Tải bản đầy đủ (.pptx) (15 trang)

GIÁO ÁN NGỮ VĂN 8 HỌC KÌ II HỊCH TƯỚNG sĩ TRẦN QUỐC TUẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 15 trang )

Hòch

töôùng só
Traàn Quoác Tuaán


Taực giaỷ:
Tran

Tuaỏn

Quoỏc
Trn Quc Tun


(1232-1300) hiu Hng
o , l con An sinh
vng Trn Liu, chỏu gi
Trn Thỏi Tụng bng chỳ,
ngi hng Tc Mc,
ph Thiờn Trng, c
phong p hng Vn
Kip, thuc huyn Chớ Linh,
chõu Nam sỏch, l Lng


Theo truyền thuyết, từ nhỏ Trần Quốc Tuấn

đã ham thích trò chơi đánh trận, sáu tuổi
biết làm thơ. Lớn lên, học vấn rất uyên bác,
vừa giỏi văn chương vừa hiểu thấu lục thao
tam lược, cưỡi ngựa, bắn cung đều thành
thạo.

Là một vị tướng tài,Trần Hưng Đạo đã biết đề ra
một đường lối quân sự ưu việt, có tính chất nhân
dân, mà tiêu biểu là hai cuộc rút lui chiến lược
khỏi Kinh thành Thăng Long, tránh cho nhà Trần
những tổn thất lớn, và những trận phục kích
lừng danh như trận Bạch Đằng đã làm cho tên

tuổi của ông sống mãi. Ngay đến kẻ thù cũng
phải nhắc đến mấy chữ Hưng đạo vương với

Năm 1257, quân Nguyên sang xâm lược
nước ta lần đầu, ông được cử cầm quân
giữ biên thuỳ phía Bắc. Ba chục năm sau,
trong hai cuộc kháng chiến chông
Nguyên Mông lần thứ hai (1285) và lần
thứ ba (1287-88), ông lại được đề bạt
làm tiết chế thông lĩnh toàn quân và đã
giành thắng lợi lẫy lừng.



Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần
Quốc Tuấn có soạn Binh gia diệu lý
yếu lược (còn gọi là Binh thư yếu
lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền
thư, nhưng văn bản nay đều đã gần
như thất lạc. Tác phẩm thứ ba duy
nhất còn giữ được của ông là bài Dụ
chư tỳ tướng hịch văn, vẫn quen
gọi là Hịch tướng sĩ



Taùc
phaåm


- Tên chữ Hán là “Dụ chư tì tướng hịch văn”.
- Ra đời trước cuộc kháng chiến chống Mông Nguyên lần thứ hai (1285).
- Nội dung khích lệ tướng sĩ học tập cuốn Binh thư
yếu lược.
- Thể loại: Hịch


Hịch là thể văn nghị luận cổ thường được vua chúa, tướng

lĩnh dùng để cổ động, thuyết phục, hoặc kêu gọi đấu tranh
chống thù trong giặc ngoài
+ Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lí lẽ sắc bén, có dẫn chứng
thuyết phục
+ Khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe
+ Thường được viết theo thể văn biền ngẫu
+ Một bài hịch thường gồm 4 phần: Phần đầu nêu vấn đề;
phần thứ hai nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách để gây
lòng tin tưởng; phần ba nhận định tình hình, phân tích phải
trái để gây lòng căm thù giặc; phần cuối nêu chủ trương cụ
thể và lời kêu gọi chiến đấu.



• Bài hịch được chia làm 4 phần:
• - Đoạn 1 (từ đầu đến "còn lưu tiếng tốt"): Nêu
gương sáng trong sử sách
• - Đoạn 2 (từ "Huống chi" đến "cũng vui lòng"): Tố
cáo tội ác của giặc và tâm sự của tác giả.
• - Đoạn 3 (từ "Các ngươi" đến "không muốn vui vẻ
phỏng có được không?"): Phân tích phải trái - làm
rõ đúng sai.
• - Đoạn 4 (đoạn còn lại): Nhiệm vụ cấp bách cần
làm.



âu gương các

trung thần,nghóa s

ó người làm tướng

ó người làm gia thần

ù người làm quan nhỏ
 Nêu gương sử
sách từ phạm vi

rộng đến hẹp(vuatôi, chủ- tướng)từ
xa đến gần (thời
Xuân thu chiến

Kỉ Tín
Dự
Thân
Nhượng
Khoái
đem
mình
nuốt


- Lấy
đạo
thần
chết
than
bắt
giam
báo
thay
thù
cho tự

Cao
cho
chủ
(là
lẽ đã
sống
Đế
chủ
chặt
mình
của
contay

nhà
võtỏ
- lòng
Do Vức
Kính
trung
chìakhích
phò
lưng
thành
chòu
tướng)

để
lệ
giáo
Thái
rồi
Tông
cho Chiêu
theo
thoát
chủ
binh
sóchết

Vương vây
vòng
- Vương Công Kiên
giữ thành Điếu
Ngư chống quân
Mông Kha
- Cốt Đãi Ngột


o tội ác của giặc và bày tỏ nỗi lòng chủ tư
Tố cáo giặc:
- Sứ đi lại nghênh

ngang,uốn lưỡi cú
diều sỉ mắng
triều đình, đem
thân dê chó bắt
nạt tể phụ
- Đòi
ngọcluận
lụa, thu
 Lập
chặt
bạc
vàng,

vét của
chẽ,
sắc bén;
kết
kho hợp nhiều biện
pháp tu từ; giọng
điệu vừa thiết tha

Nỗi lòng chủ tướng:
“Ta thường tới bữa
quên ăn, nửa đêm
vỗ gối; ruột đau như

cắt,nước mắt đầm
đìa; chỉ căm tức chưa
xả thòt lột da, nuốt
gan uống máu quân
thù. Dẫu cho trăm
thân
nàytội
phơiác
ngoài
 Tố cáo
của
nội

cỏ,
nghìn
giặc,
nêu
lênxác
nỗi
này
davà
nhụcgói
mấttrong
nước



ân tích phải trái, nhận đònh đúng sai:
a.Phê phán biểu
hiện sai trái
- Nhìn chủ nhục mà
không lo, thấy
nước nhục mà
không thẹn
- Làm tướng đi hầu
giặc không biết
tức, nghe nhạc thái
thường đãi yến

quân giặc không
biết căm

 Hậu quả: Nếu
giặc tràn sang
- Ta cùng các ngươi
sẽ bò bắt
- Chẳng những thái
ấp của ta không
còn mà bổng lộc
các ngươi cũng
mất

- Chẳng những gia
quyến của ta bò tan


b.Nêu ra những việc
làm đúng
- Nên nhớ câu “đặt
mồi lửa dưới
đống củi” làm
nguy cơ
- Nên lấy điều
“kiềng canh nóng

thổi rau nguội”
làm răn sợ
- Huấn luyện quân
só, tập dượt cung
tên

 Kết quả:
- Chẳng những thái
ấp của ta mãi mãi
vững bền mà bổng
lộc các ngươi cũng
đời đời hưởng thụ

- Chẳng những gia
quyến của ta được
ấm êm gối chăn
mà vợ con các ngươi
cũng bách niên giai
lão
- …


ân tích phải trái, nhận đònh đúng sai:
 Kết cấu câu văn
sóng đôi, trùng

điệp; lập luận tương
phản
chặt chẽ, sắc
 Cách
phân tích
sảo
thiệt hơn đã cùng
một lúc tác động
vào cả nhận
thức, tình cảm và
lương tâm của các
tỳ tướng



êu nhiệm vụ cấp bách:
- Chuyên học sách
này thì mới phải
đạo thần chủ
- Khinh bỏ sách này
tức là kẻ nghòch
 Thái
thù độ dứt
khoát thể hiện ý
chí quyết chiến

quyết thắng của
vò chủ soái




×