoạt động kinh doanh của DNNVV. Tuy nhiên, với thực tế là năng lực
tài chính nội tại thấp, không có tài sản bảo đảm hoặc giá trị tài sản đảm bảo không đáp
ứng được yêu cầu khi ngân hàng xét tài trợ cùng rất nhiều nguyên nhân khác đã dẫn tới
khó khăn cho DNNVV trong việc tiếp cận nguồn vốn từ ngân hàng cũng như các tổ chức
tín dụng khác.
-

Khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp và trình độ tay nghề của người lao động
thấp.

Quản trị nội bộ của các DNNVV thường mang tính gia đình, người chủ sở hữu cùng một
lúc thực hiện hàng loạt chức năng và vai trò khác nhau trong tổ chức kinh doanh của
doanh nghiệp. Ngoài quan hệ góp vốn kinh doanh, họ còn có quan hệ truyền thống, họ
hàng, bạn bè hết sức thân thiết. Vì vậy, kỹ năng quản trị nội bộ rất yếu kém, thiếu cơ bản,

chỉ dựa vào kinh nghiệm kinh doanh của bản thân. Lao động trong các DNNVV chủ yếu
là lao động phổ thông, ít được đào tạo cơ bản, thiếu kỹ năng, trình độ văn hóa thấp, đặc
biệt với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ.
-

Khả năng về công nghệ thấp.

[Type text]

Page 4


Do không đủ tài chính cho nghiên cứu triển khai, nhiều doanh nghiệp có những công
nghệ tiên tiến nhưng không đủ tài chính cho việc nghiên cứu triển khai nên không thể
hình thành công nghệ mới hoặc bị các doanh nghiệp lớn mua với giá rẻ.
3. Vai trò
Doanh nghiệp là tế bào của nền kinh tế, doanh nhân là chiến sỹ trên mặt trận kinh tế.
Hiện nay doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ trọng lớn, là khu vực tạo nhiều nhất việc làm
cho người lao động, huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển trên tất cả các lĩnh vực
và địa bàn, có đóng góp quan trọng trong việc bảo đảm an sinh xã hội.
Thực tế cho thấy, DNNVV chiếm đa số ở các nước trên thế giới. Ở EU, DNNVV chiếm
khoảng 99% và thu hút số lao động lên đến 65 triệu người. Trong một số khu vực kinh
tế, DNNVV giữ vai trò chủ đạo trong công cuộc cải tạo và là động lực phát triển của nền
kinh tế. Trên phạm vi thế giới, DNNVV chiếm trên 99% tổng số doanh nghiệp và đóng
góp 40% - 50% Tổng thu nhập quốc dân (GDP).
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê, hiện nay có trên 97% trên tổng số doanh nghiệp là các
DNNVV với các hình thức: Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ
phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Với số lượng đông đảo và phát triển nhanh
trong nền kinh tế, DNNVV tạo ra một khối lượng sản phẩm đáng kể cho xã hội.
Trong năm vừa qua, các DNNVV đã đóng góp hơn 40% tổng sản phẩm quốc nội. Trong

lĩnh vực sản xuất công nghiệp, khu vực DNNVV đóng góp ước tính 30% tổng sản lượng
công nghiệp hàng năm.
DNNVV là nơi tạo ra việc làm chủ yếu ở Việt Nam. Thực tế những năm qua cho thấy
toàn bộ các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà phần lớn là khu vực ngoài quốc doanh là nguồn
chủ yếu tạo ra công ăn việc làm cho tất cả các lĩnh vực. Theo số liệu của Tổng Cục
Thống kê, năm 2013 các DNNVV đã tạo ra hơn 1.000.000 việc làm, chiếm từ 50%-80%
tổng số lao động quốc gia. Trong khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự
động hóa, lao động phổ thông dư thừa dẫn đến tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra thì khu
vực DNNVV chính là nơi thu hút và đảm bảo thu nhập cho họ.
Khai thác và phát huy tốt các nguồn lực tại chỗ. Thực tế đã cho thấy doanh nghiệp vừa và
nhỏ đã có mặt ở hầu hết các vùng, địa phương. Chính điều này đã giúp cho doanh nghiệp
tận dụng và khai thác tốt các nguồn lực tại chỗ. Đây là đặc điểm cũng chính là vai trò của
DNNVV.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM
THÁO GỠ KHÓ KHĂN CHO DNNVV
1. Thực trạng hoạt động các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam
[Type text]

Page 5


Trong bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế ban đầu có những dấu hiệu phục hồi, doanh
nghiệp Việt Nam nói chung và DNNVV nói riêng vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó
khăn, ảnh hưởng đến khả năng duy trì và phát triển của DN.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, số DN giải thể, tạm ngừng hoạt động trên cả nước
trong năm 2012 là 54.261 DN. Trong khi đó, số lượng DN đăng ký thành lập mới của cả
nước vẫn tiếp tục xu hướng giảm từ đầu năm, đến tháng 12/2012 là 69.874 DN, giảm
10% về số DN với số vốn đăng ký là 467.265 nghìn tỷ đồng, giảm 9% về vốn đăng ký.
Đây là năm thứ hai liên tiếp kể từ khi Luật Doanh nghiệp năm 1999 có hiệu lực, số lượng
DN thành lập mới có sự giảm sút so với cùng kỳ năm trước.

Cũng theo số liệu của Tổng cục thống kê, bước sang năm 2013, tổng số doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới ước tính là 76.955 DN, tăng 10,1% so với năm 2012 với tổng vốn
đăng ký là 398,7 nghìn tỷ đồng, giảm 14,7%. Số doanh nghiệp gặp khó khăn phải giải thể
hoặc ngừng hoạt động năm nay là 60737 doanh nghiệp, tăng 11,9% so với năm trước,
trong đó số doanh nghiệp đã giải thể là 9818 doanh nghiệp, tăng 4,9%; số doanh nghiệp
đăng ký tạm ngừng hoạt động là 10803 doanh nghiệp, tăng 35,7%; số doanh nghiệp
ngừng hoạt động nhưng không đăng ký là 40116 doanh nghiệp, tăng 8,6%.

Nhìn vào biểu đồ có thể thấy số doanh nghiệp dừng hoạt động và giải thể ngày càng tăng,
cùng với đó là sự sụt giảm về tổng số vốn đăng ký, điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp
đang có xu hướng thu hẹp quy mô vì tác động xấu của cuốc khủng khoảng mà vẫn chưa
tìm ra hướng giải quyết. Kèm theo đó còn có một số hệ lụy khác, như: hàng tồn kho, khó
tiếp cận nguồn vốn vay, nợ đọng và chiếm dụng vốn lẫn nhau,…
[Type text]

Page 6


Hàng tồn kho nhiều
Do sức tiêu thụ của thị trường giảm sút, nhiều DNNVV phải chủ động thu hẹp sản xuất,
hoạt động cầm chừng. Hàng tồn kho trong một số ngành hàng tăng cao như bất động sản,
vật liệu xây dựng, nông sản… nhiều doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải đối mặt
với các khoản vay lớn của ngân hàng, đến hạn trả nhưng không có nguồn thu, không còn
tài sản và khả năng huy động vốn để duy trì kinh doanh. Hầu hết các thị trường truyền
thống của Việt Nam đều bị thu hẹp. Các thị trường mới thì thiếu tính ổn định, chủ yếu
hợp đồng ngắn hạn theo thời vụ.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số tồn kho tại thời điểm 1-12-2013 của ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,2% so với cùng thời điểm năm trước. Một số
ngành có chỉ số tồn kho tăng cao là: Sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và quang học
tăng 42,1%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 35,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy

tăng 27,6%; sản xuất kim loại tăng 45,9%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng
32,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 23,1% …
Khó tiếp cận nguồn vốn vay
Khó khăn nhất của các DNNVV hiện nay là việc tiếp cận vốn vay. Hiện nay, chỉ có 30%
các DNNVV tiếp cận được vốn từ ngân hàng, 70% còn lại phải sử dụng vốn tự có hoặc
vay từ nguồn khác (trong số này có nhiều doanh nghiệp vẫn phải chịu vay ở mức lãi suất
cao hơn 15%/năm). Điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp với DNNVV, rất ít
các doanh nghiệp đáp ứng được điều kiện không được nợ thuế quá hạn, không nợ lãi suất
quá hạn.
Từ đầu năm 2013 đến nay, lãi suất ngân hàng tuy đã có chiều hướng hạ, nhưng vẫn ở
mức cao, yêu cầu bên vay phải có tài sản thế chấp, trong khi đó không phải doanh nghiệp
nào cũng đáp ứng được, nhất là DNNVV.
Báo cáo do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) khảo sát công bố ngày
25/12/2013 cho thấy, nhiều doanh nghiệp không dám vay vốn vì lãi suất còn cao và
khẳng định sẽ gặp khó khăn nếu phải chịu mức lãi suất hiện nay trong dài hạn. Cụ thể, có
tới 34,8% doanh nghiệp không vay vốn trong năm 2013, trong đó 40,5% doanh nghiệp
trả lời vì lãi suất cao, kinh doanh không đủ hiệu quả để trả lãi; 21,1% cho rằng thị trường
tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp; 18,6% đã tìm được kênh huy động vốn khác, chỉ có 2,7% là
do đang có nợ xấu nên không vay được vốn
Các cuộc khảo sát doanh nghiệp và môi trường đầu tư do WB thực hiện cho thấy, doanh
nghiệp vừa, nhỏ và siêu nhỏ gặp nhiều khó khăn về vốn cho phát triển. Sau 2 - 3 năm
[Type text]

Page 7


khởi nghiệp, chỉ còn khoảng 1/3 doanh nghiệp hoạt động. Cũng Theo khảo sát của WB,
2/3 tài sản của các doanh nghiệp nhỏ, vừa và siêu nhỏ không phải là bất động sản, nên
khó thuyết phục ngân hàng cho vay. Trong khi đó các tài sản vô hình khác như quyền sở
hữu trí tuệ, bằng sáng chế…vẫn chưa được chú trọng ở Việt Nam, nhiều ngân hàng vẫn

phụ thuộc vào bất động sản làm tài sản thế chấp, điều đó gây khó khăn cho các DNVVN
Trong khi nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, với số vốn kinh doanh hạn chế lại có nhiều
yếu tố khác tác động đến nên nếu DNNVV không vay được vốn thì hệ quả tất yếu là dẫn
đến phá sản, giải thể hoặc tạm ngừng kinh doanh.
Nợ đọng và chiếm dụng vốn lẫn nhau
Tình trạng chiếm dụng vốn kinh doanh giữa các doanh nghiệp đang là hiện tượng diễn ra
phổ biến. Áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ bản chủ
yếu tập trung đầu tư vào các công trình trọng điểm, hoặc ưu tiên vào công trình chuyển
tiếp, song vốn thanh toán của chủ đầu tư thường rất chậm, đặc biệt là nguồn vốn đối ứng
ở địa phương. Các DNNVV vốn ít lại không được chủ đầu tư thanh toán kịp thời, vốn vay
không tiếp cận được mà các khoản chi phí khác vẫn phải chi trả (nhân công, vật liệu,
xăng dầu, …) nên dẫn đến phải tiếp cận với “tín dụng đen”. Bên cạnh đó, các khoản nợ
của chủ đầu tư, nợ của khách hàng hầu như không được tính lãi chậm trả thậm chí còn bị
cắt giảm khi thanh, quyết toán thì các khoản lãi suất ngân hàng, tiền phạt chậm nộp thuế
(0,05% ngày) đã tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp.
Hạn chế về việc ứng dụng khoa học kỹ thuật
Hiện nay, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở các DNNVV chỉ có 10% hiện đại, 38%
trung bình và 52% là lạc hậu và rất lạc hậu. Tỷ lệ sử dụng công nghệ cao mới rất thấp so
với các nước trong khu vực mới chỉ đạt 2%. Nguồn vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ rất
thấp, chỉ khoảng 0,2% - 0,3% tổng doanh thu... Trình độ thiết bị công nghệ trong các
DNNVV lĩnh vực tư nhân chỉ bằng 3% mức trang bị kỹ thuật trong các DN lớn... Thực
trạng này đang đặt ra những thách thức lớn đối với năng lực cạnh tranh của DNNVV
trong khu vực nhất là trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Nhìn chung, các DNNVV ở Việt Nam đang phải đối mặt với những khó khăn về: hàng
tồn kho cao, khó tiếp cận vốn vay, nợ đọng và chiếm dụng vốn lẫn nhau, khó ứng dụng
khoa học công nghệ hiện đại,… Điều này đe dọa nghiêm trọng đến sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp, cần có nhưng biện pháp kịp thời để giải quyết khó khăn của các
DNNVV hiện nay.

[Type text]


Page 8


2. Thực trạng sử dụng giải pháp tài chính tháo gỡ khó khăn cho DNNVV ở Việt
Nam giai đoạn 2008 - 2013
Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, đầu năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 02/NQ-CP chỉ đạo một số biện pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu. Trong những giải pháp được Chính phủ
đưa ra, có một số giải pháp tài chính hướng tới đối tượng là DNNVV.
2.1 Hỗ trợ từ ngành thuế
Trong giai đoạn 2008-2012, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết về việc gia hạn
giảm thuế, nhằm giúp các DNNVV tháo gỡ khó khăn
∗ Thuế GTGT:
Khai thuế GTGT theo quý đối với các doanh nghiệp hoạt động đủ 12 tháng (thành lập từ
tháng 01/2012 trở về trước ) có doanh thu năm 2012 dưới 20 tỷ
Áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 5% đối với các hợp đồng bán, cho thuê, cho thuê
mua nhà ở xã hội theo quy định của Luật nhà ở từ ngày 01/7/2013
Thực hiện giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng từ ngày 01/7/2013 đến hết ngày
30/6/2014 đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại là căn hộ hoàn thiện có
diện tích sàn dưới 70 m2 và có giá bán dưới 15 triệu đồng/m2
Gia hạn 06 tháng thời hạn nộp thuế GTGT đối với số thuế GTGT phát sinh phải nộp của
tháng 1, tháng 2, tháng 3 năm 2013 (không bao gồm thuế GTGT ở khâu nhập khẩu) đối
với các doanh nghiệp đang thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuộc
một số đối tượng trong đó có DNVVN
∗ Thuế TNDN:
Theo Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP quy định “Giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp
phải nộp của quý IV năm 2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp của năm 2009
đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa”.
Giãn thời hạn nộp thế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế thu

nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 của các doanh nghiệp nhỏ và vừa nói trên.
Năm 2010 tiếp tục thực hiện biện pháp giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp
trong 3 tháng đối với số thuế TNDN phải nộp năm 2010 của các loại hình doanh nghiệp
đã được giãn nộp trong năm 2009. Theo thông tư hướng dẫn thực hiện QĐ số
21/2011/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về việc gia hạn thuế TNDN của DNNVV
nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy phát triển kinh tế năm 2011, gia hạn thời hạn nộp thuế
[Type text]

Page 9


thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 1 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế theo quy
định của Luật Quản lý thuế đối với số thuế TNDN phải nộp năm 2011 của DNNVV.
Năm 2012, tiếp tục giảm 30% số thuế phải nộp trong năm của DNNVV.
Năm 2013, áp dụng thuế suất thuế TNDN 20% đối với doanh nghiệp, kể cả hợp tác xã có
tổng doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng. Mức thuế suất thuế TNDN 10% áp dụng đối
với phần thu nhập của doanh nghiệp từ bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội.Gia hạn
06 tháng thời hạn nộp thuế TNDN đối với số thuế TNDN phát sinh phải nộp quý I và 03
tháng thời hạn nộp thuế đối với số thuế TNDN phát sinh phải nộp quý II và quý III năm
2013 cho một số đối tượng trong đó có DNVVN (tính từ ngày hết hạn nộp thuế TNDN
theo Luật Quản lý thuế)
Theo tổng cục thuế, tính đến 11/2013 cơ quan thuế đã thực hiện gia hạn, miễn giảm thuế
cho 226.871 lượt doanh nghiệp với số tiền là 11.370 tỷ đồng, ước tính cả năm 2013 con
số miễn, giảm, giãn là khoảng 16.600 tỷ đồng.
2.2 Giải pháp tài chính từ phía Nhà nước
- Nhà nước
Từ 2009 – 2010, Chính phủ phát hành hai gói kích cầu năm 2009 và 2010 cùng với đó là
Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển DNVVN. Năm 2011, ban hành Nghị
quyết số: 08/2011/QH13 ngày 06/08/2011 về ban hành bổ sung một số giải pháp thuế
nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cá nhân. Năm 2012 – 2013, ban hành Nghị

quyết 13/NQ-CP ngày 10/5/2012 và Nghị quyết 02/NQ- CP ngày 07/01/2013.
Nhà nước chỉ đạo các tổ chức tín dụng chủ động triển khai các giải pháp tự xử lý nợ xấu
như đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý,
thu nợ; tiếp tục cơ cấu lại nợ để hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận được vốn vay phục vụ sản
xuất - kinh doanh
- Ngân hàng Nhà nước
Lãi suất trong năm liên tục giảm, tính đến nay mặt bằng lãi suất cho vay đã giảm đáng kể,
cho vay ngắn hạn với lãi suất 9-11% và 11-11,5% trong dài hạn. Theo kết quả khảo sát
tháng 12/2013, số doanh nghiệp phải vay ở mức lãi suất trên 12% là 32,7%, thấp hơn rất
nhiều mức 74,9% của năm 2012. Như vậy, việc giảm lãi suất đã tạo được điều kiện tốt
cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tuy nhiên vẫn còn trên 50% số doanh nghiệp sẽ gặp
phải khó khăn với mức lãi suất hiện nay.
-

Các TCTD

[Type text]

Page 10


Tính đến hết năm 2011, dư nợ tín dụng của các TCTD đối với các DNNVV đạt 881.340
tỷ đồng, tỷ trọng dư nợ tín dụng đối với các DNNVV chiếm khoảng 35% tổng dự nợ của
toàn bộ hệ thống TCTD đối với nền kinh tế. Lãi suất huy động đầu năm 2012, hiện ở mức
9%/năm. Lãi suất cho vay giảm khoảng 3-6%/năm so với cuối năm 2011, trong đó tập
trung chủ yếu đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, sản xuất-kinh doanh.
Lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, DNNVV,
công nghiệp hỗ trợ ở mức 11-13%/năm, ở các lĩnh vực kinh doanh khác 14-17%/năm.
2.3 Giải pháp từ các Doanh nghiệp
Mặc dù có rất nhiều sự hỗ trợ từ bên ngoài, song nhiều DNNVV vẫn không thoát khỏi

những khó khăn do sự suy giảm kinh tế mang lại. Một số nguyên nhân bắt đầu từ chính
bản thân doanh nghiệp, nên để cứu mình các doanh nghiệp cần có những giải pháp để chủ
động vượt qua khó khăn.
Giải pháp về vốn
Doanh nghiệp áp dụng biện pháp cắt giảm chi phí, thắt lưng buộc bụng. Doanh nghiệp
tiến hành cắt giảm những bộ phận không cần thiết, tái cấu trúc lại bộ máy, cắt giảm biên
chế bằng việc cho nhân viên tạm nghỉ phép vô thời hạn, hoặc thôi việc tạm thời.
Doanh nghiệp đánh giá lại các dự án sẵn có. Cắt bỏ hoặc tạm hoãn những dự án đem lại
hiệu quả không cao hoặc mang tính mạo hiểm lớn, cần nguồn vốn vượt ngoài khả năng
nguồn vốn sẵn có của doanh nghiệp nhằm tận dụng tốt nhất nguồn lực, giúp duy trì sự
sống của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp tiến hành cơ cấu lại dòng tiền, xây dựng những phương án kinh doanh phù
hợp. Các doanh nghiệp hiện nay tự nhận thấy tình trạng nợ nần của mình sẽ dẫn đến việc
khó tiếp cận vốn vì vậy họ tự tìm ra cách sử dụng các dòng tiền hợp lý hơn, xây dựng
phương án kinh doanh khai thác được tối đa nguồn lực sẵn có, phù hợp với khả năng và
tính khả thi cao để làm điều kiện vay vốn

Giải pháp về thị trường
Tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào giá rẻ, những nguyên liệu sẵn có nhằm giảm bớt
chi phí.

[Type text]

Page 11


Tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm. Các doanh nghiệp chấp nhận tự cắt bỏ doanh
thu để bán được hàng, thu hồi lại nguồn vốn đã bỏ ra hoặc có vốn để tiếp tục tái sản xuất,
duy trì hoạt động cần thiết của doanh nghiệp. Biện pháp cho việc cắt bỏ doanh thu qua
việc bán giảm giá, hạ giá, có các chương trình quảng cáo, chiến dịch maketing, khuyến

mãi, dùng thử sản phẩm,… nhằm thu hút sự chú ý và sức mua của người tiêu dùng, lại
vừa có thể giải quyết vấn đề hàng tồn kho trong doanh nghiệp.
3. Đánh giá các giải pháp tài chính đã và đang sử dụng
3.1 Những vấn đề đạt được:
- Giải pháp về thuế
Những điều chỉnh mang tính hỗ trợ doanh nghiệp giảm bớt khó khăn từ phía Nhà nước
nhìn chung đã có một số tác động tích cực tới các doanh nghiệp thuộc đối tượng được hỗ
trợ.
Theo khảo sát của Viện Chiến lược và Chính sách Tài chính trên 600 doanh nghiệp thuộc
đối tượng thụ hưởng ưu đãi về thuế, hơn 60% đánh giá các chính sách hỗ trợ này của Nhà
nước đã phần nào giúp doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, có thêm vốn để ổn định thị
trường, duy trì và mở rộng sản xuất kinh doanh.
Về miễn, giảm thuế TNDN, có khoảng 60% DN được giảm 30% thuế TNDN phải nộp
của năm 2012 theo Nghị quyết 29/2012/QH13 của Quốc hội, 55% DN à đối tượng được
áp dụng thuế suất thuế TNDN 20% từ 1-7-2013 và 5% DN được áp dụng thuế suất 10%
từ 1-7-2013.
Về miễn, giảm, gia hạn thuế GTGT, có 58% DN khảo sát cho biết đã được hưởng chính
sách gia hạn thời gian nộp thuế GTGT theo Nghị quyết 13 của Chính phủ; 41% DN được
gia hạn 6 tháng thuế GTGT theo Nghị quyết 02 của Chính phủ, 70% DN đánh giá chính
sách có hiệu quả, hỗ trợ DN trong việc ổn định và mở rộng thị trường (35%), tăng vòng
quay vốn (27%) và giảm chi phí đầu vào (19%) .
-

Giải pháp về tín dụng

Các ngân hàng hiện nay đã có nhiều động thái tích cực trong việc hỗ trợ cho các DNVVN
nhằm giúp các doanh nghiệp sớm thoát khỏi những khó khăn. Nhiều ngân hàng đã hạ lãi
suất nhiều gói tín dụng ưu đãi nhằm giúp doanh nghiệp dễ tiếp cận nguồn vốn vay, đáp
ứng phần nào nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh.
3.2 Những hạn chế

- Về tín dụng
[Type text]

Page 12


Việc tiếp cận vốn của DNNVV còn rất nhiều trắc trở do không đáp ứng được những điều
kiện vay vốn dù lãi suất đã giảm. Việc giảm lãi suất không giúp được những DN đang rơi
vào tình trạng khó khăn, tình trạng tài chính không đủ chuẩn, không có tài sản để đảm
bảo. Các doanh nghiệp với quy mô nhỏ, tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn, TS đảm
bảo không có hoặc đã đem đi thế chấp từ những khoản vay cũ. Các DNNVV chưa thoát
được nợ cũ để vay nguồn vốn mới. Mặc dù đã có những ngân hàng chủ động tạo điều
kiện cho các DN vay không cần tài sản thế chấp tuy nhiên điều kiện phải có doanh thu từ
20 tỷ trở lên (đa phần những đối tượng không đủ điều kiện là các DNNVV).
Gia hạn nợ chỉ là giải pháp tạm thời để doanh nghiệp quên đi khó khăn chứ không thể
khiến doanh nghiệp khỏe lên. Thực tế nhiều doanh nghiệp không còn mặn mà đi vay.
Như vậy khả năng tiếp cận vốn của những DN vẫn còn rất hạn chế.
Qua khảo sát của Viện Phát triển DN (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) cho
thấy, 55% trở ngại do thủ tục vay (hồ sơ vay vốn phức tạp, không đủ thủ tục vay vốn đơn
giản cho các DNNVV); 50% trở ngại yêu cầu thế chấp (thiếu tài sản có giá trị cao để thế
chấp, ngân hàng không đa dạng hóa tài sản thế chấp như hàng trong kho, các khoản
thu…); 80% tỷ lệ lãi suất chưa phù hợp; Các điều kiện vay vốn hiện nay chưa phù hợp
với DNNVV. . Do đó vấn đề tiếp cận vốn của DN vẫn chưa mạnh mẽ để hỗ trợ tăng sức
mua và giải phóng hàng tồn kho. Việc giải quyết tồn tại như nợ xấu, giảm thuế thu nhập
DN, thủ tục vay…chưa được triệt để.
-

Về giải pháp thuế

Tuy nhiên, giải pháp về Thuế vẫn còn nhiều hạn chế như tính lan tỏa chưa cao. Việc miễn

giảm thuế TNDN chỉ đem lại lợi ích cho những DN có lợi nhuận trong khi những DN
đang thực sự khó khăn đứng trước bờ vực phá sản lại không được hưởng lợi từ chính
sách này.
Trong bối cảnh kinh tế suy thoái hiện nay, nhiều chuyên gia đánh giá việc gia hạn nộp
thuế cho DN là đã muộn khi nhiều DN đã thua lỗ chẳng còn gì để nộp thuế. Ngoài ra,
việc giảm thuế giá trị gia tăng (VAT) là liều thuốc chưa đủ mạnh để các công ty hạ giá
thành, giá bán, vì đầu vào của sản xuất còn nhiều thứ khác, trong khi niềm tin của người
tiêu dùng suy giảm, sức mua yếu thì hàng tồn kho của DN vẫn không giảm được đáng kể.
Ngoài ra, việc chính sách thuế thay đổi liên tục mà thiếu đồng bộ khi triển khai khiến DN
gặp rắc rối trong quá trình tuân thủ thực hiện. DN thuộc diện được hoàn thuế nhưng lại
chậm được giải quyết hồ sơ cũng gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh do
thiếu vốn.

[Type text]

Page 13


CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM THÁO GỠ
KHÓ KHĂN CHO CÁC DNNVV Ở VIỆT NAM
1. Nguyên nhân những khó khăn của DNNVV
1.1 Nguyên nhân khách quan
Sự suy giảm, biến động của nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, thị
trường bất động sản, chứng khoán đóng băng, hàng hóa tồn kho ứ đọng không tiêu thụ
được làm cho lợi nhuận giảm, ảnh hưởng nặng nề đến khả năng tái sản xuất kinh doanh
của DNNVV.
Thủ tục phức tạp cũng gây nên khó khăn nhất định cho DNNVV, điển hình là việc tiếp
cận nguồn vốn ưu đãi. Qua khảo sát thực tế về khả năng tiếp cận vốn tín dụng ưu đãi cho
thấy có đến 40% trong số 100 doanh nghiệp e ngại khi phải vượt qua quá nhiều thủ tục
rườm rà, rắc rối, mất rất nhiều thời gian từ phí các tổ chức tín dụng cho vay ưu đãi. Thêm

vào đó, các kết quả khảo sát cũng cho thấy các chính sách cung cấp ưu đãi tín dụng cho
các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn nhận ưu đãi là chưa đủ minh bạch và cũng không được
cập nhật một cách công khai. Có tới 55% số doanh nghiệp trả lời rằng họ không hề có
thông tin về các khoản vay ưu đãi và không rõ thủ tục để được xin vay.
Khó khăn của các doanh nghiệp cũng đến từ phía các TCTD, đặc biệt là các NHTM.
Trong lúc nền kinh tế vẫn đang khó khăn như hiện nay thì việc cẩn trọng khi cho vay là
rất cần thiết. Tuy nhiên, các NHTM vẫn còn có sự phân biệt đối xử giữa các DN lớn với
các DNNVV. Các NHTM cho rằng, khi cho các DN lớn hoặc DN có phần vốn góp của
nhà nước, họ sẽ phải chịu mức độ rủi ro thấp, đặc biệt đối với DN có vốn nhà nước, nếu
các DN này không có khả năng trả nợ thì còn có nhà nước đứng đằng sau hỗ trợ, bao bọc.
Còn đối với DNNVV quy mô vốn nhỏ le thì các khoản nợ sẽ khó được đảm bảo.
Ngoài ra, một nguyên nhân nữa khiến doanh nghiệp gặp khó khăn xuất phát từ trình độ
hiểu biết và kinh nghiệm của nhiều cán bộ thẩm định còn hạn chế do chưa được đào tạo
căn bản, thiếu thông tin nên chất lượng thẩm định dự án vay vốn còn chưa cao. Nhiều dự
án tiềm ẩn rủi ro nhưng cán bộ NHTM vẫn chấp nhận cho vạy, ngược lại, nhiều dự án
khả thi nhưng do thiếu thông tin, chưa cập nhật và khả năng dự báo thấp nên có thể từ
chối cho vay làm lỡ cơ hội kinh doanh của các DNNVV.
1.2 Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân lớn nhất cho những khó khăn phải bắt nguồn từ chính yếu tố nội tại doanh
nghiệp. DNNVV còn rất nhiều thiết xót và yếu điểm:
- Phần lớn các DNNVV chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và
còn thiếu kế hoạch kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể. Một số lớn các DNNVV lập
phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư còn mang nặng tính chủ quan, áp
đặt của lãnh đạo DN, hoặc dựa trên kinh nghiệm thuần túy; nội dung của phương án kinh
doanh, kế hoạch sản xuất đôi khi được thiết lập sơ sài nên thiếu thuyết phục kho xem xét
thẩm định cho vay.
[Type text]

Page 14



- Việc công khai tài chính của các DNNVV còn thiếu minh bạch nên chưa tạo
lòng tin với ngân hàng, kiến các ngân hàng buộc DNNVV phải đáp ứng các yêu cầu khắt
khe hơn so với các DN lớn về tài sản thế chấp. Nhiều doanh nghiệp, nhất là các công ty
TNHH, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất
khó thẩm định giá về năng lực thực sự của khách hàng; hệ thống sổ sách kế toán, nội
dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp thương không đầy đủ, thiếu
chính xác và thiếu minh bạch. Vì thế, đôi khi trong các đơn vị cần vốn để đầu tư phát
triển thì các TCTD vẫn nhìn nhận rằng rủi ro rất cao khi cho các DNNVV vay vốn.
- Trình độ cũng như kỹ năng quản lý của đội ngũ các nhà quản trị DNNVV còn
thấp, nhận thức của họ còn nhiều bất cập về quản trị kinh doanh hiện đại như chiến lược
khinh doanh, quản trị định hướng chất lượng theo tiêu chuẩn ISO, lao động, maketing,
chi phí kinh doanh,… Cách quản lý của nhiều DNNVV (đa số là DNTN) còn chưa khoa
học, mang nặng tính gia đình, không tuân theo những chuẩn mực của phương thức quản
lý doanh nghiệp hiện đại. Còn nhiều chủ doanh nghiệp, tự làm tự học, ít được đào tạo bài
bản về quản lý và nghiệp vụ kinh doanh.
- Hầu hết máy móc thiết bị trong các DNNVV đều đã cũ kỹ và lạc hậu nhưng vẫn
được sử dụng để sản xuất nên sản phẩm làm ra kém khả năng cạnh tranh về mẫu mã, giá
cả do mức tiêu hao nguyên liệu cho một sản phẩm và tỷ lệ phế phẩm đều cao. Trên thực
tế, có rất nhiều DN hiện đang sử dụng trang thiết bị không đồng bộ và pha tạp do nhiều
nước sản xuất. Có nhiều nguyên nhân làm cho các DNNVV không đầu tư được máy móc
thiết bị hiện đại nhưng nguyên nhân đáng kể nhất hiện nay là tình trạng huy động vốn tín
dụng của hầu hết doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là rất khó khăn, muốn vay được phải
có tài sản thế chấp nhưng đối với DNNVV , việc có được tài sản để thế chấp vay những
khoản tín dụng lớn là hết sức nan giải. Nói chung, dù doanh nghiệp có nhu cầu đổi mới
thiết bị nhưng nếu không có sự hỗ trợ về mặt tài chính thì tự bản thân doanh nghiệp cũng
khó long thực hiện được.
- Thêm một nguyên nhân nữa có tác động đến hiệu quả hoạt dộng của DNNVV là
việc ứng dụng thương mại điện tử vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thương mại
điện tử sẽ đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các DNNVV do lâu nay họ ít có cơ hội

giao dịch, thiếu thông tin, thiếu đối tác. Thương mại điện tử sẽ đẩy nhanh hơn tiến độ
toàn cầu hóa nền kinh tế Việt Nam nói riêng và kinh tế thế giới nói chung. Tuy nhiên thực
tế các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được tiện ích của những thương mại điện tử
để rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong khi đó, tiềm
năng và lợi tích do thương mại điện tử mang lại cho các DNNVV là rất lớn, các doanh
nghiệp xuất khẩu có thể lấp đầy các cửa hàng ảo với chi phí thấp so với cửa hàng thực ở
nước ngoài. Như vậy, DNNVV sẽ ít dựa vào người trung gian hơn và còn có thể quảng
cáo, tuyên truyền thông qua internet.
[Type text]

Page 15


Khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay từ NHTM của các DNNVV đến từ cả nguyên nhân
khách quan và nguyên nhân chủ quan. Đặc trưng của khối doanh nghiệp này là quy mô
nhỏ, khả năng sinh lời để tái đầu tư ít, trong khi chưa thể huy động vốn trên thị trường
thông qua chứng khoán, cổ phiếu hay trái phiếu. Đồng thời việc tìm đầu ra tiêu thụ sản
phẩm cuảng là bài toán rất nan giải. Có thể tóm tắt nguyên nhân trong việc các doanh
nghiệp không tiếp cận được vốn vay như biểu đồ dưới đây:

2. Định hướng và mục tiêu phát triển DNVVN của Nhà nước đến năm 2015
2.1 Định hướng phát triển
Kế hoạch phát triển DNNVV giai đoạn 2011 - 2015 đã được cụ thể hoá qua quyết định
1231/QĐ-TTg ngày 7/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ, với nhiệm vụ trọng tâm là phát
triển kinh tế của quốc gia, bao gồm:
[Type text]

Page 16



- Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa là chiến lược lâu dài, nhất quán và xuyên
suốt trong chương trình hành động của Chính phủ, là nhiệm vụ trọng tâm trong chính
sách phát triển kinh tế của quốc gia.
- Nhà nước tạo môi trường về pháp luật và các cơ chế, chính sách thuận lợi cho
doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển bình đẳng và cạnh tranh
lành mạnh nhằm huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển.
- Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo phương châm tích cực, vững chắc,
nâng cao chất lượng, phát triển về số lượng, đạt hiệu quả kinh tế, bảo vệ môi trường, góp
phần tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa phù hợp với điều kiện của từng vùng, từng địa phương, khuyến khích
phát triển công nghiệp nông thôn, làng nghề truyền thống; chú trọng phát triển doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở các vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn;
ưu tiên phát triển và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa do đồng bào dân tộc, phụ nữ, người
tàn tật v.v... làm chủ doanh nghiệp; chú trọng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
đầu tư phát triển công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ, sản xuất một số lĩnh vực có khả năng cạnh
tranh cao.
- Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm thực hiện các mục tiêu quốc
gia, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội.
* Theo Chỉ thị Số: 06/CT-NHNN ban hành ngày 9/11/2012, Thống đốc NHNN đã định
hướng cho các NHTM trong việc cấp tín dụng cho đối tượng khách hàng nói chung và
cho DNNVV nói riêng:
1. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp huy động vốn, chủ động cân đối
giữa nguồn vốn và sử dụng vốn để đảm bảo thanh khoản, đáp ứng kịp thời nhu cầu
tín dụng đối với nền kinh tế, các nhu cầu thanh toán.
2. Thực hiện các giải pháp mở rộng tín dụng có hiệu quả để hỗ trợ tăng trưởng kinh
tế ở mức hợp lý và góp phần kiềm chế lạm phát theo chỉ đạo của Chính phủ, tăng
cường kiểm soát chất lượng tín dụng để nâng cao hiệu quả kinh doanh và đảm bảo
an toàn hệ thống:
- Điều hành hoạt động tín dụng theo quy định của pháp luật và trên cơ sở
đánh giá thực trạng, khả năng mở rộng tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và

đảm bảo an toàn tín dụng; bố trí nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tín dụng đối
với nền kinh tế; ưu tiên tập trung vốn phục vụ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, sản
xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, sử dụng nhiều lao
động, dự án, phương án có hiệu quả.
[Type text]

Page 17


- Nghiên cứu để xem xét triển khai các gói sản phẩm tín dụng dựa trên các
chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ nhằm nâng cao hiệu quả và giảm chi phí hoạt động
cho vay, hỗ trợ khách hàng vay vốn đầu tư, sản xuất - kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm,
như cho vay theo chuỗi người nuôi, thu mua, chế biến thủy sản xuất khẩu, cho vay liên
kết giữa chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng, nhà cung cấp vật liệu xây dựng và người mua
nhà.
- Tổ chức, triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ, như: Chính sách tín dụng đối với lĩnh vực nông
nghiệp, nông thôn theo quy định tại Nghị định số 41/2010/NĐ-CP ngày 12/4/2010 của
Chính phủ; chính sách cho vay đối với chăn nuôi, cá tra theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại công văn số 1149/TTg-KTN ngày 08/8/2012; chính sách hỗ trợ nhằm giảm
tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản theo quy định tại Quyết định
số 63/2010/QĐ-TTg ngày 15/10/2010 và Quyết định số 65/2011/QĐ-TTg ngày
02/12/2011 của Thủ tướng Chính phủ; cho vay thu mua, tạm trữ lương thực, cà phê...
- Tiếp tục triển khai quyết liệt các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong quan hệ
tín dụng giữa tổ chức tín dụng với khách hàng theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn tín
dụng ngân hàng theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời góp phần hỗ trợ doanh
nghiệp và người dân duy trì, phát triển sản xuất - kinh doanh, như cơ cấu lại thời hạn trả
nợ (điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ), miễn, giảm lãi vốn vay trên cơ sở khả năng tài
chính của tổ chức tín dụng... Trường hợp phát sinh khó khăn vướng mắc về cơ chế, chính

sách, thì báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để xem xét, xử lý kịp thời.
2.2 Mục tiêu phát triển
- Mục tiêu tổng quát:
Đẩy nhanh tốc độ phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và
vừa, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, lành mạnh để các doanh nghiệp nhỏ
và vừa đóng góp ngày càng cao vào phát triển kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Mục tiêu cụ thể:
+ Số doanh nghiệp nhỏ và vừa thành lập mới giai đoạn 2011 - 2015 dự kiến đạt 350.000
doanh nghiệp; tính đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2015 cả nước có 600.000 doanh
nghiệp đang hoạt động;
+ Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 25% tổng
kim ngạch xuất khẩu toàn quốc;
[Type text]

Page 18


+ Đầu tư của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 35% tổng vốn đầu tư toàn xã hội;
+ Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng góp khoảng 40% GDP; 30% tổng thu ngân
sách nhà nước;
+ Doanh nghiệp nhỏ và vừa tạo thêm khoảng 3,5 - 4 triệu chỗ làm việc mới trong giai
đoạn 2011 - 2015.
3. Đề xuất một số nhóm giải pháp tài chính nhằm tháo gỡ khó khăn cho các
DNNVV ở Việt Nam
3.1 Giải pháp về tín dụng
Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Nguyễn Thế Thảo ví von rằng: “Nền kinh tế là cơ thể,
doanh nghiệp là tế bào, vốn là máu. Thiếu máu cơ thể sẽ yếu, chính vì thế vấn đề cốt lõi
vẫn phải giải quyết được nguồn vốn”.
Đối với cơ quan quản lý Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục cung ứng vốn qua nghiệp vụ thị trường mở và nghiệp vụ tái
cấp vốn để hỗ trợ thanh khoản cho các ngân hàng thương mại, điều hành chính sách tiền
tệ linh hoạt để điều tiết vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, nhằm tạo điều kiện tối đa để
những doanh nghiệp vừa và nhỏ được ưu tiên về vốn vay.
Hệ thống pháp luật, đặc biệt là các chính sách tài chính - tín dụng và vốn cần phải được
tiếp tục hoàn thiện, phù hơp với quá trình chuyển đổi theo cơ chế thị trường. Xây dựng
môi trường kinh doanh thuận lợi, thông thoáng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế nói chung đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh
nói riêng trong việc tiếp cận các nguồn vốn, nguồn tài trợ, tạo ra một sân chơi bình đẳng
về tín dụng ngắn hạn, trung và dài hạn để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
khi có nhu cầu vay đều phải tuân thủ những quy định công bằng như nhau.

Đối với ngân hàng
Đơn giản hóa thủ tục cho vay, vì nếu những chính sách về lãi suất và tín dụng được ban
hành nhưng quy trình thủ tục phức tạp sẽ khiến DN bỏ lỡ kinh doanh, cơ hội được hỗ trợ.
Cơ chế thế chấp, tín chấp cần có sự đổi mới, chỉnh sửa pháp lệnh về đăng ký giao dịch
đảm bảo. Ngân hàng có thể áp dụng hình thức đảm bảo bằng các khoản phải thu của
[Type text]

Page 19


doanh nghiệp chỉ cần doanh nghiệp cam kết thu tiền hàng qua hình thức chuyển khoản
vào tài khoản của doanh nghiệp mở tại ngân hàng. Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách
trích trừ vào tại khoản của doanh nghiệp.
Đa dạng hóa các hình thức cho vay phù hợp với tính chất sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là tạo ra các sản phẩm tín dụng mới (cho vay thấu chi, bao
thanh toán, chiết khấu thương phiếu, tín dụng thuê mua,…) để tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận gần hơn với hoạt động của các ngân hàng khi chưa đủ
các điều kiện vay vốn bắt buộc.

Nghiên cứu, tạo ra các sản phẩm dịch vụ cho vay ưu đãi hơn đối với các DNNVV. Kết
hợp nhiều sản phẩm, dịch vụ cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng để hạ lãi
suất cho vay, hỗ trợ các doanh nghiệp quản trị hiệu quả hơn, nắm bắt các điều kiện thị
trường đầy đủ hơn, kịp thời hơn. Thiết kế các gói sản phẩm cấp tín dụng linh hoạt, phù
hợp với mỗi loại hình doanh nghiệp, với hoàn cảnh của từng thời kỳ của nền kinh tế.
Nghiên cứu chứng khoán hoá các khoản cho vay và các tài sản khác cũng là một phương
pháp huy động vốn và hạn chế rủi ro đơn giản của ngân hàng. Đồng thời việc nghiên cứu
sâu rộng về các loại hình chứng khoán nhằm phục vụ hoạt động cung cấp tín dụng cho
mọi đối tượng nói chung và cho DNNVV nói riêng.
Cơ cấu lại nợ, giãn nợ, ưu đãi tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh
trong lĩnh vực nông nghiệp, nếu những doanh nghiệp này chứng minh được các nguồn
thu để trả nợ ngân hàng; phát triển hình thức thuê tài chính để giúp doanh nghiệp nhanh
chóng đổi mới công nghệ. Chủ động ngồi lại với doanh nghiệp vừa vả nhỏ, đánh giá lại
các khoản nợ, bàn bạc, gia hạn nợ, đáo nợ, cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, phục
hồi sản xuất.
Chủ động phòng ngừa rủi ro từ phía khách hàng bằng cách có nhiều biện pháp như hỗ
trợ, tư vấn cho các DNNVV trong việc nâng cao năng lực quản lý tài chính. Trợ giúp các
doanh nghiệp trong khâu lập dự án kinh doanh. Các ngân hàng không nên chỉ dừng lại ở
việc mở rộng tín dụng thông qua việc cung cấp các sản phẩm tín dụng mà còn nên có các
sản phẩm, dịch vụ tư vấn tài chính. Từ đó, khách hàng có thể sử dụng các sản phẩm tín
dụng của ngân hàng một cách hiệu quả hơn, nâng cao khả năng trả nợ cho ngân hàng,
đảm bảo chất lượng của các khoản tín dụng dù trong thời điểm nền kinh tế biến động.
Xây dựng hệ thống chấm điểm tín dụng hiệu quả cao; Hệ Thống Xử Lý Các Khoản Vay
Điện Tử (ELBS), nhằm giảm bớt thời gian giải quyết đơn xin vay DNNVV.
Một số doanh nghiệp do thiếu thông tin nên chưa am hiểu các điều kiện và thủ tục vay
của ngân hàng. Vì vậy, các ngân hàng phải mở rộng thông tin, hướng dẫn thủ tục cho
[Type text]

Page 20



doanh nghiệp trên các phương tiện truyền thông hoặc qua các cuộc hội thảo,… Tăng
cường tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ chính thức hoặc thông qua các chương trình, dự án
của các tổ chức, tạo nguồn với lãi suất thấp...
Khuyến khích thành lập các tổ chức đại diện hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đối với DNVVN
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần mở rộng và tăng cường hơn việc huy động vốn thông
qua thị trường chứng khoán, các nguồn vốn từ nước ngoài để vừa tiếp cận được các
nguồn lực tài chính, lại đồng thời có thể tranh thủ được công nghệ và kinh nghiệm tiên
tiến của nước ngoài.
Bên cạnh đó bản thân doanh nghiệp cần có các biện pháp để nâng cao uy tín,sức cạnh
tranh,tiềm lực tài chính để tạo niềm tin nơi các TCTD:
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tăng cường năng lực quản trị đi đôi
với việc tăng cường khai thác các nguồn lực, nhất là các nguồn lực từ các quan hệ tín
dụng của doanh nghiệp.
Đổi mới hệ thống quản trị nội bộ, tăng cường công tác phân tích, lập kế
hoạch chiến lược, tăng cường quản lý tài chính...
Minh bạch vấn đề tài chính để sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn, giảm thiểu
chi phí, rủi ro cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
Hiểu rõ tình trạng luân chuyển dòng tiền và vấn đề thâm hụt vốn lưu động,
giải phóng tiền mặt từ các hóa đơn xuất khẩu, nâng cao hiệu quả các khoản thu, giảm chi
phí xử lý thanh toán, tận dụng nguồn vốn dư thừa mà vẫn đảm bảo khả năng tiếp cận tiền
mặt, giảm rủi ro và duy trì lợi nhuận…Xây dựng biện pháp quản lý dòng tiền có hiệu
quả.
Xây dựng mối quan hệ liên kết trong sản xuất kinh doanh: Các doanh
nghiệp vừa và nhỏ vốn dĩ bị hạn chế về năng lực và quy mô sản xuất kinh doanh. Vì vậy
để đứng vững và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần phải tranh thủ mối quan hệ
với các doanh nghiệp lớn để tạo ra sự liên kết, phân phối cần thiết cho sự phát triển của
doanh nghiệp trong sự phát triển chung của cả nền kinh tế.
3.2 Giải pháp về thuế

Xây dựng ngưỡng doanh thu, có nghĩa là xác định một mức doanh thu phù hợp đối với
DNNVV, ở dưới mức đó, DN sẽ được miễn kê khai nộp thuế GTGT. Xây dựng ngưỡng
thuế doanh thu sẽ giảm bớt số lượng DNNVV phải kê khai nộp thuế, làm giảm chi phí
[Type text]

Page 21


tuân thủ thuế tại DN nhỏ dưới ngưỡng. Điều này sẽ giúp cơ quan thuế giảm chi phí quản
lý, tập trung nguồn lực ngăn chặn rủi ro trốn thuế.
Chính sách đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 92/2013/NĐ-CP ban hành
ngày 13/8/2013 hiện chưa hiệu quả và triệt để vì trong thực tế nhiều doanh nghiệp mặc dù
có số lao động lớn hơn 30 người (Theo luật là không phải doanh nghiệp nhỏ) nhưng
doanh thu hàng năm lại rất thấp (thấp hơn nhiều so với mức 20 tỷ đồng, mốc quy định
doanh nghiệp nhỏ) mà vẫn không được hưởng chính sách ưu đãi thuế đối với doanh
nghiệp nhỏ. Do vậy, Nhà nước nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế cho doanh nghiệp có
doanh thu hàng năm dưới 20 tỷ đồng thay vì áp dụng cho các doanh nghiệp nhỏ. Điều
này rất có ý nghĩa vì các doanh nghiệp cần hỗ trợ là doanh nghiệp có khó khăn về tài
chính chứ không phải doanh nghiệp có số lượng lao động ít.
Giãn, giảm, hoàn nhiều loại thuế. Để giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho
doanh nghiệp hạ giá thành và tiêu thụ sản phẩm. Giảm thuế đối với lĩnh vực bất động sản
nhằm giải quyết vấn đề thuê mặt bằng sản xuất cho các DNNVV. Tiếp tục gia hạn thời
hạn nộp thuế TNDN đối với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ (sử dụng dưới 200
lao động làm việc toàn bộ thời gian và có doanh thu năm không quá 20 tỷ đồng), đặc biệt
tập trung vào các ngành sản xuất, kinh doanh đặc thù như: nông sản, lâm sản, thuỷ sản,
dệt may, da giày…. Giãn tiền phạt, tiền lãi suất cho các DN còn nợ thuế, nếu có thể thì
miễn cho DN, còn nếu không thì giảm ít nhất 50%, hoặc cho nộp dần theo từng đợt.
3.3.

Nhóm giải pháp đối với DNNVV


Bên cạnh giải pháp nhằm minh bạch báo cáo tài chính của mình, các DNNVV còn cần có
thêm nhiều biện pháp khác nhằm giải quyết khó khăn đang gặp phải. Một số giải pháp
được đưa ra như sau:
- Hoàn thiện bộ máy kế toán tài chính
Thực tế hiện nay bộ máy kế toán-tài chính của DNNVV còn rất nhiều bất cập, trình độ
của kế toán trưởng hoặc phụ trách kế toán chưa đúng quy định về trình độ theo Luật kế
toán số 03/2003 (có hiệu lực từ 01/01/2004) nên công tác tổ chức hạch toán còn nhiều
hạn chế, đa số các DNNVV thuê người ngoài làm báo cáo thuế và báo cáo tài chính
(không trực tiếp làm việc tại trụ sở DN) nên việc cập nhật số sách kế toán không kịp thời,
đầy đủ và không tuân thủ chuẩn mực, nguyên tắc và chế độ kế toán. Do đó, các DNNVV
cần chủ trọng hơn đến công tác này, xem đây là nhiệm vụ sống còn để phát triển.
- Tự nâng cao năng lực của DNNVV

[Type text]

Page 22


×