Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TÁC ĐỘNG từ VIỆC GIA NHẬP TPP đối với KINH tế VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 18 trang )

TÁC ĐỘNG TỪ VIỆC GIA NHẬP TPP ĐỐI VỚI KINH TẾ VIỆT NAM
I. Về TPP.
1. Khái niệm:
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Tiếng Anh: TransPacific Strategic Economic Partnership Agreement - viết tắt TPP) là một hiệp
định/thỏa thuận thương mại tự do được ký kết giữa 12 nước với mục đích hội
nhập các nền kinh tế thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Hiện nay có 12 quốc gia đã tham dự vào hiệp định này : Brunei, Chile, New
Zealand và Singapore (thành viên chính thức) và 8 quốc gia khác vừa kết thúc tiến
trình đàm phán: Hoa Kỳ, Úc, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico, Canada và Nhật
Bản.
2. Lịch sử:
- Ngày thảo: 3/6/2005
- Ngày kí kết: 18/7/2005 tại Wellington, New Zealand
- Thỏa thuận ban đầu có hiệu lực ngày 28 tháng 05, 2006. Sau đó, thêm 5 nước
đàm phán để gia nhập, đó là các nước Australia, Malaysia, Peru, Hoa Kỳ, và Việt
Nam. Ngày 14/11/2010, ngày cuối cùng của Hội nghị thượng đỉnh APEC tại Nhật
Bản, lãnh đạo của 9 nước (8 nước trên và Nhật Bản) đã tán thành lời đề nghị của
tổng thống Obama về việc thiết lập mục tiêu của các cuộc đàm phán thuộc Hội
nghị thượng đỉnh APEC năm 2011 diễn ra tại Hoa Kỳ.
- Trước đây, TPP được biết đến với tên tiếng Anh là Pacific Three Closer Economic
Partnership (P3-CEP) và được tổng thống Chile Ricardo Lagos, thủ tướng
Singapore Goh Chok Tong và thủ tướng New Zealand Helen Clark đưa ra thảo luận
tại một cuộc họp các nhà lãnh đạo của APEC diễn ra tại Los Cabos, Mexico. Brunei
nhanh chóng tham gia đàm phán ở vòng 5 vào tháng 04 năm 2005. Sau vòng đàm
phán này, hiệp định lấy tên là Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược Xuyên Thái
Bình Dương (TPSEP hoặc P4).

1


- Tiến trình đàm phán cho hiệp định bị đình hoãn nhiều lần do thiếu tiếng nói


chung xoay quanh nhiều vấn đề như: giảm thuế xuất-nhập khẩu, bảo trợ hàng hóa
nội địa, quyền sở hữu trí tuệ v.v... Ngày 5 tháng 10 năm 2015 tại Atlanta, Hoa Kỳ,
tiến trình đàm phán hiệp định đã kết thúc thành công.
3.Nội dung hiệp định:
a) Mục tiêu
- Mục tiêu ban đầu của Hiệp định là giảm 90% các loại thuế xuất nhập khẩu giữa
các nước thành viên trước ngày 01 tháng 01, 2006 và cắt giảm bằng không tới
năm 2015.
- Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này,
như: sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm, hay an toàn lao động…
- TPP sẽ tạo ra các điều luật quốc tế có khả năng điểu chỉnh chính sách và hướng
đi của luật pháp trong từng quốc gia thành viên.
b) Đối tượng
Nét mới trong đàm phán Hiệp định TPP so với các FTA truyền thống trước đây là
sự tham gia của các đối tượng liên quan như doanh nghiệp, hiệp hội, tổ chức xã
hội. Tại mỗi phiên đàm phán, các đối tượng trên luôn được tạo cơ hội để trao đổi
thông tin cũng như bày tỏ quan điểm và nguyện vọng đối với các nội dung đàm
phán của Hiệp định thông qua các buổi hội thảo và diễn đàn dành cho các đối
tượng liên quan được tổ chức bên lề các phiên đàm phán.
c) Nội dung chính

2


3


4



5


6


d) Thời gian áp dụng
TPP sẽ chính thức được ký kết vào ngày 04 tháng 02 năm 2016 và bắt đầu có hiệu
lực 2 năm sau đó.
e) Quy định, luật lệ chung
-Tiêu chuẩn về môi trường và lao động :
Hoa Kỳ cho là TPP sẽ làm giảm việc buôn bán những loài nguy cấp, giải quyết nạn
đánh cá quá độ tại những nước thành viên.
Những điều khoản về lao động sẽ ép buộc những thay đổi lớn về thực hành như
tại Malaysia và Việt Nam. Những quốc gia này phải chứng minh là họ tuân theo
những tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế. Các quốc gia TPP sẽ bị đòi hỏi
phải có một mức lương tối thiểu. Họ cũng sẽ phải cấm tình trạng bắt buộc lao
động bằng cách giữ hộ chiếu của các công nhân ngoại quốc và việc đòi tiền đặc
biệt để công nhân được nhận vào làm, trở thành một con nợ tức khắc. Ở Việt
Nam, chính quyền phải cho phép nhân viên tự do thành lập công đoàn và cho
phép hình thành một công đoàn độc lập với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
duy nhất hiện thời.
Các nước không tuân theo tiêu chuẩn quy định sẽ bị phạt về thương mại.
- Tòa án đặc biệt của TPP :
Với hiệp định TPP, các công ty, tập đoàn nước ngoài và quốc tế sẽ có khả năng
mang chính phủ của các quốc gia thành viên ra tòa án đặc biệt của TPP khi các
7


quốc gia này đặt ra các luật lệ, chính sách đi ngược lại với chỉ tiêu của TPP. Tòa án

đặc biệt này có toàn quyền bắt chính phủ đền bù không những cho các thiệt hại
đã xảy ra, mà còn những mất mát về cơ hội trong tương lai của các tập đoàn, công
ty quốc tế.
II. Tác động của TPP đối với nền kinh tế Việt Nam.
1. Cơ hội :
a. Giúp Việt Nam tăng trưởng xuất khẩu và có một cơ cấu thương mại theo
thị trường cân bằng hơn
- TPP sẽ giúp hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam thuận lợi hơn khi tiếp
cận thị trường các nước đối tác thông qua cắt giảm thuế quan, bãi bỏ
các điều kiện hạn chế đối với đầu tư, dịch vụ.
- Lợi ích từ TPP được kỳ vọng ở việc gia tăng xuất khẩu hàng hóa nhờ
được hưởng các mức thuế suất ưu đãi (0-5%) ở các thị trường đối tác.
Mức thuế như trên sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh lớn và triển vọng
sáng sủa cho nhiều ngành hàng, đặc biệt là dệt may, da giày, thủy sản,
đồ gỗ là các ngành xuất khẩu quan trọng hiện nằm trong nhóm 10 sản
phẩm xuất khẩu chủ lực.
- Việc có quan hệ FTA với Hoa Kỳ (và cùng với đó là EU, Liên minh
Kinh tế Á - Âu) sẽ giúp Việt Nam có cơ hội cơ cấu lại thị trường xuất
nhập khẩu theo hướng cân bằng hơn (hiện đang dựa quá mạnh vào các
thị trường tại Đông Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước
ASEAN).
- Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tham gia vào thị trường mua
sắm công của Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada… trong khi doanh nghiệp của
các nước cạnh tranh với Việt Nam do chưa có quan hệ FTA với Hoa Kỳ
sẽ không được tham gia
- TPP sẽ mở của cho Việt Nam gia nhập thị trường Mĩ ,Australia…..
Khi hàng hóa Việt Nam như sản phẩm dệt may, cà phê, điện tử… vào
các thị trường Mỹ, Australia, Nhật Bản.v.v… mức thuế sẽ rất thấp
hoặc bằng không.
8



Vì tất cả nhứng lý do trên, cơ hội mở ra cho Việt Nam khi gia nhập TPP là rất lớn
để phát triển thương mại. Ví dụ, ngành dệt may hiện nay với kim ngạch xuất khẩu
trên 20 tỷ USD/ năm, trong đó xuất khẩu vào các nước tham gia TPP khoảng 12 tỷ
USD, với thuế suất nhập khẩu vào các nước bình quân hiện nay khoảng 15%…
hàng dệt may Việt Nam đang phải nộp 1,8 tỷ USD tiền thuế nhập khẩu mỗi năm
(tương ứng bằng 1% GDP của cả nước.
Tuy nhiên, nếu thuế nhập khẩu được giảm về 0% thì các doanh nghiệp dệt may
cũng sẽ được “chia” một phần trong giá trị tiền thuế được giảm. Giá trị tăng thêm
đó, không những góp phần cải thiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của các DN,
nâng cao đời sống của người lao động mà còn là cơ hội để thị phần hàng dệt may
Việt Nam tại các nước này tăng thêm, tạo thêm hàng triệu việc làm cho người lao
động trong tương lai.

b. Tạo điều kiện tốt để hoàn thiện thể chế kinh tế và cải cách hành chính
quốc gia, cũng như xã hội
- Về mặt thể chế, cũng như việc tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), tham gia TPP sẽ là cơ hội để Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể
chế:
+ Thể chế kinh tế thị trường - một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác
định
+ Hỗ trợ cho tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của
Việt Nam
+ Có cơ hội để hoàn thiện môi trường kinh doanh theo hướng thông thoáng, minh
bạch và dễ dự đoán hơn, từ đó thúc đẩy cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước
ngoài.
+ TPP với các tiêu chuẩn rất cao về quản trị minh bạch và hành xử khách quan của
bộ máy Nhà nước sẽ giúp Việt Nam tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa; thúc đẩy hoàn thiện bộ máy theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững

mạnh; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương
và phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu.
9


- Về mặt xã hội, tham gia TPP sẽ tạo cho Việt Nam các cơ hội giúp
nâng cao tốc độ tăng trưởng.
Hệ quả là sẽ tạo thêm nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và góp phần
xoá đói giảm nghèo. Tăng trưởng kinh tế cũng giúp Việt Nam có thêm
nguồn lực để cải thiện chất lượng nguồn nhân lực và chăm sóc sức
khỏe cộng đồng.
Do nhập khẩu từ Hoa Kỳ và các nước TPP chưa có FTA với Việt Nam phần lớn là
không cạnh tranh trực tiếp, do đó nếu có một lộ trình giảm thuế hợp lý, kết hợp với
hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, Việt Nam có thể xử lý được các vấn đề xã hội
nảy sinh do tham gia TPP. Đặc biệt, do TPP bao gồm cả các cam kết về bảo vệ
môi trường nên tiến trình mở cửa, tự do hóa thương mại và thu hút đầu tư sẽ được
thực hiện theo cách thân thiện với môi trường hơn, giúp Việt Nam tăng trưởng bền
vững hơn.

c. “Cú hích” giúp Việt Nam thu hút được dòng FDI với giá trị lớn hơn:
- Nhằm đạt được các lợi ích tối đa từ việc được hưởng mức thuế quan
ưu đãi, Việt Nam phải nỗ lực hết mình trong việc cải thiện môi trường
kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của DN, nâng cao trình độ
công nghệ sản xuất, song song với việc cải cách thể chế, quy định luật
pháp và cách thức thực thi luật pháp như các điều kiện về lao động,
môi trường, sở hữu trí tuệ… Điều này chắc chắn sẽ góp phần không
nhỏ vào việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, về giá trị
đầu tư cũng như về công nghệ đầu tư.
- Ngoài ra, TPP được dự báo sẽ giúp Việt Nam minh bạch hóa thị
trường mua sắm công, đấu thầu chính phủ; có cơ hội nâng cao việc

thực thi quyền sở hữu trí tuệ và làm tốt hơn vấn đề bảo vệ môi trường.
Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn trên thế giới như Samsung, Intel, Microsoft, LG... đã
đầu tư mạnh vào Việt Nam với mục tiêu biến nước ta trở thành một trong những cứ
điểm quan trọng nằm trong chuỗi sản xuất các mặt hàng công nghệ cao như bộ vi
xử lý máy tính, điện thoại thông minh, các mặt hàng gia dụng sử dụng công nghệ
mới... Tham gia TPP sẽ giúp xu hướng này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn, là
10


điều kiện quan trọng để nước ta bước sang giai đoạn phát triển các ngành điện tử,
công nghệ cao. Đây là cơ hội rất lớn để nâng tầm nền kinh tế Việt Nam trong 5-10
năm tới. một số doanh nghiệp của nước ta cũng có điều kiện vươn ra một số thị
trường TPP (như Tập đoàn Viettel và Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đã đầu tư tại
Peru) qua đó lan tỏa ra các thị trường khu vực, nhất là khu vực Trung Mỹ (lớn nhất
là Mê-hi-cô) và Nam Mỹ (Pê-ru, Chi-lê)
2. Thách thức :
a. Nguy cơ mất khả năng cạnh tranh
TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, không phân biệt quốc gia phát triển hay
đang phát triển. Điều này cho thấy sự bất lợi lớn đối với các DN Việt Nam khi
phải cạnh tranh hoàn toàn bình đẳng với các DN của các thị trường phát triển
hơn như Hoa Kỳ, Nhật, hay Australia, đặc biệt là nhóm các DN vừa và nhỏ và
siêu nhỏ - chiếm phần lớn trong số các DN Việt Nam
- Sự gia tăng nhanh chóng trong luồng hàng nhập khẩu từ các nước TPP
vào Việt Nam khi giảm thuế quan là điều chắc chắn sẽ xảy ra và hệ
quả tất yếu là doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt, thị
phần hàng hóa của Việt Nam sẽ bị thu hẹp lại, thậm chí là nguy cơ
mất thị phần nội địa. Nguy cơ này đặc biệt nguy hiểm đối với nhóm
hàng nông sản, vốn là nhóm gắn liền với đối tượng dễ bị tổn thương
trong hội nhập là nông dân.
- Ngoài ra, điều này cũng dẫn đến việc doanh nghiệp trong nước sẽ phải

cạnh tranh với nhau và doanh nghiệp nào yếu kém sẽ bị đào thải khỏi
thị trường. Vậy nên doanh nghiệp nào tự thích nghi, tự điều chỉnh
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của mình mới tồn tại được.
b. Yêu cầu gắt gao về chất lượng
- Mục tiêu lớn nhất của Việt Nam khi gia nhập TTP là tăng cường lợi
thế xuất khẩu sang các nước TTP, thông qua việc các nước này miễn
hoặc giảm thuế cho Việt Nam, tuy nhiên điều này chỉ đạt được nếu
hàng hóa của Việt Nam đạt được những yêu cầu và quy tắc rất cao về
xuất xứ, bắt buộc phải có nguyên liệu hoặc giá trị chủ yếu từ các nước
thành viên, trong khi đó việc sản xuất khẩu hàng hóa ở Việt Nam lại
phụ thuộc nhập khẩu từ các nước ngoài TTP như Trung quốc, Hàn
11


Quốc và một số nước ASEAN. Nếu chấp nhận các quy tắc ấy khi thuế
xuất có về bằng 0 hoặc rất thấp thì hàng xuất khẩu Việt Nam cũng
không được lợi gì.
- Ví dụ như da giày, dệt may là mặt hàng chủ lực trong kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ nhưng muốn được hưởng ưu đãi thuế
thì phải đáp ứng yêu cầu là sợi phải xuất xứ từ các nước trong TPP,
hơn thế nữa ngành dệt may của Việt Nam là ngành xuất khẩu chủ lực
nhưng 75% nguyên vật liệu phải nhập từ Trung Quốc trong khi Trung
Quốc không tham gia TPP nên rõ ràng ngành dệt may sẽ không được
hưởng ưu đãi thuế quan như các ngành khác.
Trong trường hợp này, Doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn không được
hưởng lợi gì từ việc ký kết TPP. TPP làm như vậy cũng có lẽ bởi vì họ muốn
Việt Nam xuất khẩu hàng do Việt Nam sản xuất chứ không phải xuất khẩu
hộ hàng của Trung Quốc. Vì vậy Việt Nam phải cố gắng nâng cao hàm
lượng nội địa, thu hút thêm nhà đầu tư nước ngoài và đấy là những thách
thức, nhưng thách thức đó nếu được xử lý tốt thì có thể trở thành thuận lợi

để thúc đẩy tăng trưởng của Việt Nam và hơn nữa phần nào đó giúp Việt
Nam thoát khỏi sự lệ thuộc nhập nguyên vật liệu sản xuất từ các nước khác
đặc biệt là Trung Quốc .
c. Thực thi các vấn đề về môi trường, lao động, luật sở hữu trí tuệ, các ràng
buộc mang tính thủ tục
Thách thức từ việc thực thi các yêu cầu cao về môi trường, lao động, cạnh
tranh, luật sở hữu trí tuệ… và các ràng buộc mang tính thủ tục trong các quy
định liên quan đến rào cản kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm. Các kết quả
đàm phán FTA của Hoa Kỳ trong giai đoạn gần đây cho thấy quốc gia này đặc
biệt nhấn mạnh đến việc tuân thủ các yêu cầu cao về môi trường và lao động
hay các ràng buộc về các quy định về TBT, SPS… Điều này đã tạo ra những
khó khăn cũng như làm phát sinh thêm chi phí cho doanh nghiệp Việt Nam, ảnh
hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt khi vấn
đề về môi trừơng đang ngày càng đáng báo động và luật pháp còn khá lỏng lẻo
ở nước ta. Để không bị đào thải và là một trong các điều kiện của TTP biết đâu
chính đây sẽ là tiền đề để phát triển một môi trường hoạt động kinh doanh lành
mạnh văn minh và dù muốn hay không thì doanh nghiệp vẫn phải chấp nhận
12


tình xu hướng này vì vậy thay vì có gắng trì hoãn và ỷ lại các doanh nghiệp và
nhà nước sẽ luôn phải vận động cho phù hơp với xu thế của thời đại.
d. Tiềm năng cạnh tranh
- TPP hướng tới một sân chơi bình đẳng, không phân biệt quốc gia phát
triển hay đang phát triển trong khi WTO vẫn có chính sách ưu tiên cho
các quốc gia đang phát triển.
- Như vậy, rõ ràng đây là bất lợi lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam
khi không có đủ năng lực để cạnh tranh bình đẳng, sòng phẳng với các
doanh nghiệp của Hoa Kỳ hay Australia. thực tế trên nhiều lĩnh vực
hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh được với

doanh nghiệp nước ngoài, do họ có bề dầy kinh nghiệm, tiềm lực tài
chính, thương hiệu, uy tín…
Do đó, doanh nghiệp Việt Nam thay vì đối đầu trực tiếp trên các thị trường lớn
thì hãy chọn các thị trường ngách, thị trường nhỏ với chiến lược “đại dương
xanh” – khai phá mảng thị trường có thể nhỏ hẹp nhưng mới và ít đối thủ cạnh
tranh. Ngay trong mảng mua sắm công, thay vì tham gia đấu thầu trực tiếp
những hợp đồng lớn, doanh nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể lựa chọn trở
thành nhà thầu phụ. Điều này phù hợp với tiềm lực và khả năng của DN Việt
Nam hơn. Doanh nghiệp nào làm không đúng cách thì sẽ bị tổn hại, doanh
nghiệp đúng cách thì phát triển thịnh vượng. Suy cho cùng đó cũng là một hình
thức sàng lọc tự nhiên, đã tham gia vào sân chơi toàn cầu thì phải chấp nhận
cuộc chơi, chấp nhận có được, có mất, không thể thắng hoàn toàn. TPP là cơ hội
doanh nghiệp trải nghiệm và vươn lên.
e. Giảm nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu, tăng chi phí cải cách hành
chính của Chính phủ và các chi phí của DN:
Việc tổ chức thực hiện các quy định trong TPP sẽ là một gánh nặng lớn đối với
Nhà nước trong việc gia nhập các công ước liên quan, sửa đổi quy định pháp luật
nội địa, xây dựng các cơ chế, thủ tục ban hành thực thi mới… Việc thực thi cũng
tạo ra nhiều chi phí cho DN (ví dụ như thay đổi công nghệ nuôi trồng – sản xuất,
thay đổi nguồn cung nguyên vật liệu, bổ sung cơ chế kiểm soát).
3. Tác động của TPP so với WTO đến Việt Nam:
13


a. WTO

gì?
WTO có tên đầy đủ là Tổ chức Thương mại Thế giới (Worrld Trade
Organnization). Tổ chức này được thành lập và hoạt động từ 1/1/1995 với
mục tiêu thiết lập và duy trì một nền thương mại toàn cầu tự do, thuận lợi

và minh bạch.
WTO được thành lập với 5 mục tiêu chủ yếu:
+ Nâng cao mức sống của con người.
+ Bảo đảm tạo đầy đủ công ăn việc làm, tăng trưởng vững chắc thu nhập và nhu
cầu thực tế của người lao động.
+ Phát triển việc sử dụng hợp lý của người lao động.
+ Phát triển việc sử dụng hợp lý các nguồn lực của thế giới .
+ Mở rộng việc sản xuất và trao đổi hàng hóa dịch vụ trên phạm vi toàn thế giới.
.

b. So sánh:
Giống nhau: Duy trì một nền thương mại công bằng, tự do và phát triển
đối với các nước thành viên nói chung và Việt Nam nói riêng.
Khác nhau: - WTO giống như một hiệp định nền cho các quốc gia tham
gia vào sân chơi chung toàn cầu, từ đó, nếu một số nước muốn chơi
riêng, tạo thuận lợi hơn cho thương mại của nhau thì sẽ ký FTA. Chẳng
hạn như với các cam kết về hàng hóa, theo WTO, Việt Nam dỡ bỏ 30%
số dòng thuế trong biểu thuế. Với các FTA đã ký, tỷ lệ này là 80-90%.
- Tiêu chuẩn của TPP cao hơn vì TPP sẽ có phạm vi rộng hơn, yêu cầu
thực thi cao hơn và khả năng tác động thể chế kinh tế thị trường rộng
lớn hơn. Các nội dung không có trong WTO hoặc Việt Nam chưa cam
kết trong WTO đã được đưa vào TPP như đầu tư công, mua sắm
Chính phủ, chính sách cạnh tranh Với hàng hóa, các nước cam kết
mở cửa gần 100% các dòng thuế. Và không chỉ hàng hóa, các cam kết
14


về dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… trong hiệp định cũng rất cao. TPP
còn bao gồm cả những vấn đề chưa từng xuất hiện trong một FTA như
doanh nghiệp nhà nước.

- WTO trước đây, Việt Nam đứng trên cương vị xin gia nhập và đàm
phán với các nước, họ đồng ý mới được vào và phải chấp nhận những
quy tắc có sẵn trong WTO
- Đối với TPP, Việt Nam hoàn toàn chủ động khi là thành viên tham gia
ngay từ đầu, có quyền đưa ra đề xuất để cùng đàm phán, trao đổi.
- Đối với WTO, Việt Nam chỉ phải đàm phán 2 lĩnh vực là mở cửa thị
trường hàng hóa và dịch vụ, cùng với đàm phán đa phương
- Còn với TPP, Việt Nam phải đàm phán tới 30 chương, trong đó có
những lĩnh vực lần đầu tiên như công đoàn, lao động, doanh nghiệp
Nhà nước
- Ở lĩnh vực tài chính, sau WTO, gần như Việt Nam chưa đàm phán một
hiệp định nào yêu cầu mở cửa tự do quy mô lớn ở lĩnh vực này. Song
so với Hiệp định thương mại dịch vụ (GATS) của WTO, đàm phán
dịch vụ tài chính trong TPP đã có nhiều khác biệt lớn.
- Đàm phán TPP được thực hiện theo phương thức tiếp cận "chọn - bỏ",
khác với phương thức "chọn - cho" của WTO. Điều này có nghĩa TPP
chỉ cho phép các nước bảo lưu một số lượng hạn chế các ngành, phân
ngành và phải giải trình với lý do hợp lý để bảo lưu.
Kết luận: TPP vừa là cơ hội vừa là thách thức với Việt Nam. Sau WTO, kỳ vọng
rằng TPP sẽ tạo ra làn sóng cải cách thể chế lần thứ hai, biến áp lực từ bên ngoài
thành động lực cải cách ở bên trong. Kết quả là nền kinh tế sẽ đi lên một tầng cao
mới.

III. Nhận định của Chính Phủ và các nhà kinh tế đối với việc Việt Nam gia nhập
TPP
15


VEPR vừa công bố báo cáo nghiên cứu về đánh giá tác động của TPP đến Việt
Nam:

Thứ nhất, nhập khẩu gia tăng, trong khi xuất khẩu có xu hướng giảm.
Thứ hai, khi TPP được thực thi, các dòng thuế quan sẽ giảm dần về 0% khiến
doanh thu về thuế giảm.
Thứ ba, việc tham gia TPP không chỉ đòi hỏi các nước tham gia cắt giảm các hàng
rào thuế quan mà còn đòi hỏi cắt giảm hàng rào phi thuế quan như chi phí vận
chuyển, thủ tục chờ đợi nhập khẩu...
Thứ tư, Việt Nam sẽ không còn khả năng duy trì lợi thế về lao động giá rẻ, trong
khi nhu cầu về lao động có kỹ năng tăng lên. Sự dịch chuyển tự do của lao động
không chỉ trong nước, mà cả giữa các nước.
Thứ năm, các nước sẽ có xu hướng áp dụng các hàng rào kỹ thuật thay thế, để bảo
vệ các ngành sản xuất nội địa của mình. Trong bối cảnh chất lượng các sản phẩm
của Việt Nam chưa cao, điều này sẽ hạn chế xuất khẩu.
Thứ sáu, với những ưu đãi khi gia nhập TPP, các nước trong khối sẽ tăng cường
đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
1. Nhật khẩu tăng, xuất khẩu có xu hướng giảm
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương, Vũ Huy Hoàng, Việt Nam đang đàm phán
hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và một trong những mục tiêu quan
trọng nhất của Việt Nam là đạt được các lợi ích cơ bản, đó là mở cửa thị trường
hàng hóa, tạo điều kiện cho những mặt hàng Việt Nam có lợi thế như dệt may, da
giày và một số mặt hàng nông sản, thủy sản có thể thâm nhập được với qui mô lớn
hơn và phạm vi rộng hơn vào các thị trường trong khối TPP này.
* TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM: Đẩy nhanh cải cách thể chế
TPP là một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Hiệp định này có nhiều
chương về thương mại, sở hữu trí tuệ, đầu tư, kể cả về doanh nghiệp nhà nước…,
rất khác biệt với các hiệp định thương mại trước đây. TPP cần phải hiểu như là một
Hiệp định đề ra luật chơi mới trong thương mại đầu tư quốc tế, áp dụng trong một
khối kinh tế khá năng động, chiếm tỷ trọng lớn trong thương mại toàn cầu.
16



Cho nên, việc Việt Nam được tham gia Hiệp định này có ý nghĩa rất lớn và là cơ
hội lớn để thúc đẩy cải cách, phát triển kinh tế Việt Nam cho dù bên cạnh thuận lợi
thì TPP cũng đặt ra những thách thức rất lớn.
2.

Cạnh tranh thị trường tiêu thụ

Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng:
Theo tôi, nguyên nhân của vấn đề trên xuất phát từ việc tiêu thụ ở một số thị
trường lớn là đối tác kinh tế của Việt Nam có dấu hiệu chậm lại do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế chưa được khắc phục triệt để, nhu cầu tiêu dùng không nhiều.
Nhưng quan trọng hơn là áp lực về cạnh tranh giữa hàng Việt Nam với các nước
ngày càng gay gắt, việc mở rộng thêm các thị trường và tăng quy mô xuất khẩu rất
khó khăn trong khi khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng trong nước vẫn còn
chưa đạt được yêu cầu.
Thêm vào đó, một số quốc gia có xu hướng quay trở lại việc bảo hộ mậu dịch bằng
việc dựng lên các rào cản trá hình trong đó có cả hàng rào phi thuế quan mà chúng
tôi cho rằng đây là một trong những khó khăn mà Việt Nam cần có các giải pháp
vừa là trước mắt cũng vừa là lâu dài để giải quyết.
Chính vì vậy, trong cuộc họp mới đây, Chính phủ đã chỉ đạo các ngành trong đó có
Bộ Công Thương và Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn chủ động trong việc
tái cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, thị trường xuất khẩu theo hướng vừa khai thác sâu
hơn thị trường truyền thống và tìm thêm thị trường mới, không quá phụ thuộc vào
một thị trường duy nhất.
3.
Các nước tăng cường đầu tư trực tiếp vào Việt Nam
Việt Nam là thành viên quan trọng trong chiến lược xoay trục sang châu Á của
Tổng thống Barack Obama.
Mối quan hệ kinh tế và chính trị giữa hai nước đang ấm lên kể từ sau khi chiến
tranh kết thúc, mặt khác, tình hình với Trung Quốc - đối tác thương mại lớn nhất đã

có lúc rơi vào căng thẳng sau sự kiện dàn khoan Hải Dương 981 năm ngoái.
Do đó, Mỹ và Việt Nam đều đang thúc đẩy quá trình giảm ảnh hưởng của Trung
Quốc, thông qua một hiệp định mà quốc gia này không phải là thành viên.
17


Với tác động của Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(TPP) vừa ký kết, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam sẽ tăng 11%,
tương ứng 36 tỷ USD, nhờ hiệp định có quy mô lớn nhất toàn cầu này.

18



×