Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Cặp phạm trù cái chung cái riêng. áp dụng vào sự phát triển nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (73.02 KB, 10 trang )

1.

Lý do chọn đề tài

Chiến lược phát triển kinh tế là nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Việt Nam cũng vậy việc nghiên cứu xây dựng phát
triển nền kinh tế là vấn đề rất quan trọng chúng ta đang trong thời kỳ quá độ
lên CNXH cho nên việc đi sâu tìm hiểu nền kinh tế đã được Đảng và Nhà
nước tiến hành triệt để, nghiêm túc đã đưa nước ta từ nghèo nàn, lạc hậu phát
triển như ngày nay.
Nước ta còn là một nước nông nghiệp lạc hậu do phải gánh chịu hậu
quả của chiến tranh để lại. Với những dư âm của xã hội phong kiến, nền kinh
tế quan liêu bao cấp, nên để khắc phục khó khăn này đưa Việt Nam thoát khỏi
khủng hoảng, ổn định nền kinh tế xã hội tạo điều kiện vững chắc cho đất
nước phát triển thì Đảng và Nhà nước đã sáng suốt lựa chọn mô hình kinh tế
thị trường, định hướng XHCN làm kim chỉ nam cho chiến lược phát triển
kinh tế của nước ta.
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy đường lối
phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình
chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường,
hoạt động theo quy luật khách quan của nó.
Hoà chung nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước
thách thức mới với nhiều thuận lợi và khó khăn đòi hỏi chúng ta phải lựa
chọn đúng đắn con đường phát triển kinh tế.
Theo quan điểm của các nhà triết học, kinh tế học để thu được kết quả
tốt phải ứng dụng nền kinh tế thị trường vào thực tiễn đúng hướng, thích hợp
với môi trường của mỗi quốc gia và những điều kiện khách quan chủ quan.
Nền kinh tế Việt Nam là bộ phận của nền kinh tế thế giới vì vậy phải có sự
quản lý đúng đắn của Nhà nước để phấn đấu xây dựng một nền kinh tế phát
triển vì một xã hội nhân văn. Vì vậy em đã chọn đề tài: "Vận dụng nghiên cưú
mối quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù cái riêng – cái chung phân tích




vấn đề tài chính của công ty cổ phần ở nước ta hiện nay?" với mong muốn
được tìm hiểu nhiều hơn về nền kinh tế Việt Nam
2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích của đề tài

Tìm hiểu cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu, từ đó liên hệ với mối quan hệ
biện chứng giữa cặp phạm trù cái riêng – cái chung phan tích vấn đề tài chính của
công ty cổ phần nước ta hiện nay
2.2 Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
- Đánh giá khái quát thực trạng, chỉ ra nguyên nhân và kết quả
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu :
- Các sinh viên trong các trường đại học , cao đẳng trung cấp ,….
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau : “Vận dụng nghiên cưú mối
quan hệ biện chứng giữa cặp phạm trù cái riêng – cái chung phân tích vấn đề tài
chính của công ty cổ phần ở nước ta hiện nay?”
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cùng với các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu và trình bày luận án, tác giả sử dụng phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; đồng thời vận dụng quan điểm khách quan,
quan điểm toàn diện, quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm thực

tiễn.
5. Những đóng góp mới của đề tài
5.1 . Về ý luận
5.2. Về thực tiễn
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy đường lối
phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình
chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường,


hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Đặc biệt , các công ty nước ta hiện nay
nói riêng ngày càng phải trau dồi thêm cho mình những kiến thức, kinh nghiệm để
đưa công ty mình phát triển, vững mạnh thêm nữa. Hơn thế nước ta còn là một
nước lạc hậu, kém phát triển hơn so với các quốc gia khác. Vì vậy chúng ta phải
học tập thêm kinh nghiệm , học tập cách làm việc của các quốc gia khác, điển hình
là một số nước đang thuộc top các nước phát triển sau : Mỹ, Singapo, Trung quốc,
….
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu gồm : 04 chương , 10 tiết
NỘI DUNG
I/ CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG-CÁI CHUNG LÀ PHẠM TRÙ CƠ BẢN
CỦA TRIẾT HỌC
1/ Định nghĩa cái chung – cái riêng
1. 1. Định nghĩa cái riêng
- Cái riêng là phạm trù triết họcdùng để chỉ một sự vật một hiện tượng, một
quá trình riềng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một hiên
tượng kinh tế, một giai đoạn xã hội, một con người vv…
1. 2. Định nghĩa cái chung
- Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt những thuộc tính,
những mối liên hệ tồn tại không chỉ ở một sự vật mà trong nhiều sự vật hiện
tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mac-xít về vật chất, vân đong,

không gian, thời gian vv…
2. Mối quan hệ biên chứng giữa cái riêng-cái chung
2. 1. Quan điểm của một số nhà triết học về mối quan hệ giữa cái chungcái riêng
- Trong lịch sử triết học tồn tại hai quan điể trái ngược nhau về mối quan hệ
giữa cái riêng và cái chung của phái duy thực và phaí duy danh.
Phái duy thực: Cho rằng, chỉ có cái chung mới tồn tại khách quan, độc lập
với ý thức con người, không phụ thuộc vào cái riêng, sinh ra cái riêng.


Phái duy danh: Cho rằng, chỉ cái riêng mới tồn tại khách quan, cái chung
chỉ là những từ trống rỗng, do tư tưởng của con người sáng tạo ra.
2. 2. Triết học Mác khẳng định
- Cả cái riêng và cái chung đều tồn tại khách quan, giữa chúng có mối quan
hệ biện chứng hữu cơ với nhau.
Thứ nhất: Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà
biểu hiện sự rồn tại của mình. Tức là cái chung không tồn tại thuần tuý bên
ngoài cái riêng, mà nó phải thông qua cái riêng
Thứ hai: Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung. Tức là
không có cái riêng nào tồn tại độc lập, mà cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ
dẫn tới cái chung.
Như vậy sự vật hiện tượng nào cũng có hai mặt là cái riêng và cái chung,
hai mặt này đều tồn tại khách quan. Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái
chung. Còn cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Cái
riêng phong phú hơn cái chung bởi ngoài những cái ra nhập với cái chung, nó
còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới có. Cái chung là cái sâu sắc
hơn cái riêng, bởi vì nó phản ánh những mặt những thuộc tính, những mối liên
hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại. Vì
vậy cái chung là cái gắn liền với bản chất, quy định phương hướng tồn tại và
phát triển của sự vật.
Nêu lên mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, Lênin viết “…Cái riêng

chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái
riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái
chung nào cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chấy của cái riêng.
Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao quát một cách đại khái tất cả mọi mặt riêng
lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không tham gia đầy đủ vào cái chung…Bất cứ cái
riêng nào cũng thông qua hàng ngàn sự chuyển hoá mà liên hệ với những cái


riêng thuộc loại khác ( Sự vật, hiện tượng, quá trình )
Đó là những quan hệ giữa cái riêng và cái chung về mặt phương pháp luận
theo các quan điểm của cacs trường phái triết học. Và theo quan điểm hiện nay
thì quan điểm triết học Mác-Lênin là cơ sở, là tiền đề, phương pháp luân của
triết học.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau nên khi khi vận
dụng vào giải quyết vấn đề lợi ích của con người phải chú ý đến cả cái riêng và
cái chung ( lợi ích chung, riêng ). Nếu như chỉ chú ý đến lợi ích chung mà không
quan tâm đến lợi ích riêng thì phá vỡ sự tồn tại của tập thể, ngược lại chỉ thấy
được lợi ích của cái riêng sẽ dẫn đến cá nhân ích kỉ, tách ra khỏi tập thể.
Cái chung chỉ là một bộ phận của cái riêng nên khi ứng dụng bất kì một cái
chung nào cần phải được cá biệt hoá vào những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.
Cái chung chỉ tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Vì vậy muốn phát
hiện cái chung cần phải thông qua nhiều cái riêng.
Tuyệt đối hoá cái chung sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều, kinh viện.
Tuyệt đối hoá cái riêng sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm.
II/ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG (KTTT)
1. Khái quát chung về kinh tế thị trường
- KTTT xuất hiện sớm từ các nước TBCN và nhanh chóng đưa nền kinh tế
các nước này phát triển một cách mạnh mẽ.
KTTT trong CNTB tạo ra sự bóc lột của đồng tiền. Điều này dẫn đến nền

KTTT đi ngược lại tiến bộ xã hội, phản nhân đạo. KTTT đi sâu, xâm nhập vào
từng quóc gia, đưa các nước đó phá triển và dẫn tới sự phát triển đồng bộ nền
KTTT trên toàn thế giới.
Ở Việt Nam KTTT được hình thành và phát triển từ sau đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI ( 1986 ) được phát triển theo định hướng XHCN.


Kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Cho nên chúng
có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
2. Khái niệm về KTTT
- KTTT là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Mà phát triển nền KTTT là điều kện tất yếu để có sự đồng nhất hoá toàn
cầu. Để có sự lớn mạnh chung của thế giới, để đưa nền kinh tế của mỗi quốc gia
tiến bộ và hoà nhập vào nền kinh tế thế giới, là cầu nối hữu hình giữa nền kinh
tế các quốc gia. Nền KTTT đã phát triển lâu nay, mầm mống của nó tồn tại ngay
trong nền kinh tế hàng hoá. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là phát triển
KTTT.
III. VẬN DỤNG CẶP PHẠM TRÙ CÁI RIÊNG CÁI CHUNG VÀO VIỆC
XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
-Việt Nam là một quốc gia đang phát triển. Với nền kinh tế còn non yếu
Đảng và nhà nước đã quyết định xu hướng phát triển nền KTTT nhưng theo
định hướng XHCN.
1. Đặc trưng chung của nền KTTT
- Do KTTT là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá và mọi yếu tố của
sản xuất đều được thị trường hoá cho nên KTTT có những đặc trưng chủ yếu
sau:
Một là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự
bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh
của mình, tự do liên kết, tự do liên doanh theo luật định. Kinh tế hàng hoá không
bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng

động.
Hai là, hàng hoá trên thị trường rất phong phú phản ánh trình độ cao của
năng suất lao động, trình độ phân công lao động xã hội, sự phát triển của sản
xuất và thị trường.


Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu tác động của
quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ.
Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của KTTT, có nhiều hình thức phong phú
vì mục tiêu lợi nhuận.
Năm là, KTTT là hệ thống kinh tế mở.
Trong nền KTTT thì mọi chủ thể tự quyền quyết định hành động của mình,
quyết định hành động của mình, quyết định mặt hàng sản xuất và tiêu chí sản
phẩm mình đặt ra …Dưới sự quản lí của các luật kinh tế, luật kinh doanh. Chính
vì đó các sản phẩm trên thị trường vô cùng phong phú, nó đánh giá về trình độ
sản xuất ngày càng cao, các sản phẩm bán ra có giá cả không ổn định tuỳ thuộc
vào cung cầu. Nền KTTT là một môi trường sản xuất kinh doanh có sự cạnh
tranh gay gắt của các chủ thể…Cạnh tranh và đào thải một cách có chọn lọc
được điều tiết bởi bàn tay vô hình. Nền KTTT thâm nhập vào mỗi quốc gia đưa
nền kinh tế riêng biệt hoà đồng vào nền kinh tế toàn cầu. Có thể nói KTTT là
một nền kinh tế mở.
Chính vì nhũng đặc trưng này, để ứng dụng vào nền KTTT, đưa nền kinh tế
trở nên vững mạnh, phát triển thì phải hiểu sâu sắc các đặc trưng của nó-cái
chung và vận dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng cho hợp lí. Cái
chung của nền KTTT và cái riêng là nền kinh tế nước nhà phải định hướng theo
XHCN đối với nước Việt Nam chúng ta
3.

Bản chất của nền KTTT định hướng XHCN


Bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là kiểu tổ chức kinh tế
pahnr ánh sự kết hợp giưuã cái chung là KTTT với cái đặc thù là định hướng
XHCN dựa trên nguyên tắc lấy cái đặc thù – định hướng XHCN làm chủ đạo.
Với định nghĩa nói trên cho thấy nổi nên ba khía cạnh chủ yếu :
Thứ nhất : Với tư cách là cái chung –KTTT dòi hỏi trong quá trình kết hợp
phải tạo lập và vận động các yếu tố :
a)

Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế để nền
kinh tế có tự do hóa kinh tế ( tự do cạnh tranh , tự do kinh doanh và tự chủ )


b)
c)
d)

Các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hóa, tiền tệ , thị trường ,
cạnh tranh , cung cầu , gía trị thị trường, giá cả thị trường và ơi nhuận
Các quy luật kinh tế cua KTTT ( Quy luật giá trị quy luật giá trị , quy luật
lưu thông tiền tệ , quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu
Cơ chế vận hành nền KTTT- cớ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước

Thứ hai: Với tư cách là cái đặc thì – đinhj hướng XHCN – trong quá trình kết
hợp đòi hỏi phải tuân thủ theo các mục tiêu các đặc truưng cảu CNXH mà
nươcs cần xây dựng . Định hướng XHCN ở nước ta là một sự lựa chọn tất yêu ,
một khái niệm khoa học. Tuy vậy vẫn có một số cách hiểu khác nhau, thậm chí
không phải không có tư tưởng hoài nghi về tính hiện của định hướng XHCN mà
Đảng, nhà nước và nhân dân ta đã chọn.
Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa cái chung-KTTT với cái đặc thù - định hướng
XHCN , không thể lấy KTTT làm chủ đạo . Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối

quân hệ kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù , vì chúng ta không chủ trương
xây dựng mô hình KTTT bất kì , trừu tượng , càng kông chủ trương xây dựng
mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa , mà chủ trương xây dựng mô hình KTTT định
hươngs XHCN làm chủ đạo
Vấn đề ta cần xét ở đây là mối quan hệ giưuã cái chung và cái riêng diễn ra
nhưu thé nào? Theo quan điẻm của Mác – Lênin : thì cái chung và cái riêng tồn
tại khách quan và chúng có mối liên hệ hữu cơ với nhau.
Cái chung chỉ tông tại trong cái riêng , thông qua cái riêng mà biểu hiện sự
tồn tại của mình . Ở ây cái chung là nền KTTT trong xu hướng , đạc điểm phát
hiện chung là nền kinh tế mở nhưung nó được đưa vào ứng dụng tại môi trường
và hoàn cảnh Việt nam chúng ta thì nó tồn tại trong nền kinh té nưocs nhà đi
theo định hướng XHCN . Thông qua môi trường hoàn cảnh xu hướng của nền
kinh tế nước ta theo định hướng XHCN thì ngoài nhưngx đặc điểm chung nó
còn mang những đặc thù riêng mà chỉ thông qua cái đặc thù riêng đó nó biêur
hiện sự tồn tại thích nghi của mình .
Cái riêng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái chung : tức là không có cái
riêng tồn tại độc lập, mà chỉ tồn tại trong mối quan hêj với cái chung . Nền
KTTT được ứng dụng vào nước ta theo định hướng XHCN nó trở thành KTTT
với những cái đặc thù mới. Nó hào nhập , tồn tại và thể hiện trong nền KTTT
thế giới
Điều cần đưa ra ở đây là cái chung và cái riêng luôn có quan hêj hữu cơ ứoi
nhau. Chúng luôn xen lẫn và ảnh hưởng lại lẫn nhau
4.

KTTT định hướng XHCN


KTTT định hướng XHCN là một kiểu tỏ chức một kiểu vận hành kinh tế mà
một mặt tuân theo những qui luật của KTTT mặt khác , dựa trên cơ sở bản
chát của và nguyên tắc của CNXH

Từ kiểu tổ chức kinh tế đến kiểu vận hành kinh tế no đều có nhưungx
đặc trưng riêng . Nền KTTT à giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng
hóa. Túc là với phạm trù nền KTTT ở đây nói lên : là một nền kinh tế tự do ,
tự chủ . Mọi thành viên tham gia đều có quyền tự quyêt . Đây là môi trường
đấu tranh gay gắt . Các chủ thể kinh tế uôn có những phương châm kế hoạch
để vượt lên nhau, thậm chí cả thủ đoạn để loại bỏ nhau. Nền kinh tế này nó
mang đậm phong cách tu bản chủ nghĩa . Đó là nhưungx đặc điểm chung
của KTTT. Nhưng khi nền KTTT được ứng dụng tại Việt Nam chúng ta thì
nó bị biên đổi chuyển hóa dần theo hướng mà Đảng và nhân dân đề ra Đó là
một nền KTTT hoàn toàn mới – nênf KTTT định hướng XHCN
III. THỰC TRẠNG VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG KINH TẾ Ở VIỆT
NAM
1. Thực trạng và quá trình xay dựng KTTT theo định hướng XHCN ở
Việt Nam
Giai đoạn trước năm 1986
Giai đoạn này nền kinh tế Việt Nam còn nặng về qun liêu bao cấp. Quản
lí theo phương thức bảo thủ trì trệ, tàn dư của xã hội cũ rất nhiều . Toàn
bộ dân tộc vừa thống nhất đi lên XHCN (1975) . Hậu quả của chiến tranh
nặng nề thiệt hại về cả vạt chất lẫn tinh thần. Nền kinh tế Việt Nam đi lên
từ hai bàn tay trắng, từ hoang tàn đổ nát, bắt đầu xây dựng cơ sở hạ tầng.
Nền ngân sách thì eo hẹp, công nghệ thấp kém, quản lí trì trệ. Có cahưng
thì trong nền kinh tế nước nahf mới chỉ có những mầm mống tự phát sơ
nguyên của KTTT
Giai đoạn từ năm 1986 đến 1991
Tại đại hội VI Đảng và nhà nước quyết định Nhà nước Việt Nam là
nhà nước đang phát triển , đang trong thời kì quá độ đi lên XHCN . Để
khắc phục ênnf kinh tế nghèo nàn lạc hậu thì buộc phải phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần nền KTTT. Tự vận động, cạnh tranh và điều tiết
theo quy luật của KTTT với sự định hướng và quản lí vĩ mô của nhà
nước

Ở giai đoạn này là giai đoạn mở ra một kỉ nguyên mói kỉ nguyên của
KTTT. Cớ cấu quản lí thay đổi hoàn toàn




×