Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số tại huyện lương tài bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.74 MB, 107 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) luôn được xác
định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển đất nước, một trong
những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của Quốc gia. Thực hiện tốt công tác
DS-KHHGĐ là giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng
người, từng gia đình và toàn xã hội. Trong những năm qua, Đảng và Nhà
nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm quan tâm toàn diện
đến công tác DS-KHHGĐ.
Kết quả tổng kết thực tiễn nhiều năm cho thấy, công tác DS - KHHGĐ
trên địa bàn huyện Lương Tài bên cạnh những thành tích tốt đã đạt được thì
tình hình dân số đang có diễn biến không bình thường, nhiều bất cập diễn ra
giữa lý thuyết và thực tiễn trước sự biến đổi kinh tế - xã hội tác động đến từng
gia đình, từng con người, nhất là đối với dân số trẻ đang trong độ tuổi sinh đẻ
trước làn sóng công nghiệp hóa, đô thị hóa đang diễn ra nhanh tại tỉnh Bắc
Ninh. Những bất cập đang gây ra những khó khăn cho hoạt động dân số nói
chung và đội ngũ cán bộ làm công tác dân số huyện Lương Tài nói riêng.
Hiện tại tỷ suất sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 vẫn còn ở mức cao so với mặt
bằng chung của tỉnh và cả nước (Năm 2013 tỷ suất sinh là 18.5%, tỷ lệ sinh
con thứ 3 là 17,6%), tỷ số giới tính khi sinh cao ở mức 127 bé trai/100 bé
gái ... Chất lượng công tác dân số chưa được đảm bảo, nguồn kinh phí đầu tư
cho công tác dân số - KHHGĐ còn eo hẹp.
Ngay từ khi ra đời, Đảng ta nhấn mạnh “cán bộ là nhân tố quyết định
sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng
Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng: “Cán bộ là những người đem
chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính



2

phủ để hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy, “cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”.
Tuy nhiên, tại huyện Lương Tài do nhiều nguyên nhân chủ quan lẫn
khách quan chất lượng đội ngũ cán bộ DS - KHHGĐ vẫn còn những hạn chế,
bất cập: Trình độ, năng lực công tác của một bộ phận cán bộ, nhất là cán bộ
không chuyên trách còn yếu; tính năng động, sáng tạo của một số cán bộ chưa
cao; khả năng nhạy bén, nắm bắt tình hình, kinh nghiệm thực tiễn còn hạn
chế... dẫn đến kết quả công tác DS - KHHGĐ còn chưa theo kịp với tình hình
thực tế.
Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS - KHHGĐ đáp
ứng yêu cầu thực tiễn và hội nhập quốc tế là vấn đề cấp bách và hết sức cần
thiết đối với huyện Lương Tài. Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả
chọn đề tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Dân số - KHHGĐ tại huyện
Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh”, nhằm góp phần quan trọng trong việc thực hiện
chính sách DS - KHHGĐ, phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng và
nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân trong huyện.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và phân tích thực tiễn về hoạt động của đội
ngũ cán bộ dân số - KHHGĐ tại huyện Lương Tài và đề xuất các giải pháp
quản lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - KHHGĐ tại huyện
Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - Kế hoạch hóa gia đình tại huyện
Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh
b. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - Kế
hoạch hóa gia đình; Những yếu tố tác động đến chất lượng đội ngũ cán bộ dân



3

số - KHHGĐ và một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số KHHGĐ.
- Phạm vi không gian: Bao gồm viên chức cấp huyện cấp xã và cộng
tác viên thôn, khu phố trên địa bàn huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi thời gian: Số liệu được thu thập từ năm 2014 đến 2017.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về công tác dân số - KHHGĐ và cán bộ
làm công tác dân số - KHHGĐ.
- Khảo sát và phân tích hoạt động của đội ngũ cán bộ dân số - KHHGĐ
huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
dân số - KHHGĐ huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, hệ thống
hóa các tài liệu liên quan đến vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân
số - KHHGĐ huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
b. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
- Phương pháp điều tra: Thu thập ý kiến của các đối tượng thông qua
việc trưng cầu ý kiến. Các nội dung trưng cầu ý kiến là các vấn đề liên quan
đến thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Tổng kết kinh nghiệm, những ưu
điểm trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - KHHGĐ
huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh đã làm được trong thời gian qua.
- Phương pháp chuyên gia: Xin ý kiến của các chuyên gia về các vấn đề
liên quan đến đánh giá thực trạng và tính khả thi của các biện pháp được đề
xuất.



4

c. Phương pháp xử lý thông tin
Phương pháp thống kê được sử dụng để xử lý các số liệu đã thu thập.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học: Đề tài làm rõ vài trò của đội ngũ cán bộ dân số KHHGĐ đối với công tác dân số - KHHGĐ, đồng thời đề xuất các biện pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - KHHGĐ.
Ý nghĩa thực tiễn: chỉ ra khả năng áp dụng, vận dụng các kết quả
nghiên cứu, khả năng cung cấp thông tin có ý nghĩa tham khảo. Kết quả
nghiên cứu là những kinh nghiệm tốt cho công tác dân số - KHHGĐ cũng như
cho hoạt động nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - KHHGĐ ở huyện
Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Bên cạnh đó, những giải pháp đề xuất sẽ là những
thông tin tham khảo hữu ích cho các địa phương khác.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ DS-KHHGĐ.
Chương 2: Thực trạng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DSKHHGĐ tại huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ
tại huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ DÂN SỐ - KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Dân số đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển của toàn xã

hội. Một mặt dân số là lực lượng tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ cho xã
hội. Mặt khác, dân số là lực lượng tiêu thụ sản phẩm. Bởi vậy, quy mô, cơ cấu
dân số có ảnh hưởng lớn đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích luỹ
xã hội. Vấn đề dân số và phát triển luôn là mối quan tâm hàng đầu của các
quốc gia trên thế giới, sự bùng nổ và gia tăng dân số sẽ có ảnh hưởng xấu tới
quá trình phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), sẽ dẫn tới đói nghèo một cách
nhanh chóng.
Trong mỗi gia đình, với những hoàn cảnh khác nhau, những gia đình có
điều kiện kinh tế ổn định thường có xu hướng giảm bớt tỷ lệ sinh để tập trung
nâng cao mức sống của các thành viên trong gia đình, ngược lại, tại một số
gia đình có điều kiện kinh tế khó khăn, khi tỷ lệ sinh tăng lên, điều kiện chăm
sóc các thành viên trong gia đình cũng bị phân tán, tỷ lệ con cái được học
hành giảm đi rõ rệt, tỷ lệ người cao tuổi trong gia đình được chăm sóc y tế
thường xuyên cũng giảm đi.
Đối với các cơ quan, tổ chức công tác dân số kế hoạch hóa gia đình ảnh
hưởng trực tiếp đến nguồn nhân lực đầu vào trong tuyển dụng, dân số trẻ tăng
nhanh là thuận lợi cho việc phát triển lực lượng sản xuất có sức khỏe, trình
độ, khả năng tiếp thu khoa học công nghệ nhưng ngược lại nó cũng là sức ép
về nhu cầu việc làm, giáo dục, y tế, nhu cầu sinh hoạt tăng kéo theo hàng loạt
các vấn đề khác trong việc ổn định sinh kế gắn với bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên và môi trường.


6

Đối với nước ta, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ)
luôn được xác định là một bộ phận quan trọng trong Chiến lược phát triển đất
nước, một trong những vấn đề KT-XH hàng đầu của quốc gia. Trải qua hơn
50 năm xây dựng và trưởng thành, công tác DS-KHHGĐ đã đạt được những
thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng đối với sự phát triển đất nước

như: Tỷ suất sinh thô từ 19,0‰ năm 2002, dao động tăng lên 19,2‰ năm
2004, giảm dần xuống 17,1‰ năm 2010 và 16,9‰ năm 2012, giảm 2,1‰ so
với năm 2010. Tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 21,5% năm 2003, xuống
còn 15,1% năm 2010 và 14,2% năm 2012. Năm 2003, dân số Việt Nam là
80,47 triệu người, tăng lên 88,78 triệu người năm 2012, tăng thêm 8,31 triệu
người so với năm 2003. Tỷ lệ phát triển dân số từ 1,17% năm 2003 giảm
xuống 1,06% năm 2012. Người dân đã được cung cấp thông tin đầy đủ về kế
hoạch hóa gia đình (KHHGĐ), trên 98% số người có nhu cầu đã tự nguyện sử
dụng các phương tiện tránh thai một cách an toàn, thuận tiện.
Tuy nhiên, công tác Dân số - KHHGĐ của nước ta nói chung và tại
Huyện Lương Tài nói riêng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức. Mức giảm
sinh có giảm nhưng chưa bền vững, có sự khác biệt giữa các xã và có nguy cơ
tăng sinh trở lại, mất cân bằng giới tính khi sinh đang có chiều hướng gia
tăng, vấn đề già hoá dân số đã có biểu hiện rõ rệt đặc biệt ảnh hưởng đến lực
lượng sản xuất ngành nông nghiệp, đội ngũ cán bộ Dân số xã, phường, thị
trấn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập về chế độ đãi ngộ, làm hạn chế tính tích
cực trong công tác, trình độ quản lý và kiến thức chuyên môn còn trong quá
trình tiếp tục nâng cao năng lực để tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền
tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu về Dân số - KHHGĐ tại địa
phương mình.


7

Trong quá trình tìm hiểu, thu thập thông tin tài liệu và nghiên cứu đề tài
này, tôi được biết đã có công trình nghiên cứu khoa học, các bài viết liên quan
đến công tác DS-KHHGĐ, như bài viết của các tác giả:
- Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế "Quản lý công tác
DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội” của Đặng Thị
Huyền, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, năm 2014.

- Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Quản lý Kinh tế "Giải pháp nâng cao
chất lượng công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”
của Nguyễn Thị Thu, Học viện Nông nghiệp Việt Nam, năm 2015.
- Bài báo “Nâng cao năng lực cán bộ- Giải pháp quan trọng cho công
tác dân số” của báo Sức khỏe và Đời sống số ra ngày 21/12/2017.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đó phần lớn tập trung nghiên cứu
sâu về quản lý và giải pháp nâng cao chất lượng công tác DS-KHHGĐ, các
nghiên cứu chuyên sâu về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ còn ở mức
tổng quan toàn quốc, chưa có nghiên cứu nào phù hợp với tình hình thực tế
hiện nay của huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
1.2. Cơ sở lý luận về chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - kế hoạch hóa gia
đình
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm dân số
Dân số là vấn đề gắn bó mật thiết với mọi mặt của đời sống KT-XH.
Nói đến dân số là nói đến mối quan hệ chặt chẽ giữa người với người hay mối
quan hệ giữa các cộng đồng người ở cấp độ vĩ mô: vùng, miền, lãnh thổ, dân
tộc. Bởi vì dân số có thể coi là lượng dân cư của cả trái đất, hay một phần của
nó, của một quốc gia hay một vùng địa lý.
Khái niệm dân số được hiểu theo nhiều cách khác nhau:


8

- Dân số theo nghĩa thông thường là số lượng dân số trên một vùng
lãnh thổ, một địa phương nhất định.
- Dân số theo nghĩa rộng được hiểu là một tập hợp người. Tập hợp
này không chỉ là số lượng mà cả cơ cấu và chất lượng [31].
- Theo Pháp lệnh dân số năm 2003 thì "Dân số là tập hợp người sinh
sống trong một quốc gia, khu vực, vùng địa lý kinh tế hoặc một đơn

vị hành chính”.
Dân số bao gồm 4 yếu tố cơ bản sau: Quy mô dân số, cơ cấu dân số,
phân bố dân cư và chất lượng dân số.
1.2.1.2. Kế hoạch hoá gia đình
KHHGĐ là nỗ lực của Nhà nước, xã hội để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng
chủ động, tự nguyện quyết định số con, thời gian sinh con và khoảng cách
giữa các lần sinh nhằm bảo vệ sức khoẻ, nuôi dạy con có trách nhiệm, phù
hợp với chuẩn mực xã hội và điều kiện sống của gia đình [26].
1.2.1.3. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình
Công tác dân số là việc quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động tác
động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư và nâng cao chất
lượng dân số.
Công tác KHHGĐ là biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp
phần bảo đảm cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Các biện pháp
thực hiện KHHGĐ bao gồm:
+ Tuyên truyền, tư vấn, giúp đỡ, bảo đảm để mỗi cá nhân, cặp vợ chồng
chủ động, tự nguyện thực hiện KHHGĐ;
+ Cung cấp các dịch vụ KHHGĐ bảo đảm chất lượng, thuận tiện, an
toàn và đến tận người dân;
+ Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần, thực hiện các chính sách
bảo hiểm để tạo động lực thúc đẩy việc thực hiện KHHGĐ sâu rộng trong
nhân dân [26].


9

1.2.1.4. Khái niệm về cán bộ dân số kế hoạch hóa gia đình
Cán bộ DS-KHHGĐ được hiểu là những người được cơ quan nhà nước
tuyển dụng, được giao nhiệm vụ quản lý và tổ chức thực hiện các hoạt động
tác động đến quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân cư, nâng cao chất

lượng dân số và thực hiện các biện pháp chủ yếu để điều chỉnh mức sinh góp
phần bảo đảm cuộc sống no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc.
Cán bộ DS-KHHGĐ cấp huyện: Theo Luật Viên chức năm 2010 của
Quốc hội thì Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc
làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc,
hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật.
Cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã: Hưởng lương như viên chức làm
việc tại Trạm Y tế cấp xã, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Trưởng trạm Y tế xã,
chịu sự quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Trung tâm
DS-KHHGĐ huyện. Cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã có trách nhiệm
giúp việc cho Trưởng trạm Y tế xã xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện
CTMT DS-KHHGĐ trên địa bàn xã.
Cộng tác viên DS-KHHGĐ thôn: CTV DS-KHHGĐ thôn hoạt động
theo chế độ tự nguyện, có thù lao hàng tháng, chịu sự hướng dẫn về chuyên
môn, nghiệp vụ của Trạm y tế xã. Có trách nhiệm cùng cán bộ y tế thôn tuyên
truyền, vận động về DS-KHHGĐ, vệ sinh phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe
ban đầu.
Trong đề tài thực hiện nghiên cứu chất lượng đội ngũ cán bộ DSKHHGĐ trên tại huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh gồm: Viên chức DSKHHGĐ cấp huyện, cấp xã và CTV DS-KHHGĐ thôn. Xong trong quá trình
nghiên cứu, có phần tác giả xin được gọi chung là cán bộ DS-KHHGĐ.
1.2.1.5. Khái niệm chất lượng cán bộ dân số kế hoạch hóa gia đình


10

Chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ là: “tập hợp tất cả những đặc
điểm, thuộc tính của từng cán bộ DS-KHHGĐ phù hợp với cơ cấu, đáp ứng
được yêu cầu theo nhiệm vụ và chức năng của cơ quan, đơn vị, đồng thời là
tổng hợp những mối quan hệ giữa các cá nhân cán bộ DS-KHHGĐ với nhau;
sự phối kết hợp hoạt động trong thực thi nhiệm vụ chung nhằm đáp ứng yêu

cầu, mục tiêu chung một thời điểm nhất định của địa phương”.
Nói đến chất lượng từng cán bộ DS-KHHGĐ được biểu hiện cụ thể
thông qua tình trạng sức khỏe để làm việc; tiếp đến là chất lượng lao động,
khả năng triển khai, hoàn thành nhiệm vụ được giao; thái độ, tinh thần phục
vụ nhân dân trong thực thi công việc; trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm
chất đạo đức, chính trị; khả năng thích ứng với điều kiện cải cách hành chính
đang diễn ra ngày càng sâu rộng như hiện nay không chỉ ở Việt Nam mà còn
hội nhập quốc tế...Ngoài ra, chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã còn
được thể hiện ở mối quan hệ giữa cán bộ, công chức với nhau: sự phối kết
hợp trong công tác, triển khai nhằm hoàn thành nhiệm vụ; giúp đỡ, ủng hộ
nhau trong cả quá trình lao động.
1.2.2. Các chủ trương, chính sách nhà nước đối với công tác dân số kế
hoạch hóa gia đình
Trong giai đoạn hiện nay, khi mức sinh đã tiến gần mức sinh thay thế,
tập trung giải quyết toàn diện vấn đề dân số. Thông qua Quyết định số
147/2000/QĐ - TTg ngày 22/12/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010; Pháp lệnh Dân số
số 06/2003/PL - UBTVQH11 ngày 9/1/2003 của UBTVQH; Nghị quyết số 47
- NQ/TW ngày 22/3/2005 của BCT về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách
DS-KHHGĐ; Chỉ thị số 23/2008/CT - TTg ngày 4/8/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tiếp tục đẩy mạnh công tác DS-KHHGĐ; Pháp lệnh số
08/2008/UBTVQH12 của UBTV Quốc hội về sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh


11

Dân số; Nghị định số 20/2010/NĐ - CP ngày 8/3/2010 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số.
Mục tiêu là “Thực hiện gia đình ít con, khoẻ mạnh, tiến tới ổn định quy
mô dân số ở mức hợp lý để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; nâng cao chất

lượng dân số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao...” [26].
Năm 2011 Quốc hội thông qua CTMT Quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn
2012 - 2015; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2013/QĐ-TTg
ngày 14/11/2011 phê duyệt Chiến lược Dân số và SKSS Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020; Đề án can thiệp giảm thiểu tình trạng mất cân bằng GTKS giai
đoạn 2011 - 2020 đã được trình Chính phủ... (Trường Cao đẳng Y tế Hà
Đông, 2011).
Công tác quản lý dân số thực chất là điều tiết mức sinh thông qua các
hoạt động chương trình KHHGĐ để tạo ra quy mô, cơ cấu dân số ổn định phù
hợp với điều kiện địa lý, KT-XH của mỗi quốc gia; là cơ sở quan trọng nâng
cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ nhu cầu
phát triển của đất nước. Đồng thời thực hiện tốt công tác DS-KHHGĐ còn là
cơ sở thực hiện các chính sách xã hội như thực hiện công bằng xã hội, giải
quyết các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, giảm chi phí do hạn chế được
mức sinh, tăng tích luỹ cho xã hội, là nguồn lực đáng kể để đóng góp vào quá
trình phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư [31].
Pháp lệnh Dân số được UBTVQH ban hành năm 2003 đã quy định Nhà
nước điều chỉnh quy mô dân số phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội, tài
nguyên, môi trường thông qua các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã
hội, chăm sóc sức khoẻ sinh sản, kế hoạch hoá gia đình để điều chỉnh mức
sinh và ổn định quy mô dân số ở mức hợp lý.
Việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ ở nước ta đã có tác dụng trực tiếp
đối với việc phát triển kinh tế của đất nước, vì giảm được tỷ lệ gia tăng dân số


12

sẽ góp phần nâng cao mức tăng trưởng kinh tế. Vì vậy phải tiếp tục nâng cao
nhận thức tiến tới chuyển đổi hành vi của mỗi cặp vợ chồng thực hiện
KHHGĐ, xây dựng gia đình ít con khoẻ mạnh, có cuộc sống ấm no, bình

đẳng, tiến bộ, hạnh phúc tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để triển khai thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về công tác DS-KHHGĐ đến các tầng lớp nhân dân, nhất là các cặp vợ
chồng trong độ tuổi sinh đẻ, phải nói đến sự đóng góp tích cực của đội ngũ
cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ ở cơ sở. Mạng lưới này bao gồm cán bộ
chuyên trách và CTV DS-KHHGĐ có ở toàn bộ các thôn, xã, thị trấn trong
huyện. Họ luôn nhiệt tình, tích cực đi tuyên truyền, vận động, tư vấn trực tiếp
về DS-KHHGĐ, cung cấp bao cao su, thuốc uống tránh thai đến từng hộ gia
đình. Kiểm tra việc duy trì thực hiện các nội dung DS-KHHGĐ của các hộ gia
đình. Thực hiện chế độ ghi chép ban đầu, thu thập số liệu, lập báo cáo tháng
về DS-KHHGĐ theo quy định, lập các sơ đồ và biểu đồ, quản lý sổ hộ gia
đình về DS-KHHGĐ tại địa bàn quản lý [6].
Quan điểm của Đảng và Nhà nước là tuyên truyền, giáo dục, vận động
để người dân tự nguyện thực hiện KHHGĐ, coi đây là cuộc vận động lớn đối
với mọi người dân, mọi cá nhân, mọi tầng lớp xã hội trên phạm vi cả nước.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác
về DS-KHHGĐ được hình thành từ trung ương, tỉnh, huyện đến xã đã giúp
cho chính quyền các cấp có những số liệu tin cậy, cập nhật kịp thời về DSKHHGĐ, chăm sóc SKSS. Đồng thời thường xuyên đưa các thông tin tới
người dân, vận động họ có thái độ tích cực làm chuyển đổi nhận thức và hành
vi về DS-KHHGĐ. Chương trình dân số không thể đạt được những kết quả
trong những năm qua nếu như không có hoạt động truyền thông trực tiếp tới
từng gia đình của đội ngũ CTV DS-KHHGĐ [1].


13

Từ thực tế nghiên cứu cho thấy, cán bộ DS-KHHGĐ làm tốt công tác
truyền thông, giáo dục tuyên truyền về DS-KHHGĐ, công tác tuyên truyền,
vận động về dân số được đẩy mạnh, triển khai toàn diện, đồng bộ trên các

kênh truyền thông, mở rộng về phạm vi và đối tượng; nâng cao một bước về
chất lượng, đổi mới về cách làm đã có tác dụng nâng cao nhận thức và tạo sự
đồng thuận của toàn xã hội về dân số, làm tăng số người chấp nhận các dịch
vụ KHHGĐ. Các chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
về dân số được tuyên truyền kịp thời hơn, thường xuyên đăng tải các thông tin
về dân số, nêu gương người tốt, việc tốt, các điển hình tiên tiến và phê phán
yếu kém, các vi phạm về DS-KHHGĐ đã thu hút được sự chú ý và tạo được
dư luận xã hội quan tâm.
Vai trò của đội ngũ CTV DS-KHHGĐ không chỉ cung cấp cho đối
tượng những kiến thức cơ bản, cần thiết về DS-KHHGĐ mà còn theo dõi,
giúp đỡ các đối tượng chuyển đổi hành vi, lựa chọn và áp dụng một BPTT
phù hợp, đi khám và chữa trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, kỹ năng
phòng chống HIV/AIDS... Có thể thấy CTV DS-KHHGĐ thôn là người sinh
sống cùng địa bàn thôn, có quan hệ gần gũi với nhân dân nên có điều kiện để
tuyên truyền, vận động trực tiếp, góp phần quyết định vào việc chuyển đổi
hành vi DS-KHHGĐ của các nhóm đối tượng ở trong cộng đồng.
Như vậy, tổ chức đội ngũ cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ ở cơ sở là
một trong những thành tố quyết định sự thành công trong công tác DSKHHGĐ, là người đầu tiên ở gần dân nhất giúp cho mọi người và toàn xã hội
nhận thức rõ về công tác DS-KHHGĐ, quy mô mỗi gia đình sinh đủ 02 con
được chấp nhận rộng rãi, thực hiện mục tiêu giảm sinh, tiến tới ổn định quy
mô, cơ cấu dân số ở mức hợp lý, nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội...
1.2.3. Đặc điểm hoạt động của cán bộ dân số kế hoạch hóa gia đìnhcơ sở


14

Ngày 14/5/2008 Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 05/2008/TT-BYT
hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ ở địa
phương. Theo đó Trung tâm DS-KHHGĐ huyện là đơn vị sự nghiệp trực

thuộc Chi cục DS-KHHGĐ đặt tại huyện, có chức năng triển khai thực hiện
các nhiệm vụ chuyên môn kỹ thuật, truyền thông giáo dục về DS-KHHGĐ
trên địa bàn huyện. Biên chế tại Trung tâm huyện là các Viên chức dân số làm
việc theo Luật viên chức, quy chế làm việc của đơn vị và các quy định hiện
hành đối với viên chức[6].

Hình 1.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy công tác DS-KHHGĐ các cấp
Cán bộ chuyên trách DS-KHHGĐ xã làm việc hưởng lương như là viên
chức tại Trạm Y tế xã, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Trưởng trạm Y tế xã, chịu
sự quản lý, chỉ đạo, hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Trung tâm DSKHHGĐ huyện. CTV DS-KHHGĐ thôn, khu phố hoạt động theo chế độ tự


15

nguyện, có thù lao hàng tháng, chịu sự hướng dẫn về chuyên môn, nghiệp vụ
của Trạm Y tế xã (Bộ Y tế, 2008). Như vậy, đối với cấp huyện có đội ngũ cán
bộ, viên chức Dân số làm việc tại Trung tâm DS-KHHGĐ huyện. Đối với cấp
xã, mỗi xã được bố trí 01 người tại Trạm Y tế xã, làm việc chuyên trách về
DS-KHHGĐ và các CTV DS-KHHGĐ thôn.
Mặt khác, để có sự vào cuộc của lãnh đạo Đảng, chính quyền và sự
phối hợp chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể các cấp, nên cấp huyện có
thành lập Ban chỉ đạo (BCĐ) công tác DS-KHHGĐ cấp huyện, đồng chí Phó
Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng BCĐ, đồng chí Giám đốc Trung tâm DSKHHGĐ huyện là Phó Ban thường trực, các đồng chí lãnh đạo Phòng Y tế,
Trung tâm Y tế, Bệnh viện đa khoa, Ban Tuyên giáo huyện ủy, Phòng Tài
chính-Kế hoạch, Phòng Văn hóa-thông tin, Phòng Tư pháp, Đài Phát thanh và
các đoàn thể nhân dân huyện tham gia thành viên BCĐ. Đồng thời UBND
huyện chỉ đạo UBND các xã, thị trấn thành lập Ban DS-KHHGĐ xã để quản
lí, điều hành các hoạt động công tác DS-KHHGĐ trên địa bàn xã (Tổng cục
DS-KHHGĐ và Quỹ Dân số Liên hợp quốc, 2011).
Đội ngũ CTV DS-KHHGĐ được bố trí đến tận thôn, làng. Là người

tuyên truyền vận động, thu thập thông tin, số liệu, cung cấp phương tiện tránh
thai (PTTT) phi lâm sàng đến tận hộ gia đình. Là người gương mẫu thực hiện
KHHGĐ cho mọi người dân noi theo, đóng vai trò là lực lượng nòng cốt
trong việc thực hiện công tác DS-KHHGĐ. Đội ngũ CTV DS-KHHGĐ thôn
là cánh tay nối dài của cán bộ DS-KHHGĐ xã xuống tới các hộ gia đình. Đội
ngũ này chính là những người thực thi hiệu quả nhất công tác truyền thông
DS-KHHGĐ tới từng người dân [7].
Qua nghiên cứu thực tế cho thấy nếu tuyên truyền về DS-KHHGĐ trên
các phương tiện thông tin đại chúng thì người xem, người nghe chỉ nghe, nhìn
thấy vấn đề như vậy, họ không hiểu cách thực hiện như thế nào. Mặt khác, họ


16

không thể hỏi hay trao đổi về các vấn đề thắc mắc hay chưa rõ. Nhất là những
người có trình độ học vấn chưa cao, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Do đó,
các hoạt động truyền thông dân số, chăm sóc SKSS của mạng lưới CTV DSKHHGĐ cơ sở có vai trò vô cùng quan trọng trong việc cung cấp kiến thức cơ
bản, cần thiết cho những người dân lao động. Lợi thế của các CTV DSKHHGĐ là người sống ở cùng thôn, xóm, họ hiểu rõ nhu cầu, đặc điểm của
từng đối tượng để lựa chọn cách thức trao đổi, truyền đạt các nội dung về DSKHHGĐ như thế nào cho phù hợp. Hơn nữa, các CTV DS-KHHGĐ thường
có mối quan hệ hàng xóm gần gũi với các đối tượng, nên có thể dễ dàng tạo
được lòng tin đối với họ, do đó, đối tượng có thể trao đổi cởi mở, mạnh dạn
nêu lên những thắc mắc, khó khăn để CTV DS-KHHGĐ giải đáp, giúp đỡ.
Như vậy, có thể nói đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ ở cơ sở là một trong
những thành tố quyết định sự thành công trong công tác DS-KHHGĐ, là
nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu để thực hiện mục tiêu giảm sinh, tiến tới ổn
định quy mô, cơ cấu dân số ở mức hợp lý, nâng cao chất lượng dân số.
1.2.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ dân số kế hoạch hóa gia đình
1.2.4.1 Phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của người cán bộ
Phẩm chất chính trị là tiêu chí quan trọng nhất, là yêu cầu cơ bản nhất
quyết định đến chất lượng của mỗi cán bộ. Phẩm chất chính trị là động lực

tinh thần, là kim chỉ nam để định hướng và thúc đẩy cán bộ các cấp thực hiện
xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đó là nhiệt tình cách mạng, tuyệt đối trung
thành với lý tưởng của Đảng, tinh thần tận tuỵ với công việc, hết lòng hết sức
phục vụ nhân dân. Bản thân mỗi cán bộ phải có bản lĩnh chính trị vững vàng,
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, cương quyết đấu tranh
chống lại các biểu hiện lệch lạc mơ hồ, trái với đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước và kiên quyết đấu tranh chống lại các hành vi


17

xâm phạm quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân cũng như quyền và
lợi ích của quốc gia, dân tộc.
1.2.4.2. Trình độ lý luận chính trị
Trình độ lý luận chính trị là cơ sở xác định quan điểm, lập trường của
người cán bộ nói chung và cán bộ DS-KHHGĐ nói riêng. Thực tế cho thấy
nếu cán bộ có lập trường chính trị vững vàng, hoạt động vì mục tiêu, lý tưởng
cách mạng thì sẽ được nhân dân kính trọng, tin yêu và họ sẽ có sức thuyết
phục nhân dân trong quá trình tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện các
chủ chương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Ngược lại, nếu cán
bộ nào lập trường chính trị không vững vàng, lý luận chính trị non yếu, quan
điểm lệch lạc, hoạt động vì lợi ích cá nhân, thoái hoá biến chất sẽ mất lòng tin
ở nhân dân. Chính vì vậy cần phải nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng
cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm cá nhân để nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ DS-KHHGĐ.
1.2.4.3. Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ
- Trình độ học vấn: Học vấn không phải là yếu tố duy nhất quyết định
chất lượng và hiệu quả làm việc của cán bộ DS-KHHGĐ, nhưng nó là tiền đề,
là nền tảng cho việc nhận thức, tiếp thu và đưa đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Hạn chế về trình độ học vấn sẽ

dẫn đến hạn chế về khả năng nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện các chủ
trương, chính sách, các qui định của pháp luật, cản trở việc thực hiện chức
trách nhiệm vụ được giao. Vì vậy trình độ học vấn là tiêu chí quan trọng để
đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ DS-KHHGĐ cơ sở.
- Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ là
những kiến thức được đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực nhất định, được
biểu hiện qua những cấp độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học, sau đại học.
Đây là những kiến thức mà mỗi người cán bộ nói chung, cán bộ DS-KHHGĐ


18

nói riêng phải có ở một trình độ nhất định để giải quyết công việc theo chức
năng, nhiệm vụ được giao. Nếu thiếu kiến thức này hoặc làm việc không đúng
với chuyên môn được đào tạo, thì cán bộ sẽ lúng túng và chắc chắn sẽ khó
hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy nếu cán bộ làm việc chưa đúng với chuyên
ngành đào tạo, cần phải được bồi dưỡng để nâng cao trình độ chuyên môn,
đáp ứng được với yêu cầu và nhiệm vụ được giao.
- Trình độ ngoại ngữ, tin học, quản lý Nhà nước: Để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao, người cán bộ còn phải có trình độ về tin học, biết sử
dụng thành thạo các thiết bị tin học phục vụ công tác chuyên môn, đáp ứng
với tiêu chuẩn cán bộ thời kỳ CNH, HĐH hiện nay. Do vậy, nếu trình độ tin
học của cán bộ còn hạn chế cần phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ tin
học để giải quyết tốt công việc được giao.
Ngoài ra mỗi người cán bộ phải am hiểu sâu sắc về kiến thức quản lý,
biết ngoại ngữ và phải có kiến thức trong những lĩnh vực khác liên quan đến
chức trách, nhiệm vụ được giao và phải vận dụng linh hoạt các kiến thức đó
vào giải quyết những vụ việc cụ thể.
1.2.4.4. Kỹ năng giải quyết công việc
- Kỹ năng làm việc của cán bộ là khả năng vận dụng những kiến thức

thu nhận được qua học tập, tìm tòi qua kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực
hoạt động của mình để áp dụng vào thực tế công việc. Người có kỹ năng làm
việc sẽ giải quyết công việc một cách thành thạo, nhanh chóng, đầy đủ và
hiệu quả nhất. Thiếu kỹ năng làm việc, không hiểu quy trình làm việc thì dẫn
đến sự chậm trễ trong công việc, hay xảy ra tình trạng nhầm sót, sai lệch kết
quả thực hiện nhiệm vụ được giao.
1.2.4.5. Thâm niên và kinh nghiệm công tác
- Trong công tác DS-KHHGĐ bên cạnh những kỹ năng văn phòng và
kiến thức chuyên môn thì thâm niên và kinh nghiệm đóng một vai trò vô cùng


19

quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả đưa chủ trương, đường lối, chính
sách pháp luật về dân số vào thực tiễn cơ sở. Những cán bộ, cộng tác viên có
thâm niên và kinh nghiệm công tác lâu năm sẽ có hiểu biết sâu hơn về văn
hóa địa phương, dễ dàng tiếp cận và xây dựng lòng tin trong nhân dân địa
phương, thực tế đã chỉ ra rằng khi phát sinh các tình huống phức tạp, các điểm
nóng về dân số, các cán bộ, cộng tác viên có thâm niên và kinh nghiệm công
tác lâu năm thường đưa ra phương án xử lý hiệu quả hơn so với người mới
vào nghề. Tuy nhiên, cũng phải đánh giá một cách khách quan và công bằng
rằng thâm niên và kinh nghiệm công tác chỉ có ở một bộ phận những cán bộ,
cộng tác viên thực sự là những người đã từng gắn bó lâu dài với địa phương,
luôn trăn trở tìm hướng đi mới nhằm nâng cao chất lượng dân số nơi mình
công tác và sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm với thế hệ đội ngũ làm công tác DSKHHGD kế cận.
1.2.4.6. Lương tâm nghề nghiệp và động lực làm việc
Trong thực tế hiện nay, trước bối cảnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước gắn với nền công nghiệp 4.0 thì vấn đề “Lương tâm nghề nghiệp và
động lực làm việc” luôn gắn với nhu cầu ổn định kinh tế và môi trường phát
triển nghề nghiệp của từng cá nhân tham gia công tác DS-KHHGĐ.

Việc phân cấp nhiệm vụ rõ ràng từ cấp huyện xuống đến cấp cơ sở, tới
từng cá nhân gắn nhiệm vụ với quyền lợi là cách làm đang phát huy hiệu quả
hiện nay. Nhiệm vụ của các cấp quản lý là làm sao liên tục tìm kiếm, phát
hiện và tuyển dụng kịp thời những cán bộ, công chức, cộng tác viên thực sự
hiểu tầm quan trọng của công tác DS-KHHGĐ, đồng thời có chính sách đãi
ngộ kịp thời, tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng trong các cơ hội
phát triển nghề nghiệp, từ đó duy trì được lòng yêu nghề, thúc đẩy người lao
động rèn luyện, học tập, nâng cao trình độ và hiệu quả công tác.


20

1.2.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ dân số kế hoạch hóa
gia đình
1.2.5.1. Những nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ dân số kế
hoạch hóa gia đình
a. Sự quan tâm, chỉ đạo chính quyền các cấp
Lãnh đạo chính quyền các cấp tại một số cơ sở chưa thực sự quan tâm
chỉ đạo sát sao. Có nơi buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh, chỉ đạo đối với công
tác DS-KHHGĐ. Thậm chí có nơi cho rằng trách nhiệm chỉ đạo công tác DSKHHGĐ là của ngành dọc, không phải của chính quyền địa phương. Nguyên
nhân là do mô hình tổ chức chưa phù hợp, do lãnh đạo các cấp nhận thức
chưa đầy đủ về tính chất khó khăn, phức tạp và tầm quan trọng của công tác
DS-KHHGĐ đối với sự phát triển KT-XH của đất nước, của địa phương. Vì
vậy, công tác tham mưu của cán bộ DS-KHHGĐ với cấp ủy, chính quyền địa
phương gặp rất nhiều khó khăn, không hiệu quả nên chán nản, ngại khó, thụ
động thiếu trách nhiệm trong công việc.
b. Về chất lượng đội ngũ cán bộ dân số - kế hoạch hóa gia đình
Việc trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ,
công vụ và chuyên môn nghiệp vụ cho viên chức dân số là hết sức cần thiết,
nhằm xây dựng đội ngũ viên chức có đủ năng lực quản lý, giỏi chuyên môn

nghiệp vụ để thực hiện công tác DS-KHHGĐ. Đội ngũ cán bộ làm công tác
DS-KHHGĐ được đào tạo từ rất nhiều ngành khác nhau, nên trình độ chuyên
sâu còn hạn chế.
Trình độ chuyên môn của một số cán bộ DS-KHHGĐ xã công tác từ
năm 2008 trở về trước còn hạn chế, chưa đồng đều, chủ yếu là trình độ THPT,
sau đó học Trung cấp tại chức, từ xa với nhiều chuyên ngành khác nhau. Sau
khi được tuyển dụng, họ được cử đi bồi dưỡng nghiệp vụ DS-KHHGĐ cơ bản
trong thời gian 2 tháng, hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ DS-KHHGĐ đạt chuẩn


21

viên chức dân số, nhằm cung cấp kiến thức cơ bản nhất về DS-KHHGĐ, nên
việc tiếp cận với kiến thức và kỹ năng tuyên truyền để vận dụng vào quá trình
thực hiện nhiệm vụ gặp rất nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng công
việc. Kiến thức về DS-KHHGĐ là do đúc kết từ kinh nghiệm, tập huấn và lớp
chuẩn viên chức Dân số 2 tháng. Trình độ đào tạo của CTV DS-KHHGĐ thôn
hạn chế, trình độ học vấn Tiểu học và THCS còn cao. Có người hết tuổi lao
động hiện vẫn đang làm việc.
1.2.5.2. Những nhân tố khách quan ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ dân số kế hoạch hóa gia đình
a) Mô hình tổ chức bộ máy, cán bộ DS-KHHGĐ
Hệ thống tổ chức bộ máy công tác DS-KHHGĐ ở nước ta không ổn
định, thay đổi nhiều, từ năm 1989 đến nay đã ba lần thay đổi tổ chức bộ máy
làm công tác DS-KHHGĐ. Do thay đổi tổ chức bộ máy nhiều lần chức năng,
nhiệm vụ còn chồng chéo, chưa phù hợp với yêu cầu của công tác DSKHHGĐ hiện nay. Như vậy làm cho đội ngũ cán bộ làm công tác DSKHHGĐ chán nản, thiếu nhiệt tình, không yên tâm công tác, một số cán bộ có
trình độ năng lực và kinh nghiệm, không tâm huyết với nghề đã chuyển công
tác sang lĩnh vực khác. Gây ảnh hưởng rất lớn đến thực hiện công tác DSKHHGĐ ở cơ sở.
b) Về cơ chế chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ
Chế độ chính sách đối với cán bộ DS-KHHGĐ còn bất cập, chưa kịp
thời và chưa được quan tâm đúng mức như: Cán bộ DS-KHHGĐ ở một số

tỉnh chưa được tuyển dụng thành viên chức, nên chế độ được hưởng không
phải là lương mà là phụ cấp công việc. Phụ cấp chức vụ lãnh đạo cấp huyện,
phụ cấp ưu đãi nghề, chế độ thù lao đối với CTV DS-KHHGĐ thôn còn thấp
và chưa ổn định (mức phụ cấp bằng 0.15 mức lương cơ sở do ngân sách tỉnh
hỗ trợ). Với chế độ thấp như vậy, khó có thể khiến họ yên tâm công tác, lại


22

càng không có tác dụng động viên, khuyến khích họ nhiệt tình, gắn bó lâu dài,
tâm huyết với công việc.
Chế độ khuyến khích, thi đua khen thưởng cho cán bộ, cho tập thể, cá
nhân đạt được nhiều thành tích cũng như có sự cống hiến cho công tác DSKHHGĐ chưa được quan tâm đúng mức.
1.3. Kinh nghiệm thực hiện chính sách dân số ở một số quận, huyện
1.3.1. Tại quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Trung tâm DS-KHHGĐ quận đã tổ chức thành công nhiều Chiến dịch
tăng cường tuyên truyền vận động lồng ghép dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh
sản (CSSKSS) - KHHGĐ. Hiệu quả trong công tác phối hợp giữa TTYT
quận, Bệnh viện đa khoa Medlatec và UBND các phường trong chiến dịch đã
kịp thời cung cấp dịch vụ chất lượng cao về tư vấn, CSSKSS/KHHGĐ và các
xét nghiệm sàng lọc ung thư sớm. Các trường hợp phát hiện bệnh đều được tư
vấn, hướng dẫn và kê đơn điều trị. Đồng thời đã cung cấp các tài liệu
CSSKSS - KHHGĐ, nâng cao chất lượng dân số trong các buổi truyền thông,
sinh hoạt câu lạc bộ, các mô hình CSSKSS vị thành niên, phụ nữ quanh tuổi
mãn kinh, CSSK người cao tuổi; tư vấn khám sức khỏe tiền hôn nhân...; thực
hiện tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai.
Trung tâm DS-KHHGĐ quận cũng đã tổ chức có hiệu quả các hoạt
động truyền thông, giao lưu của 6 mô hình nâng cao chất lượng dân số tại 9
phường với 28 buổi truyền thông thu hút 2.120 người tham dự; 18 cuộc giao
lưu, sinh hoạt câu lạc bộ thu hút gần 1.142 người tham dự. Các mô hình như

mô hình CSSK người cao tuổi tại phường Khương Trung, Khương Đình; mô
hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân tại phường Nhân Chính, Phương
Liệt, Kim Giang; mô hình CSSKSS phụ nữ tuổi mãn kinh tại phường Thanh
Xuân Bắc; mô hình CSSKSS cho vị thành niên, thanh niên tại phường Thanh
Xuân Nam; mô hình CSSK cho nam giới tại phường Thượng Đình; mô hình


23

can thiệp truyền thông về CSSKSS - KHHGĐ tới vùng di dân tự do tại
phường Hạ Đình.
Nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ chuyên môn về công tác DS KHHGĐ, Trung tâm DS - KHHGĐ quận đã phối hợp với Trung tâm Bồi
dưỡng chính trị quận tổ chức 2 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác DS - KHHGĐ
cho 333 cộng tác viên kỹ năng truyền thông; Trung tâm DS - KHHGĐ quận
tổ chức 11 lớp tập huấn nghiệp vụ theo chuyên đề cho 767 lượt cán bộ làm
công tác dân số quận, phường và cộng tác viên dân số.
Bên cạnh đó, Trung tâm DS - KHHGĐ quận còn chú trọng công tác
tuyên truyền, thay đổi hành vi của người dân trên địa bàn thông qua các hình
thức truyền thông đa dạng, phong phú với các nội dung về CSSKSS cho phụ
nữ quanh tuổi mãn kinh; nam giới; vị thành niên, thanh niên và cha, mẹ có
con trong độ tuổi vị thành niên, thanh niên; chính sách dân số; tư vấn khám
sức khỏe tiền hôn nhân; phòng chống béo phì cho trẻ em; CSSK người cao
tuổi; sàng lọc trước sinh, sơ sinh; mất cân bằng giới tính khi sinh...
Đồng thời, thực hiện kế hoạch của UBND quận Thanh Xuân về triển
khai Đề án “Tầm soát, phát hiện sớm một số tật, bệnh bẩm sinh thông qua
sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh năm 2017”, Trung tâm DSKHHGĐ quận đã phối hợp cùng các đơn vị liên quan tổ chức 2 buổi truyền
thông tư vấn khám sàng lọc khiếm thính.Tổ chức 6 cuộc truyền thông tư vấn
sức khỏe tiền hôn nhân cho 975 người tham dự và 16 buổi truyền thông về
sàng lọc trước sinh, sơ sinh cho hơn 1.880 đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ, bà
mẹ mang thai và các cặp vợ chồng đang dự định sinh con.

Trung tâm cũng đã phối hợp với Bệnh viện Nhi Trung ương, TTYT
quận tổ chức khám sàng lọc khiếm thính cho 3.890 trẻ 3 tuổi tại các trường
mầm non trên địa bàn, phát hiện 51 trẻ có biểu hiện nghi ngờ nghe kém


24

(chiếm 1,31%); đối với các trường hợp nghi ngờ nghe kém, trung tâm đã tư
vấn cho gia đình đưa trẻ đi khám chuyên sâu tại bệnh viện chuyên ngành.
1.3.2. Tại huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương
Huyện Bình Giang luôn quan tâm nâng cao năng lực đội ngũ làm công
tác DS - KHHGĐ. Toàn huyện có trên 285 cộng tác viên DS - KHHGĐ đã
được tập huấn kiến thức, kỹ năng trong công tác tuyên truyền, vận động đối
tượng thực hiện áp dụng các biện pháp tránh thai, sinh đẻ có kế hoạch. Nhờ
vậy, các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai đạt
tỷ lệ cao. Cụ thể, 9 tháng đầu năm, toàn huyện có 6.467 người thực hiện các
biện pháp tránh thai, đạt 101% kế hoạch, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2016.
Trong đó, đặt dụng cụ tử cung 2.000 người, triệt sản 14 người, thuốc tiêm
tránh thai 180 người, thuốc cấy tránh thai 8 người, thuốc uống tránh thai
1.750 người và 2.513 người sử dụng bao cao su. Một số xã, thị trấn công tác
tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai được triển khai bài bản và thực hiện tốt.
Nhằm triển khai thực hiện tốt công tác DS - KHHGĐ, Trung tâm DS KHHGĐ huyện luôn bám sát Chỉ thị, Nghị quyết của Huyện uỷ, chủ động
tham mưu cho UBND huyện ban hành các văn bản để thực hiện các nhiệm vụ
trọng tâm. UBND huyện tổ chức phát động chiến dịch lồng ghép truyền thông
với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản - KHHGĐ đợt I/2017 và
giao chỉ tiêu công tác DS - KHHGĐ đến các xã, thị trấn. Triển khai nhiều mô
hình, đề án hiệu quả như mô hình nâng cao chất lượng dân số; tư vấn sức
khỏe sinh sản tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh và sơ sinh; can thiệp giảm
thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh…
Để công tác dân số đạt hiệu quả cao, huyện đã đẩy mạnh công tác tuyền

thông bằng nhiều hình thức như trên hệ thống đài truyền thanh của các xã, thị
trấn; treo pa nô, khẩu hiệu; phát các tờ gấp, tờ rơi có nội dung về chính sách
dân số; giảm sinh, giảm sinh con thứ 3 trở lên và mất cân bằng giới tính khi


25

sinh; sàng lọc khiếm thính ở trẻ em; chăm sóc sức khỏe sinh sản - KHHGĐ,
hướng dẫn các biện pháp tránh thai an toàn...
1.3.3. Tại huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh
Hiện nay, huyện Thuận Thành có dân số trên 17,3 vạn người, dân trí
khá cao, mức thu nhập bình quân đầu người trên 36 triệu đồng/người/ năm, có
nhiều làng nghề truyền thống nên đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện
và nâng cao. Theo đó đến nay, số cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ đang sử
dụng biện pháp tránh thai là 24.392/31.948 người, đạt 76.3 %; tỷ lệ tăng dân
số tự nhiên là 0,4%; tỷ suất sinh đạt 6,6, giảm 0,25 %o so với năm 2016; tỷ
suất sinh con thứ 3 là 12,5%, giảm 0,1% so với năm 2016; tỷ lệ giới tính khi
sinh 115 bé trai/100 bé gái. Các hoạt động chăm sóc SKSS/KHHGĐ cũng
được triển khai thực hiện hiệu quả. Công tác truyền thông, giáo dục, vận động
thay đổi hành vi được đẩy mạnh về số lượng và chất lượng đã góp phần làm
chuyển biến nhận thức và hành vi của cán bộ, đảng viên, hội viên và các tầng
lớp nhân dân về thực hiện chính sách Dân số-KHHGĐ; các chế độ, chính sách
đối với người thực hiện tốt công tác được thực hiện đầy đủ. Đội ngũ cán bộ
làm công tác Dân số-KHHGĐ từ huyện đến cơ sở kịp thời được bổ sung, kiện
toàn đảm bảo về số lượng và nâng cao về chất lượng. Để có được những kết
quả tích cực trong công tác Dân số-KHHGĐ trên địa bàn huyện phải kể đến
sự vào cuộc quyết tâm, công tác lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của các cấp ủy
đảng, chính quyền từ huyện đến các xã, thị trấn và sự đồng thuận của nhân
dân. Trên cơ sở đó, Trung tâm Dân số-KHHGĐ huyện đã xây dựng kế hoạch,
hướng dẫn triển khai tổ chức thực hiện có hiệu quả các dự án, mô hình của

Chương trình mục tiêu quốc gia. Đồng thời, thực hiện thường xuyên, nghiêm
túc, có trọng tâm, trọng điểm việc kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện tại
các xã, thị trấn; các thành viên Ban chỉ đạo đã thực hiện lồng ghép vào
chương trình công tác của đơn vị, của ngành; đồng thời đưa tiêu chí thực hiện


×