Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quy chế pháp lý về đăng ký kinh doanh và thực tiễn áp dụng ở thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 97 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------------------------------

LÊ THỊ THU LÝ

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------------------

LÊ THỊ THU LÝ

QUY CHẾ PHÁP LÝ VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập
của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả Luận văn

Lê Thị Thu Lý


LỜI CẢM ƠN
Qua hai năm học tập nghiên cứu tại Trường Đại học Luật Hà Nội và viết
luận văn tốt nghiệp. Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Trường Đại học
Luật Hà Nội, Khoa Sau đại học Trường Đại học Luật Hà Nội, các thầy giáo,
cô giáo Trường Đại học Luật Hà Nội đã trực tiếp giảng dạy lớp cao học Luật
Tây bắc khóa 2 định hướng ứng dụng - Chuyên ngành Luật Kinh tế (20152017). Đặc biệt, Tác giả xin được biết ơn giảng viên hướng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Viết Tý đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong quá trình
viết luận văn.
Do thời gian có hạn và kiến thức, kinh nghiệm còn nhiều thiếu sót, hạn
chế, tác giả kính mong các Quý thầy, cô giáo, nhà khoa học, chuyên gia và

độc giả quan tâm tham gia đóng góp để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 07 năm 2017


DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
STT

Viết tắt

Viết đầy đủ

1

KH&ĐT

Kế hoạch và đầu tư

2

TTQG

Thông tin quốc gia

3

UBND

Ủy ban nhân dân


4

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH ...................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh ..................................................................... 7
1.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về đăng ký kinh doanh ..................... 11
1.2.1. Khái niệm về pháp luật đăng ký kinh doanh............................................. 11
1.2.2. Đặc điểm pháp luật đăng ký kinh doanh .................................................. 12
1.3. Nội dung pháp luật hiện hành về đăng ký kinh doanh ................................. 13
1.3.1. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh ............................................ 13
1.3.2. Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp..................................................... 15
1.3.3. Điều kiện đăng ký kinh doanh.................................................................. 17
1.3.4. Thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh ................................................. 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 28
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ...................................................................... 29
2.1. Tổng quan các điều kiện kinh tế - xã hội của thành phố Hà Nội có ảnh hưởng
đến hoạt động đăng ký kinh doanh .................................................................... 29
2.1.1. Điều kiện kinh tế...................................................................................... 29

2.1.2. Điều kiện xã hội....................................................................................... 31
2.1.3. Giới thiệu về phòng đăng ký kinh doanh ở thành phố Hà Nội .................. 31
2.2. Thực trạng đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành phố Hà Nội................... 32
2.2.1. Tình hình đăng ký thành lập doanh nghiệp............................................... 33
2.2.3. Đánh giá thuận lợi và khó khăn về đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành
phố Hà Nội ........................................................................................................ 41


2.3. Đánh giá việc áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn thành
phố Hà Nội ........................................................................................................ 49
2.3.1. Những ưu điểm trong áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa
bàn thành phố Hà Nội ........................................................................................ 49
2.3.2. Những hạn chế áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn
thành phố Hà Nội .............................................................................................. 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 52
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG .......................... 54
ĐĂNG KÝ KINH DOANH ................................................................................. 54
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật, chính sách về đăng ký kinh doanh ............. 54
3.1.1. Ban hành đầy đủ và hoàn thiện các văn bản pháp luật có liên quan .......... 54
3.1.2. Triển khai thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp ....... 60
3.1.3. Tiếp tục cải cách hành chính, công khai thủ tục hành chính ..................... 64
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký kinh doanh ....................... 67
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác cán bộ; tăng cường hướng dẫn, trao đổi
nghiệp vụ đăng ký kinh doanh ........................................................................... 67
3.2.2. Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật; làm rõ trách nhiệm của người
thành lập doanh nghiệp trong đăng ký kinh doanh ............................................. 70
3.2.3. Nâng cao hiệu quả của các trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp ....................... 72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 74

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự do kinh doanh không chỉ là nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường
mà còn là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định tại Điều 33
Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013: “Mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Quyền
tự do kinh doanh trước hết thể hiện ở quyền thành lập doanh nghiệp, vì vậy, đăng
ký kinh doanh là một nội dung, là một chế định quan trọng trong pháp Luật Doanh
nghiệp, là thủ tục hành chính cho sự ra đời của một doanh nghiệp. đăng ký kinh
doanh có vai trò pháp lý và thông tin quan trọng đối các chủ thể trong nên kinh tế
thị trường.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của đăng ký kinh doanh. Đảng và Nhà nước
đặc biệt quan tâm đến vấn đề này khi ban hành các văn bản pháp luật về tổ chức và
hoạt động của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện rõ nét ở việc ban hành các Luật
Doanh nghiệp, kể từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX cho đến nay, như: Luật Công ty,
Luật Doanh nghiệp tư nhân ngày 21/12/1990; Luật Doanh nghiệp ngày 12/6/1999;
Luật Doanh nghiệp ngày 29/11/2005 và mới nhất là Luật Doanh nghiệp ngày
26/11/2014. Cũng như các văn bản luật trước đó, Luật Doanh nghiệp (2014) quy
định về đăng ký kinh doanh theo hướng ngày càng mở rộng quyền tự do thành lập
doanh nghiệp cho các nhà đầu tư. Ở đây, cần thiết nghiên cứu cụ thể, sâu sắc các
quy định về thành lập doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp (2014), đặc biệt những
quy định liên quan đến “khuôn khổ pháp luật” để doanh nghiệp tự do thực hiện
quyền thành lập doanh nghiệp của mình.
Luật Doanh nghiệp (2014) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2015 là văn bản

pháp luật hiện hành quy định về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, trong đó
có một bộ phận quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh. Trên cơ sở các quy định
của Luật Doanh nghiệp, hoạt động đăng ký kinh doanh đã được tiến hành khá nhanh
chóng về thủ tục, thông thoáng về điều kiện thành lập. Cùng với việc đơn giản hoá


2

thủ tục là việc giảm chi phí để thành lập mới một doanh nghiệp, bãi bỏ những điều
kiện mà doanh nghiệp khó đáp ứng, đồng thời nâng cao yêu cầu và trách nhiệm của
cơ quan nhà nước với các doanh nghiệp, của cán bộ công chức thực hiện nhiệm vụ
đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp đã góp phần không nhỏ tạo nên môi
trường kinh doanh tại Việt Nam chuyển biến khá tích cực, thông thoáng hơn, sản
xuất kinh doanh sôi động hơn, tạo dựng lòng tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, thực tế việc áp dụng những
quy định của Luật Doanh nghiệp (2014) về đăng ký kinh doanh cũng đã có không ít
những tồn tại và bất cập cần khắc phục để những quy định của Luật về đăng ký kinh
doanh đi vào cuộc sống.
Trên thực tế, Luật Doanh nghiệp (2014) nói chung và những quy định về
đăng ký kinh doanh theo Luật này nói riêng được áp dụng trong phạm vi cả nước,
trong đó có Thành phố Hà Nội.
Thành phố Hà Nội là thủ đô của cả nước xét về quy mô dân số và mức độ đô
thị hóa, đồng thời giữ vai trò đầu tàu kinh tế và là một trong những trung tâm kinh
tế chính trị quan trọng của cả nước. Hà Nội là Thành phố có đội ngũ doanh nhân,
doanh nghiệp mạnh, hiện có khoảng 140.000 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm
1/3 số lượng doanh nghiệp đang hoạt động của cả nước. Với số lượng doanh
nghiệp được hình thành khá lớn như vậy tại Thành phố Hà Nội, việc đăng ký kinh
doanh và quản lý hoạt động của doanh nghiệp sao cho không vượt khỏi tầm kiểm
soát của cơ quan nhà nước là một vấn đề rất quan trọng. Thực tế hoạt động đăng
ký kinh doanh tại Thành phố Hà Nội theo Luật Doanh nghiệp (2014) gặp nhiều

vướng mắc, khó khăn gây rất nhiều trở ngại cho các nhà đầu tư trên địa bàn Thành
phố Hà Nội. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu, khảo sát thực tiễn hoạt động đăng
ký kinh doanh để có thể tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của Luật Doanh nghiệp (2014).
Trên đây là lý do em lựa chọn vấn đề “Quy chế pháp lý về đăng ký kinh doanh
và thực tiễn áp dụng ở thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Nhìn chung, hoạt động kinh doanh nói chung và pháp luật về đăng ký kinh
doanh nói riêng đã được nghiên cứu và thực hiện từ trước khi các Luật Doanh
nghiệp được ban hành. Cụ thể như sau:
Khi Luật Doanh nghiệp (2014) ban hành và có hiệu lực cũng đã có rất nhiều
những khảo sát, nghiên cứu, đánh giá của các chuyên gia về những điểm quy định
mới, mức độ khả thi khi áp dụng Luật Doanh nghiệp. Điển hình trong số đó là: cuộc
nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương phối hợp cùng
chương trình phát triển Liên Hợp Quốc về Luật Doanh nghiệp được tiến hành năm
2004, Cuộc khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp
cùng với chương trình phát triển kinh tế tư nhân năm (2005); chương trình nghiên
cứu về khu vực kinh tế phi chính thức của Ngân Hàng Thế Giới năm 2003. Báo cáo
đánh giá sáu năm thi hành Luật Doanh nghiệp của CIEM và Tổ chức Hợp tác Kỹ
thuật Đức. “Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp năm
(2005)”; “Một số ý kiến về công tác đăng ký kinh doanh năm 2012 - nhiệm vụ của
năm 2013 và sửa đổi Luật Doanh nghiệp” của Lê Xuân Hiển - trưởng phòng đăng
ký kinh doanh tỉnh Hải Dương - báo cáo Hội nghị tổng kết đăng ký kinh doanh năm
2012; “Cải cách đăng ký kinh doanh tại Việt Nam trong 25 năm sau đổi mới”;
“Khung pháp lý về đăng ký kinh doanh dần được hoàn thiện” của ông Lê Quang
Mạnh - Cục trưởng Cục Quản lý đăng ký kinh doanh, Bộ KH&ĐT - báo cáo định

hướng kế hoạch đầu năm; “Cơ chế tiền đăng hậu kiểm – chìa khóa của cải cách”, tài
liệu của Tổng cục thống kê, Hà Nội năm 2012; “Chương trình cải cách đăng ký
kinh doanh quốc gia: một số kết quả đạt được và phương hướng hoàn thiện trong
thời gian tới” của Ông Lê Quang Mạnh - Cục trưởng Cục Quản lý đăng ký kinh
doanh Bộ KH&ĐT, tổng kết hội nghị phát triển doanh nghiệp; “Quy định tiến bộ về
quản lý doanh nghiệp qua hoạt động đăng ký kinh doanh”.
Bên cạnh đó còn nhiều những bài viết trong các luận văn, luận án; các tạp chí
chuyên ngành về quản lý nhà nước, chính sách pháp luật, chính sách kinh tế, như:


4

- TS. Dương Đăng Huệ (1994), Pháp luật về cấp giấy phép thành lập doanh
nghiệp, đăng ký kinh doanh ở Việt Nam - thực trạng và một vài kiến nghị, tạp chí
quản lý nhà nước và pháp luật số 4/1994;
- Lê Thị Tố Hoa (1996), Quản lý nhà nước về đăng ký kinh doanh và thuế đối
với công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và Doanh nghiệp tư nhân, luận
văn thạc sỹ luật học;
- Bùi Thanh Ngọc (1996), Chế độ về cấp giấy phép hoạt động và đăng ký
kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp ở nước ta, luận văn thạc sỹ luật học;
- Đỗ Kim Hiền (2002), Quản lý nhà nước đối với hoạt động đăng ký kinh
doanh của doanh nghiệp Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học;
- Nguyễn Thế Anh (2007), Chế độ pháp lý về đăng ký kinh doanh, luận văn
thạc sĩ luật học trường Đại học Luật Hà Nội;
Nhìn chung, các bài viết trong những công trình nghiên cứu cũng như trong
các báo, tạp chí, báo cáo đã có nhiều tìm tòi, đánh giá và đề cập đến nhiều khía cạnh
ở các mức độ khác nhau của quy định pháp luật đối với hoạt động đăng ký kinh
doanh của các doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu cũng đã khái quát được bức
tranh tương đối thực tế về hoạt động đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp và của
cơ quan nhà nước trên cơ sở những số liệu khảo sát thực tế. Các công trình nghiên

cứu cũng đã vạch ra những bất cập trong hệ thống pháp luật và những yếu kém
trong tổ chức bộ máy về đăng ký kinh doanh, cũng như những yếu kém trong thực
thi pháp luật về đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên, những công trình nêu trên mới phần nào phác họa được những
thành công hay hạn chế của Luật Doanh nghiệp nói chung khi được áp dụng trong
thực tiễn hay chỉ mới nghiên cứu so sánh chung về Luật Doanh nghiệp hoặc so
sánh một lĩnh vực cụ thể nào đó của Luật Doanh nghiệp mà chưa đưa ra được
những đánh giá và yêu cầu riêng đối với pháp luật về đăng ký kinh doanh tại
Thành phố Hà Nội. Đặc biệt, là những vấn đề mới phát sinh khi áp dụng những
quy định mới theo Luật Doanh nghiệp (2014) trong giai đoạn hiện nay.


5

Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu về đăng ký kinh doanh của
các công trình khoa học đã được công bố; luận văn đi sâu tìm hiểu các chính sách,
quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và thực tiễn áp dụng trên địa bàn
Thành phố Hà Nội, để có cái nhìn toàn diện về thực trạng đăng ký kinh doanh hiện
nay. Từ đó tìm kiếm giải pháp nâng cao hiệu quả điều chỉnh của Luật Doanh
nghiệp trong phạm vi cả nước nói chung và ở Thành phố Hà Nội nói riêng.
3. Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu của luận văn: Luận văn này được thực hiện với mục
đích làm sáng tỏ cơ sở lý luận cũng như nội dung của pháp luật về đăng ký kinh
doanh; phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh ở
Thành phố Hà Nội hiện nay; tìm kiếm những giải pháp và góp phần xây dựng hoàn
thiện và nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về đăng ký kinh doanh.
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là các quy định về đăng ký kinh doanh
trong các Luật Doanh nghiệp, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp (2014) và thực tiễn
trong hoạt động đăng ký kinh doanh nghiệp dưới góc độ hoạt động quản lý nhà
nước cũng như sự vận dụng pháp luật trong quá trình thành lập doanh nghiệp ở một

địa phương cụ thể, đó là Thành phố Hà Nội.
- Phạm vi nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật
hiện hành về đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm (2014)
và thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh tại Thành phố
Hà Nội.
4. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Những câu hỏi nghiên cứu trong luận văn này gồm: (i) Khái niệm đăng ký
kinh doanh và pháp luật đăng ký kinh doanh? (ii) Nội dung của Luật Doanh
nghiệp (2014) về đăng ký kinh doanh? (iii) Thực tiễn hoạt động đăng ký kinh
doanh và những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động đăng ký kinh doanh ở
Thành phố Hà Nội? và (iv) Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh và nâng cao hiệu quả hoạt động đăng ký kinh doanh?


6

5. Phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Phương pháp luận được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong luận
văn là: Phép duy vật biện chứng và phép duy vật lịch sử.
Các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể bao gồm: Phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh, phương pháp đối chiếu, phương pháp thống kê, phương
pháp mô hình hóa và phương pháp tổng hợp đánh giá. Ngoài ra, luận văn còn có sự
kế thừa những thành tựu đã đạt được của các công trình khoa học đi trước, từ đó
khai triển theo ý tưởng của riêng mình gắn lý luận với thực tiễn nhằm phát hiện
những ưu điểm, hạn chế của các quy địnhvà đưa ra những kiến nghị có tính khả thi
nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của tổ chức và cá nhân.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn hệ thống hóa các cơ sở lý luận, nghiên cứu các nội dung cụ thể của
hoạt động đăng ký kinh doanh;
- Phân tích đánh giá thực trạng hoạt động đăng ký kinh doanh, hoạt động quản

lý của cơ quan nhà nước trong quá trình thành lập doanh nghiệp trên địa bàn Thành
phố Hà Nội;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh doanh và nâng
cao hiệu quả hoạt động đăng ký kinh doanh tại Thành phố Hà Nội nói riêng.
7. Bố cục của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về đăng ký kinh doanh và pháp luật về đăng ký kinh doanh;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về đăng ký kinh doanh trên địa bàn
Thành phố Hà Nội;
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động
đăng ký kinh doanh.


7

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
KINH DOANH
1.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh
“Đăng ký” được hiểu là hoạt động của một cơ quan nhà nước hoặc một tổ
chức cá nhân nào đó được ủy quyền thực hiện việc ghi nhận, xác nhận về một sự
việc hay một tài sản nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của người được đăng ký
cũng như tổ chức, cá nhân đứng ra thực hiện việc đăng ký. Ngoài ra, đăng ký
“registration” nhà đầu tư cung cấp các thông tin cụ thể của mình để được phép hoạt
động kinh doanh.
Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Trung tâm từ điển, năm
1994 định nghĩa: “Đăng ký là ghi vào sổ của cơ quan quản lý để chính thức công
nhận cho hưởng quyền lợi hay nghĩa vụ; Bằng chứng công nhận bắt đầu sự tồn tại
hoặc chấm dứt một sự kiện hoặc một hiện tượng pháp luật”

Thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được ghép từ hai từ: “đăng ký”; “kinh
doanh” hiện nay được nhìn nhận dưới nhiều góc độ như:
Ở Việt Nam từ 1990 thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” đã được nêu trong Luật
Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp tư nhân 1990, Luật Doanh nghiệp 1999,
Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Đầu tư (2005), Luật Thương mại (2005) và các văn
bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Khái niệm đăng ký kinh doanh được xem xét ở
những góc độ khác nhau như:
Theo phương diện kinh tế: Trong giai đoạn tiến hành thủ tục đăng ký kinh
doanh, doanh nghiệp chưa thực sự tồn tại, song chi phí trong quá trình đăng ký kinh
doanh thành lập doanh nghiệp vẫn được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp
và được khấu trừ trong khi tính thuế
Ở góc độ quản lý nhà nước, đăng ký kinh doanh được coi là biện pháp quản lý
nhà nước về kinh tế, là hoạt động quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp, điều


8

này tạo điều kiện cho các hoạt động quản lý của Nhà nước khi doanh nghiệp kinh
doanh.
Ở góc độ chính trị, đăng ký kinh doanh lại được hiểu là quyền tự do của công
dân. Theo phương diện quản lý nhà nước: đăng ký kinh doanh là hoạt động quản lý
đầu tiên của Nhà nước đối với doanh nghiệp, tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện
các hoạt động quản lý tiếp theo của mình khi doanh nghiệp đi vào sản xuất như định
hướng của Nhà nước đến hệ thống các doanh nghiệp, làm cho hoạt động của doanh
nghiệp phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của Nhà nước, tạo ra sự phát triển đồng
đều và cân bằng về mặt kinh tế và xã hội. Đồng thời đặt cơ sở ban đầu cho công tác
quản lý trong khâu hậu kiểm, thực hiện việc điều tiết kinh tế vĩ mô và tạo điều kiện
đảm bảo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp ngay từ khâu gia nhập thị trường.
đăng ký kinh doanh được coi là biện pháp quản lý nhà nước về kinh tế.
Theo phương diện chính trị: đăng ký kinh doanh được hiểu là quyền tự do của

công dân. Tuy nhiên, quyền này phải được hiểu là tự do trong “khuôn khổ”, dân chủ
tập trung và bình đẳng trước pháp luật. Quyền đăng ký kinh doanh cũng đồng thời
là nghĩa vụ phải thực hiện. Quyền tự do kinh doanh của công dân có nội hàm bao
gồm cả quyền tự do lựa chọn ngành nghề, hình thức kinh doanh và tự do đăng ký
kinh doanh. Bất cứ một cá nhân tổ chức nào có đủ điều kiện để kinh doanh đều có
thể đăng ký với nhà nước để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà không ai
có quyền ngăn cản trái phép.
Theo phương diện pháp lý: Hiện nay thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” chưa
được quy định cụ thể trong Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Thậm chí, thuật ngữ “đăng ký kinh doanh” được áp dụng theo Luật công ty
1990 đến Luật Doanh nghiệp (2005). Tuy nhiên, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP
hướng dẫn về đăng ký kinh doanh do Chính phủ ban hành ngày 15/4/2010 và có
hiệu lực thực hiện từ ngày 01/06/2010. Nghị định số 43/2010/NĐ-CP đã tạo ra bước
ngoặt mới trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính chính thức thống nhất quy
trình đăng ký kinh doanh với đăng ký thuế, áp dụng một mã số duy nhất để định


9

danh cho doanh nghiệp, khái niệm “đăng ký kinh doanh” được thay thế bằng khái
niệm “đăng ký kinh doanh” chính thức từ Nghị định này.
Theo Nghị định 43/2010/NĐ-CP; Nghị định 78/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 9
năm 2015 quy định: “đăng ký kinh doanh là việc người thành lập doanh nghiệp
đăng ký thông tin về doanh nghiệp dự kiến thành lập, doanh nghiệp đăng ký với cơ
quan đăng ký kinh doanh và được lưu giữ tại Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký
kinh doanh. đăng ký kinh doanh bao gồm đăng ký thành lập doanh nghiệp, đăng ký
thay đổi nội dung đăng ký đăng ký kinh doanh và các nghĩa vụ đăng ký, thông báo
khác theo quy định của Nghị định này.”
Mặt khác, cơ quan thực hiện quản lý đăng ký kinh doanh hiện nay theo quy
định của nhà nước là cơ quan đăng ký kinh doanh.

Theo Khoản 3 Luật đầu tư (2014): “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ
vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức
kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư
theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư”
Từ đây có thể hiểu: đăng ký kinh doanh là một thủ tục pháp lý mà theo đó nhà
đầu tư phải khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về dự kiến hoạt động của
mình theo đúng quy định của pháp luật với các nội dung cụ thể, được Nhà nước
thừa nhận ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh đồng thời cấp cho chủ thể đăng ký
kinh doanh giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh là bằng chứng pháp lý chứng minh chủ thể kinh doanh tiến hành các hoạt
động kinh doanh một cách hợp pháp, được nhà nước công nhận và bảo hộ.
Đăng ký kinh doanh được hiểu là một hoạt động pháp lý áp dụng cho các chủ
thể kinh doanh khi gia nhập thị trường. Như vậy, để gia nhập thị trường và được
hoạt động thì doanh nghiệp cần cả điều kiện cần và đủ cụ thể là: những loại hình
kinh doanh, doanh nghiệp chỉ cần điều kiện cần tức là chỉ cần đăng ký kinh doanh
và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, đối với các lĩnh vực, ngành nghề
không cần điều kiện, và phải có thêm điều kiện đủ, đối với những lĩnh vực, ngành


10

nghề theo pháp luật đầu tư và chuyên ngành quy định là ngành nghề kinh doanh có
điều kiện.
Thông qua hoạt động đăng ký kinh doanh các chủ thể sẽ được đảm bảo về
quyền và nghĩa vụ, được xác lập một địa vị pháp lý hợp pháp để các chủ thể kinh
doanh tiến hành mọi hoạt động kinh doanh chính thức trên thị trường trong nước
cũng như thị trường nước ngoài. Do đó, hoạt động đăng ký kinh doanh không chỉ áp
dụng cho các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh là những doanh nghiệp mà
còn áp dụng cho cả chủ thể hoạt động kinh doanh khác như hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã, hộ kinh doanh.

Đăng ký kinh doanh là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước, đồng thời
là một công cụ để thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân. Thông qua cơ
chế “đăng ký” để công nhận quyền tự do kinh doanh của công dân, thực hiện một
cơ chế quản lý mới của nhà nước, xoá bỏ cơ chế “xin cho”, công dân được kinh
doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm, có quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm trong những hoạt động kinh doanh của mình, được tự do lựa chọn hình thức
đầu tư kinh doanh phù hợp và được Nhà nước bảo hộ. Do đó, để đạt được mục tiêu
gia nhập thị trường cho các chủ thể kinh doanh được thuận lợi, công tác đăng ký
kinh doanh phải đơn giản, minh bạch và bình đẳng, thủ tục nhanh gọn, chi phí
thấp… Chính những điều này để nhà nước tôn trọng quyền tự do kinh doanh hợp
pháp của các chủ thể kinh doanh. Mặt khác, nền kinh tế của các quốc gia đang trên
đà hội nhập kinh tế quốc tế, việc mở rộng quyền tự do kinh doanh tạo điều kiện cho
các chủ thể kinh doanh dễ tiếp cận với những thị trường và đối tác lớn về kinh tế sẽ
làm gia tăng lợi ích của chính mình và giúp kinh tế quốc gia phát triển. Hoạt động
đăng ký kinh doanh không có sự phân biệt giữa chủ thể kinh doanh trong nước và
ngoài nước, mọi hoạt động đăng ký kinh doanh phải phù hợp với nền kinh tế thị
trường được vận hành ổn định, an toàn, bình đẳng, nhằm đảm bảo cho sự phát triển
bền vững, phù hợp với các lợi ích công cộng. Xuất phát từ nội dung quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp, quản lý nhà nước đối với việc thành lập doanh nghiệp
thông qua hoạt động đăng ký kinh doanh là để hướng tới việc khơi dậy ý tưởng kinh


11

doanh, ý thức làm giàu cho bản thân và đất nước
Tóm lại, đăng ký kinh doanh được hiểu là hoạt động pháp lý, bao gồm hành vi
của chủ thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh phải khai báo theo đúng quy
định của pháp luật với các nội dung cụ thể và cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đăng ký kinh doanh tiến hành ghi tên vào sổ đăng ký kinh doanh, đồng thời, cấp
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho chủ thể đăng ký kinh doanh.

1.2. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.2.1. Khái niệm về pháp luật đăng ký kinh doanh
Pháp luật về đăng ký kinh doanh là bộ phận của pháp luật kinh tế, được hình
thành và phát triển cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế kế hoạch,
tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng. Như vậy, hiểu pháp
luật đăng ký kinh doanh theo nghĩa hẹp là một bộ phận của pháp luật doanh nghiệp,
là toàn bộ các quy định pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành,
điều chỉnh quan hệ trong quá trình tiến hành đăng ký kinh doanh theo những quy
định về trình tự, thủ tục cụ thể, rõ ràng.
Khi xác định khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh (đăng ký kinh
doanh), tác giả thống nhất với quan điểm của Lê Thế Phúc. Theo đó: “Pháp luật về
đăng ký kinh doanh là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc
thừa nhận bắt buộc áp dụng và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những vấn đề về
điều kiện, nội dung và trình tự thủ tục đăng ký kinh doanh.” 1
Theo khái niệm này, pháp luật về đăng ký kinh doanh sẽ không chỉ giới hạn
trong các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp mà sẽ bao gồm
cả những quy phạm pháp luật về đăng ký kinh doanh được ban hành tại các văn bản
pháp luật khác như Luật đầu tư, Luật Thương mại, Luật Dân sự... Tuy vậy, trong
phạm vi luận văn này các quy định pháp luật được nghiên cứu chủ yếu là các quy

1
Đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam – Thực trạng và một vài kiến nghị, Lê Thế phúc, tại địa chỉ:
ngày truy cập 05/6/2016


12

định về đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp và một số văn bản pháp luật
hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp.
Như vậy, có thể hiểu pháp luật về đăng ký kinh doanh là tổng hợp các quy

phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền về đăng ý kinh doanh với cá nhân, tổ chức có liên quan về việc đăng ký, thay
đổi nội dung đăng ký kinh doanh tại Việt Nam. Các quy định của pháp luật về đăng
ký kinh doanh chủ yếu được điều chỉnh đối với các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ
chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Pháp luật về đăng
ký kinh doanh theo nghĩa rộng cũng điều chỉnh hoạt động kinh doanh và đăng ký
kinh doanh ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân, tuy nhiên trong phạm vi luận văn
này không đi sâu nghiên cứu các quy định pháp luật về đăng ký kinh doanh ra nước
ngoài mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về đăng ký kinh doanh theo Luật
Doanh nghiệp.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật đăng ký kinh doanh
Như trên đã nêu pháp luật về đăng ký doanh nghiêp là một bộ phận của pháp
luật kinh tế, vì vậy pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đầy đủ những đặc điểm
chung của pháp luật kinh tế như: (i) Đối tượng điều chỉnh là các quan hệ kinh tế
phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể kinh doanh; (ii) Chủ thể là
các cá nhân, tổ chức có hoạt động kinh doanh và cơ quan quản lý nhà nước.
Bên cạnh đó, pháp luật về đăng ký kinh doanh còn có những đặc điểm riêng
của nó, đó là:
Thứ nhất, về đối tượng điều chỉnh, pháp luật đăng ký kinh doanh điều chỉnh
những quan hệ phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức và cơ quan quản lý nhà nước
trước khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính hành chính, trình tự
thực hiện, thủ tục thực hiện.
Thứ hai, về phương pháp điều chỉnh, pháp luật đăng ký kinh doanh sử dụng
phương pháp mệnh lệnh, kiểm tra và hướng dẫn mà không dùng phương pháp thoả
thuận, bình đẳng. Có thể coi pháp luật về đăng ký kinh doanh là một thủ tục mang


13

tính “hành chính”. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình, cơ quan quản lý

nhà nước hướng dẫn, kiểm tra chủ thể kinh doanh tiến hành đăng ký kinh doanh,
không có sự thương lượng, thoả thuận giữa các chủ thể với nhau về những quy định,
nội dung, điều kiện đăng ký kinh doanh.
Thứ ba, pháp luật về đăng ký kinh doanh là một dịch vụ công do nhà nước
thực hiện. Về vai trò quản lý Nhà nước, ngoài vai trò của pháp luật kinh tế nói
chung pháp luật về đăng ký kinh doanh còn có vai trò quan trọng khác đó là công cụ
để Nhà nước quản lý, kiểm soát các hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh
doanh nhằm bảo vệ lợi ích cộng đồng, duy trì môi trường kinh doanh bình đẳng.
Thứ tư, pháp luật về đăng ký kinh doanh là một chế định pháp luật về gia
nhập thị trường. Trước hết pháp luật về đăng ký kinh doanh tạo tạo lập khung pháp
lý về quy trình thành lập doanh doanh nghiệp nó không chỉ dừng lại là một văn bản
dưới luật mà còn có cả một đạo luật riêng quy định về vấn đề này để quy định rõ
các vấn đề về chủ thể thành lập, hồ sơ, trình tự, thủ tục và điều kiện để được đăng
ký kinh doanh, điều kiện tên doanh nghiệp, điều kiện, trụ sở chính của doanh nghiệp
đều quy định rõ ràng, tạo điều kiện cho chủ thể kinh doanh có nhu cầu khởi sự
thành lập kinh doanh dễ dàng áp dụng đúng ngay từ khâu đầu tiên.
Thứ năm, pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc trưng công bố thông tin
trong xã hội. Pháp luật là một hiện tượng của đời sống xã hội. Giá trị xã hội của
pháp luật chứa đựng các giá trị xã hội vốn có và được quy định bởi thuộc tính điều
chỉnh và tính quy phạm riêng có của nó. Do vậy, pháp luật về đăng ký kinh doanh
cũng phải lệ thuộc vào sự phát triển của xã hội.
1.3. Nội dung pháp luật hiện hành về đăng ký kinh doanh
1.3.1. Cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh
Đa số các quốc gia đều cần tổ chức một hệ thống các cơ quan đăng ký kinh
doanh thống nhất, chuyên biệt hoặc thậm chí là một cơ quan duy nhất tập trung cho
nghiệp vụ chuyên môn này như: ở Singapore việc đăng ký kinh doanh được thực
hiện thông qua Cơ quan quản lý kế toán và doanh nghiệp (ACRA); ở Thụy Điển


14


đăng ký kinh doanh được thực hiện ở Cơ quan cấp bằng sáng chế và đăng ký kinh
doanh gọi tắt là PRO; ở Đức thực hiện đăng ký kinh doanh tại Toà án Hành chính;
Trung Quốc thủ tục đăng ký kinh doanh được diễn ra tại Cục quản lý Hành chính
Công thương và một số nước khác trên thế giới chủ yếu việc đăng ký kinh doanh
được thực hiện tại Tòa án.
Đối với Việt Nam thẩm quyền đăng ký kinh doanh được quy định cụ thể trong
Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Trước đây, theo Luật Doanh nghiệp (2005), thẩm quyền đăng ký kinh doanh
thuộc về rất nhiều cơ quan nhà nước khác nhau, được quy định trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật. Thẩm quyền đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 163
Luật Doanh nghiệp (2005) và được cụ thể hóa tại Điều 9 Nghị định số 43/2010/NĐCP ngày 15/4/2010 hướng dẫn đăng ký kinh doanh. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm của Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh được quy định tại Điều 10 Nghị định
số 43/2010/NĐ-CP. Nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh
doanh cấp huyện được quy định tại Điều 11 của Nghị định này2. Hiện nay, theo quy
định của Luật Doanh nghiệp (2014), cơ quan có thẩm quyền đăng ký kinh doanh đã
có những thay đổi và được quy định cụ thể hơn. Thẩm quyền đăng ký kinh doanh
được quy định tại Điều 209 Luật Doanh nghiệp (2014) và cụ thể hóa tại Điều 13
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP ngày 14/9/2015.
Điều 13 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP quy định, các cơ quan có thẩm quyền
đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp, cụ thể như sau: Cơ quan đăng ký
kinh doanh được tổ chức ở tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương (gọi
chung là cấp tỉnh) và ở quận, huyện, thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là cấp
huyện), bao gồm: (i) Ở cấp tỉnh: Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở KH&ĐT (gọi
chung là Phòng đăng ký kinh doanh). Phòng đăng ký kinh doanh có thể tổ chức các
điểm tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả thuộc Phòng đăng ký kinh doanh tại các địa
điểm khác nhau trên địa bàn cấp tỉnh. Tuy nhiên, do đặc thù nên tại Thành phố Hà

2


Xem Điều điều 11 Nghị định số 43/2010/NĐ-CP ngày 15/4/2010


15

Nội có thể thành lập thêm một hoặc hai Phòng đăng ký kinh doanh và các phòng
này được đánh số theo thứ tự. (ii) Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch
thuộc UBND cấp huyện thực hiện nhiệm vụ đăng ký hộ kinh doanh quy định tại
Điều 15 Nghị định 78/2015/NĐ-CP (gọi chung là cơ quan đăng ký kinh doanh cấp
huyện). Cơ quan đăng ký kinh doanh có tài khoản và con dấu riêng.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Phòng đăng ký kinh doanh được quy định cụ thể tại
Điều 14 và 15 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP. So với quy định tại điều 10, điều 11
Nghị định số 43/2010/NĐ-CP thì cơ bản quy định về cơ quan có thẩm quyền đăng
ký kinh doanh của điều 14, điều 15 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP không thay đổi.
Như vậy, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đăng ký kinh doanh không chỉ
dừng chấm dứt tại thời điểm khi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho
doanh nghiệp mà còn tiếp tục được thực hiện trong quá trình doanh nghiệp đã đi
vào sản xuất, kinh doanh. Việc quy định quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan đăng
ký kinh doanh như Điều 14, Điều 15 Nghị định số 78/2015/NĐ-CP là hợp lý bởi
trong cơ chế mới không có sự kiểm soát chặt chẽ ở khâu đầu vào, Nhà nước chỉ
thực hiện việc đăng ký sau đó thực hiện công tác “hậu kiểm”. Việc đăng ký kinh
doanh được tiến hành tại cơ quan đăng ký kinh doanh nên mọi thông tin về các chủ
thể kinh doanh, cơ quan đăng ký kinh doanh đều nắm rõ nên họ có điều kiện tốt để
thực hiện việc kiểm tra đối với doanh nghiệp, các chủ thể hoạt động kinh doanh.
1.3.2. Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp
Để thành lập một doanh nghiệp trước hết nhà đầu tư phải xác định, lựa chọn
được loại hình doanh nghiệp, tùy thuộc vào loại hình doanh nghiệp lựa chọn mà nhà
đầu tư sẽ chuẩn bị một bộ hồ sơ đăng ký kinh doanh phù hợp. Hồ sơ đăng ký kinh
doanh theo Luật Doanh nghiệp (2014) đã được quy định một cách chi tiết, cụ thể.
Ngay từ trong Luật Doanh nghiệp (2014) đã được quy định thể hiện ở các điều sau:

Hồ sơ đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân (Điều 20); Hồ sơ đăng ký kinh
doanh của công ty hợp danh (Điều 21); Hồ sơ đăng ký kinh doanh của công ty TNHH
(Điều 22); Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp của công ty cổ phần (Điều 23).


16

So với quy định của Luật Doanh nghiệp (2005) thì Luật Doanh nghiệp (2014)
bỏ quy định về hồ sơ đăng ký kinh doanh của công ty đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài lần đầu tiên đầu tư vào Việt Nam theo Điều 20 Luật Doanh nghiệp (2005).
Luật Doanh nghiệp (2014) đã chính thức bãi bỏ nội dung giấy chứng nhận đăng ký
đầu tư có thể đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Theo đó, khi muốn
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài được cấp giấy
chứng nhận đăng ký đầu tư, sau đó sẽ chuẩn bị hồ sơ thực hiện thủ tục thành lập
doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Về thực chất, hồ sơ đăng ký kinh doanh bao gồm các giấy tờ, tài liệu chứng
minh cho các điều kiện thành lập doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp (2014) và Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký kinh doanh cho tất cả các
loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, tùy thuộc vào bản chất
cũng như điều kiện thành lập từng loại hình doanh nghiệp mà pháp luật quy định
những giấy tờ tài liệu cần có trong hồ sơ đăng ký kinh doanh, có những loại hình
doanh nghiệp khi thành lập cần có hồ sơ đăng ký kinh doanh đơn giản, cũng có
những loại hình loại hình doanh nghiệp hồ sơ đăng ký kinh doanh phức tạp. Ví dụ:
Hồ sơ đăng ký kinh doanh tư nhân rất đơn giản, chỉ được quy định trong một điều
của Luật Doanh nghiệp (2014) (Điều 20) và cụ thể hóa trong 1 điều trong Nghị
định số 78/2015/NĐ-CP (Điều 21), bao gồm: Giấy đề nghị đăng ký kinh doanh và
một số giấy tờ khác liên quan đến nhân thân của chủ doanh nghiệp 3. Trong lúc đó
hồ sơ đăng ký công ty cổ phần phức tạp hơn nhiều. Theo Điều 23 Luật Doanh
nghiệp ((2014) hồ sơ đăng ký công ty cổ phần gồm có: (i) Giấy đề nghị đăng ký
kinh doanh; (ii) Điều lệ công ty; (iii) Danh sách cổ đông sáng lập và cổ đông là nhà

đầu tư nước ngoài. (iv) Bản sao các giấy tờ liên quan đến nhân thân của cổ đông.Hồ
sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp cho công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên, công ty cổ phần và công ty hợp danh được quy định cụ thể hơn tại Điều 22
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP.

3

Xem điều 20 Luật Doanh nghiệp (2014)


17

Cùng với việc quy định hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp mới
thành lập, Nghị định 78/2015/NĐ-CP (văn bản hướng dẫn Luật Doanh nghiệp
(2014)) còn hướng dẫn cụ thể về Hồ sơ đăng ký kinh doanh đối với các công ty
được thành lập trên cơ sở chia, tách, hợp nhất và công ty nhận sáp nhập4 và hồ sơ
đăng ký kinh doanh đối với các trường hợp chuyển đổi doanh nghiệp5.
Để được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, người thành lập doanh
nghiệp phải xây dựng hồ sơ đăng ký kinh doanh và phải chịu trách nhiệm về tính trung
thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký kinh doanh và các báo cáo;
trường hợp phát hiện thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì
phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó6.
1.3.3. Điều kiện đăng ký kinh doanh
- Đối tượng được đăng ký thành lập doanh nghiệp
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm (2014) và Nghị định số
78/20105/NĐ-CP của Chính phủ quy định về đăng ký kinh doanh, việc thành lập,
đăng ký kinh doanh và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam là quyền của cá nhân và
tổ chức được Nhà nước bảo hộ. Luật nghiêm cấm các cơ quan đăng ký kinh doanh
và các cơ quan khác gây phiền hà cho người thành lập doanh nghiệp7.
Luật Doanh nghiệp (2005) đã có sự mở rộng chủ thể thành lập doanh nghiệp

là tổ chức, cá nhân nước ngoài và họ có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp ở
Việt Nam8; đồng thời họ cũng có quyền góp vốn, mua cổ phần đối với các công ty
TNHH, công ty hợp danh và công ty cổ phần9. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn được quyền kinh doanh tất cả các ngành nghề mà pháp luật không
cấm chứ không chỉ giới hạn trong nội dung các giấy phép đầu tư10.

4

Xem điều 24 NĐ 78/2015/NĐ-CP
Xem điều 25 Luật Doanh nghiệp (2014)
6
Xem khoản 7 điều 8 Luật Doanh nghiệp (2014)
7
Xem điều 5 NĐ78/2015/NĐ-CP, điều 18 Luật Doanh nghiệp (2014)
8
Xem khoản 1 điều 13 Luật Doanh nghiệp (2005)
9
Xem khoản 3 điều 13 Luật Doanh nghiệp (2005)
10
Xem điều 7 Luật Doanh nghiệp (2005)
5


18

Kế thừa tinh thần của Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Doanh nghiệp (2014)
vẫn ghi nhận sự mở rộng chủ thể thành lập doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân nước
ngoài. Luật Doanh nghiệp (2014) quy định thông thoáng hơn, không có sự phân
biệt, tách bạch giữa chủ thể đăng ký thành lập doanh nghiệp trong nước và nhà đầu
tư nước ngoài. Cũng giống Luật Doanh nghiệp (2005), Luật Doanh nghiệp (2014)

quy định nhà đầu tư nước ngoài cũng có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp ở
Việt Nam, quyền này được quy định tại khoản 1 Điều 18 Luật Doanh nghiệp
(2014)11. Ngoài ra, họ còn có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào
công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh12 và Luật Doanh
nghiệp hiện hành cũng mở rộng đáng kể quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp,
quyền tự do kinh doanh là quyền của doanh nghiệp được tự chủ kinh doanh và lựa
chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình
thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh; quyết
định các vấn đề trong các hoạt động kinh doanh, quyền đầu tư kinh doanh và quyền
huy động vốn13…. đặc biệt là từ chối yêu cầu cung cấp nguồn lực không theo quy
định pháp luật, tham gia tố tụng theo quy định pháp luật.
Mặt khác, với quy định không tách bạch chủ thể là chủ doanh nghiệp trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài nên pháp luật hiện hành không dành một điều để
quy định về trình tự, thủ tục, điều kiện, nội dung cho việc đăng ký kinh doanh, đầu
tư của nhà đầu tư nước ngoài lần đầu tại Việt Nam. Nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện thủ tục đăng ký kinh doanh như các chủ doanh nghiệp trong nước.
Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp (2014) quy định 06 đối tượng không
được thành lập doanh nghiệp đó là: (i) Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân
sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ
quan, đơn vị mình; (ii) Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về
cán bộ, công chức, viên chức; (iii) Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân
11

Xem khoản 1 điều 18 Luật Doanh nghiệp (2014)
Xem khoản 3 điều 18 Luật Doanh nghiệp (2005)
13
Xem điều 7 Luật Doanh nghiệp (2014)
12



×