Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Chế độ pháp lý về bảo lãnh ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.35 KB, 80 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ của ngân hàng thương mại hiện đại,
đem lại cho ngân hàng nhiều lợi ích thiết thực, làm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ
của ngân hàng, làm tăng vị thế của ngân hàng, mở rộng quan hệ đại lý trên thị trường
quốc tế, thúc đẩy các giao dịch về vốn, các giao dịch kinh doanh không chỉ ở trong
lĩnh vực tín dụng mà cả trong lĩnh vực dự thầu, thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất
lượng sản phẩm… Đặc biệt sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) đã có những thay đổi về cơ cấu và hoạt động của
ngân hàng để phù hợp với những cam kết về dịch vụ ngân hàng của Việt Nam. Đồng
thời, quá trình thực hiện những cam kết đòi hỏi phải thay đổi những quy định pháp
luật thực định về lĩnh vực ngân hàng nói chung và bảo lãnh ngân hàng nói riêng phù
hợp với cam kết và thông lệ quốc tế. Trên thực tế, hoạt động ngân hàng có tác động
nhanh và mạnh tới nền kinh tế, bất kỳ sự điều tiết nào tới loại hình này ngay lập tức
nền kinh tế sẽ có những biến động. Trong điều kiện đó, để tránh những tác động tiêu
cực, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc, toàn diện đồng thời vấn đề lý luận về bảo
lãnh ngân hàng và thực trạng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng để thông qua đó hoàn
thiện hệ thống pháp luật này là hết sức cần thiết và cấp bách. Do đó tác giả đã lựa
chọn đề tài : “ Chế độ pháp lý về bảo lãnh ngân hàng và thực tiễn áp dụng tại
NHNo & PTNT Việt Nam Chi nhánh Tây Hà Nội” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề gồm :
- Lời nói đầu.
- Chương I. Chế độ pháp lý về bảo lãnh ngân hàng.
- Chương II. Thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng tại NHNo
& PTNT Chi nhánh Tây Hà Nội.
- Chương III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân
hàng.
- Kết luận.
CHƯƠNG I. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
I. Những vấn đề cơ bản về bảo lãnh ngân hàng.
1. Khái niện về bảo lãnh ngân hàng, đặc điểm và vai trò của hoạt động bảo
lãnh ngân hàng.


1.1. Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng.
Bảo lãnh là khái niện có từ rất xa xưa trong xã hội loài người, cho đến nay bảo
lãnh không những tồn tại mà còn phát triển phong phú bao trùm trên mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của mỗi quốc gia. Vậy bảo lãnh là gì?
Trong xã hội phong kiến người ta đã biết đến khái niệm lý tưởng và những
người có thế lực bảo lãnh cho tù nhân trong thời gian thi hành án, cha mẹ bảo lãnh
cho con. Sau đó bảo lãnh được phát triển sang lĩnh vực dân sự và nhiều lĩnh vực khác
của đời sống kinh tế xã hội. Bảo lãnh được phân ra hai hình thức dựa vào tính chất và
đối tượng của bảo lãnh đó là : “ Bảo lãnh đối nhân” [
1
] và “ Bảo lãnh đối vật” [
2
].
Cùng với lịch sử phát triển của đời sống kinh tế xã hội thuật ngữ bảo lãnh được hiểu
nhiều cách khác nhau như trong từ điển pháp luật của Mỹ thì : “ Bảo lãnh là sự thoả
thuận, mà theo đó người bảo lãnh chấp thuận nghĩa vụ nợ của bên nợ chỉ khi bên nợ
không trả nợ; là việc bên bảo lãnh đảm bảo hoặc hứa thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện” [
3
]. Theo pháp luật dân
sự Việt Nam thì : “ Bảo lãnh là việc người thứ 3 ( sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam
kết với bên có quyền ( sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ ( sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên
được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng
có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo
lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình” [
4
].
Từ nhữn quan điểm trên ta có thể rút ra : “bảo lãnh là thoả thuận giữa các
bên trong đó bên bảo lãnh sẽ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo thoả thuận đối với

1
[[ ] Bảo lãnh đối nhân được áp dụng chủ yếu với các quan hệ phi tài sản như trong lĩnh vực hình sự, chế tài
hành chính và các quan hệ phi tài sản trong dân sự.
2
[[ ] Bảo lãnh đối vật được áp dụng trong quan hệ hợp đồng kinh tế và dân sự có yếu tố tài sản.
3
[[ ]Trần Phương Minh, “ Bạn đã quan tâm đến bảo lãnh ngân hàng?”, />s=3a3cb5db149b295531d2a1cc65151494&t=82
4
[[ ]Điều 361. Bộ Luật Dân sự năm 2005.
bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ theo thoả thuận”.
Với định nghĩa trên thì ta thấy bảo lãnh có hai đặc tính cơ bản :
+ Bảo lãnh là sự thoả thuận của các bên trong đó các bên tham gia có thể là :
bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh, và bên được bảo lãnh trong đó bắt buộc phải có bên
bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh.
+ Trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trước tiên thuộc về bên được bảo lãnh. Bên
bảo lãnh chỉ thực hiện nghĩa vụ của đó khi bên được bảo lãnh thực hiện không đúng
nghĩa vụ hoặc không đầy đủ nghĩa vụ của mình, trừ trường hợp bên nhận bảo lãnh và
bên được bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ cho nhau.
Trên thực tế hình thức bảo lãnh rất đa dạng như : bảo lãnh của doanh nghiệp
đối với hộ sản xuất vay vốn ngân hàng, bảo lãnh của Hội phụ nữ đối với hội viên,
bảo lãnh xã hội khác…[
5
]v.v. Riêng bảo lãnh ngân hàng chỉ xuất hiện khi tiền tệ ra
đời và nền kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ, khái niệm bảo lãnh ngân hàng chịu
tác động bởi những biến đổi về kinh tế xã hội, tập quán và pháp luật của quốc gia
trong từng giai đoạn nhất định. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì : “ Bảo lãnh
ngân hàng thường được quan niệm như là một nghiệp vụ kinh tế, bởi lẽ thông qua
nghiệp vụ bảo lãnh tổ chức tín dụng có thể giúp khách hàng thoả mãn nhu cầu về vốn
của mình trong kinh doanh. Ở một số nước nghiệp vụ tín dụng cụ thể này được biết

đến với tên gọi là tín dụng bằng chữ ký, ở Việt Nam LCTCTD 1997 cũng thừa nhận
nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một trong các hình thức cấp tín dụng của các tổ
chức tín dụng”[
6
]. Theo quan điểm của các nhà làm luật thì : “ Bảo lãnh ngân hàng là
cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa
vụ đã cam kết, khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã
được trả thay” [
7
]. Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Quy chế bảo lãnh ngân
hàng ban hành theo Quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN ngày 26 tháng 6 năm 2006
của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( gọi tắt là Quy chế bảo lãnh ) thì bảo
lãnh ngân hàng được hiểu là : “ Cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng ( bên
bảo lãnh) với bên có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
5
[[ ]Ngô Quốc Kỳ, “Một số vấn đề pháp lý cơ bản về hoạt động của Ngân hàng”, NXB Chính trị Quốc Gia,
1995, trang 67 – 77.
6
[[ ]Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2007
7
[[ ]Giáo trình Luật Ngân hàng Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, 2007
( bên được bảo lãnh) khi khách hàng khôn thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ đã cam kết đối với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn
trả cho tổ chức số tiền đã trả thay”.
2. Đặc điểm, chức năng, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến bảo lãnh ngân
hàng.
2.1. Đặc điểm, chức năng của bảo lãnh ngân hàng.
2.1.1. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng.
Xét về bản chất, bảo lãnh ngân hàng là hình thức bảo đảm nghĩa vụ (giao dịch

đảm bảo) mang tính phái sinh, tức khi ngân hàng thực hiện bảo lãnh thì các quan hệ
sau nảy sinh :
- Thứ nhất, quan hệ giữa ngân hàng với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh).
- Thứ hai, quan hệ dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng với khách hàng
( bên có nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh) phát sinh do thoả thuận giữa các bên trong
việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện thay cho khách hàng và nghĩa vụ hoàn trả của
khách hàng với tổ chức tín dụng độc lâp[
8
].
Với bản chất đó, bảo lãnh ngân hàng có các đặc điểm như : bảo lãnh ngân
hàng là một giao dịch thương mại đặc thù; bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ nhiều
bên ,mang tính phụ thuộc; bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập, ngoài ra còn nhiều
đặc điểm khác. Tác giả chỉ nêu lên một số đặc điểm nổi bật sau :
- Bảo lãnh ngân hàng là một giao dịch thương mại đặc thù : Một mặt, bảo
lãnh ngân hàng do tổ chức tín dụng ( chủ yếu là các ngân hàng ) thực hiện thực hiện
có tính chất chuyên nhiệp nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Mặt khác, khi thực hiện nghiệp
vụ bảo lãnh, ngân hàng phải sử dụng đến chuyên môn nghiệp vụ ngân hàng nhằm
đảm bảo an toàn cho nguồn vốn của mình bỏ ra khi chấp nhận vai trò người thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng. Hoạt động này cũng thường chụi sự chi phối
của một số quy tắc pháp lý đặc thù chỉ áp dụng riêng cho quan hệ bảo lãnh có tính
chất chuyên nghiệp của các tổ chức tín dụng như quy tắc về thủ tục bảo lãnh, phí bảo
lãnh, giới hạn bảo lãnh, và các chế tài đối với các bên vi phạm cam kết trong quan hệ
bảo lãnh ngân hàng[
9
].
8
[[ ]Trần Phương Minh, “ Bạn đã quan tâm đến bảo lãnh ngân hàng?”, />s=3a3cb5db149b295531d2a1cc65151494&t=82
9
[[ ]Nguyễn Thị Phương, Chuyên đề tốt nghiệp : “ Chế độ pháp lý về bảo lãnh ngân hàng và thực tiễn áp dụng
tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Mộc Châu”, năm 2009.

- Bảo lãnh là mối quan hệ của nhiều bên, phụ thuộc lẫn nhau : Để thiết lập
quan hệ bảo lãnh thì sự thoả thuậ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là điều kiện
bắt buộc. Bảo lãnh xét về biểu hiện bên ngoài thì bao gồm bên bảo lãnh, bên nhận
bảo lãnh và bên được bảo lãnh; nhưng về mặt pháp lý thì quan hệ bảo lãnh chỉ đòi hỏi
bắt buộc phải có hai bên là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Về mặt nguyên tắc thì
các bên có các bên có thể ký kết hợp đồng bảo lãnh gồm 3 bên, là bên bảo lãnh, bên
nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Tuy nhiên, do bên nhận bảo lãnh và bên được
bảo lãnh không phải là chủ thể thuộc cấu trúc chủ thể của hợp đồng bảo lãnh, nên họ
không có các quyền và nghĩa vụ tương ứng như trong quan hệ giữa bên bảo lãnh và
bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh thì tư
cách của họ không phải là tư cách của các bên ký hợp đồng bảo lãnh, mà là tư cách
của chủ thể quan hệ hợp đồng có nghĩa vụ của người bảo lãnh được đảm bảo bằng
biện pháp bảo lãnh.
- Tính độc lập : Đây là đặc tính rất quan trọng của bảo lãnh ngân hàng. Mặc
dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn những thiệt hại từ việc không thực
hiện hợp đồng hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của bên được bảo lãnh cho bên
nhận bảo lãnh. Tính độc lập thể hiện trong trách nhiệm thanh toán của ngân hàng,
trách nhiệm này hoàn toàn độc lập với ngân hàng và người được bảo lãnh.
Về tính độc lập của bảo lãnh, tại khoản b, điều 2 của “ Quy tắc thống nhất về
bảo lãnh theo yêu cầu - Ấn bản số 458 của Phòng thương mại Quốc tế ICC -1992”
[
10
]có nêu : “ Về bản chất thì bảo lãnh là những giao dịch riêng biệt với các hợp đồng
hoặc điều kiện dự thầu mà những điều kiện này có thể là cơ sở của bảo lãnh. Người
bảo lãnh trên mọi phương diện không liên quan đến hoặc bị ràng buộc vào các hợp
đồng như thế hoặc các điều kiện dự thầu, dù cho trong bảo lãnh có tham chiếu đến
chúng. Trách nhiệm của người bảo lãnh là thanh toán những số tiền hay số tiền đã
được quy định trong bảo lãnh khi xuất trình văn bản yêu cầu thanh toán và những
chứng từ khác thể hiện trên bền mặt của chúng hoàn toàn phù hợp với điều kiện bảo
lãnh”. Từ quy định này ta có thể thấy, một khi bảo lãnh được ký kết thì ngân hàng

buộc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình, tuy nhiên khi có tranh chấp phát sinh giữa
10
[[ ] Những Quy tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu ( ấn bản số 458 của ICC ) là kết quả lao động của
các thành viên ICC Joint Working Party đại diện cho Uỷ ban thực hành quốc tế (Comissison on International
Practice), Uỷ ban Công nghệ và hoạt động ngân hàng (Comissison on banking Technique and Practice) và
cũng là kết quả làm việc của nhóm soạn thảo (Drafting Group).
bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh về nghĩa vụ đó thì ngân hàng không liên
quan đến tranh chấp đó. Tuy nhiên, bảo lãnh khác với thư tín dụng chứng từ (L/C) ở
chỗ bảo lãnh mang chức năng đảm bảo, trả tiền theo yêu cầu đầu tiên, và có phạm vi
nhất định còn thư tín dụng chứng từ mang chức năng thanh toán, trả tiền khi người
thụ hưởng xuất trình chứng từ phù hợp, thanh toán khi hoàn thành nghĩa vụ.
2.1.2. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng.
Thứ nhất, bảo lãnh là chức năng bảo đảm : Là chức năng quan trọng nhất của
bảo lãnh ngân hàng, cung cấp cho người thụ hưởng một sự đảm bảo chắc chắn với
quyền lợi của họ. Theo đó thì người thụ hưởng sẽ được hưởng một khoản bồi thường
về tài chính nếu người được bảo lãnh vi phạm cam kết, từ đó hình thành nên sự đảm
bảo chắc chắn cho người nhận bảo lãnh. Chính sự đảm bảo này tạo ra sự tin tưởng
khiến cho các hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng và thuận lợi. Đây là điểm khác
biệt giữa bảo lãnh và tín dụng chứng từ.
Thứ hai, bảo lãnh là công cụ tài trợ vốn : Không chỉ là bảo đảm, bảo lãnh còn
là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh người được bảo lãnh
không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời
gian thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy, mặc dù không trực tiếp cấp vốn
như trong cho vay nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được hưởng
những thuận lợi về ngân quỹ như trong trường hợp cho vay.
Thứ ba, bảo lãnh mang chức năng đôn đốc hoàn thành hợp đồng : Bảo lãnh
cho phép người thụ hưởng có quyền yêu cầu thanh toán khi người được bảo lãnh vi
phạm hợp đồng cam kết trong suốt thời gian có hiệu lực của bảo lãnh và ngân hàng
có quyền đòi lại những khoản tiền này. Do đó, ngân hàng luôn phải theo dõi kiểm tra

giám sát và đôn đốc việc thực hiện hợp đồng của bên được bảo lãnh. Mặt khác trong
trường hợp ngân hàng bảo lãnh phải thanh toán tiền bồi hoàn cho bên nhận bảo lãnh
thì bên được bảo lãnh cũng sẽ phải có trách nhiệm nợ và hoàn trả khoản bồi hoàn đó
cho ngân hàng bảo lãnh. Vì về thực chất bảo lãnh là lấy tiền vi phạm trả cho người
hưởng lợi.
Người được bảo lãnh luôn bị một áp lực cho việc bồi hoàn bảo lãnh. Như vậy,
bảo lãnh có chức năng đôn đốc người được bảo lãnh thực hiện hoàn tất hợp đồng đã
ký kết. Điều này càng làm tăng thêm tính bảo đảm cho người thụ hưởng và có mối
liên quan chặt chẽ giữa chức năng bảo đảm và chức năng đôn đốc hoàn thành hợp
đồng. Mặc dù vậy, khi ký kết hợp đồng và thụ hưởng bảo lãnh, người thụ hưởng vẫn
mong muốn người được bảo lãnh thực hiện hợp đồng chứ không mong chờ ở khoản
bồi hoàn tài chính từ bảo lãnh.
2.2. Vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến bảo lãnh ngân hàng.
2.2.1. Vai trò của bảo lãnh ngân hàng.
Hiện nay bảo lãnh đã phát triển rộng rãi trên hầu hết các lĩnh vực. Bảo lãnh
không chỉ hỗ trợ cho các hợp đồng thương mại mà cả giao dịch phi thương mại, tài
chính. Bảo lãnh không chỉ là một động lực tạo sự phát triển của ngân hàng mà còn có
vài trò quan trọng đối với các doanh nghiệp. Theo tiêu chí đăng ký vốn kinh đăng ký
kinh doanh qui định tại Nghị định số 90/2001/NĐ – CP ngày 23 tháng 11 năm 2001
của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số lượng và tỷ lệ
doanh nghiệp không chỉ có 91% các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 20% doanh
nghiệp Nhà nước và 30% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp
vừa và nhỏ[
11
]. Do đó, bảo lãnh ngân hàng đối với các doanh nghiệp này có ý nghĩa
rất quan trọng nó tạo động lực để các doanh nghiệp này cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài đồng thời tạo nền tảng để các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng
sự hợp tác với các đối tác nước ngoài khác.
Đối với doanh nghiệp, vai trò của bảo lãnh ngân hàng thể hiện : Thúc đẩy
cạnh tranh, mở rộng sản xuất. Sở dĩ vậy do bắt nguồn chức năng của bảo lãnh ngân

hàng, tạo điều kiện cho bên nhận bảo lãnh tìm kiến đối tác, tham gia ký kết và thực
hiện hợp đồng không tốn nhiều thời gian và kinh phí , đồng thời hạn chế rủi do đến
với bên nhận bảo lãnh. Mặt khác đối với các doanh nghiệp khi được ngân hàng bảo
lãnh thì phải chụi một khoản phí bảo lãnh, đó là khoản chi phí của doanh nghiệp do
đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có biệm pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn một
cách có hiệu quả, từ đó sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, tăng khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Đối với ngân hàng, vai trò bảo lãnh ngân hàng được thể hiện : trước hết bảo
lãnh ngân hàng đem lại lợi ích trực tiếp cho ngân hàng thông qua chi phí bảo lãnh,
phí này đóng góp vào lợi nhuận của ngân hàng, nó chiếm tỷ trọng không nhỏ trong
tổng phí dịch vụ của các ngân hàng hiện nay. Ngoài ra, bảo lãnh ngân hàng góp phần
không nhỏ trong việc mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng. Bảo lãnh
ngân hàng cũng hỗ trợ các hình thức thanh toán khác của ngân hàng như thanh toán
quốc tế ( bảo lãnh hối phiếu, bảo lãnh L /C trả chậm ….).
11
[[]. Bộ kế hoạch và đầu tư, Cục phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ : “ Báo cáo thường niên doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam”, 2008, trang 7 – 8.
2.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến bảo lãnh ngân hàng.
Nhằm hạn chế được các hoạt động mang tính rủi do, bảo toàn vốn, nâng cao
thu nhập và lợi tức từ các hoạt động kinh doanh của NHTM nói chung và hoạt động
bảo lãnh ngân hàng nói riêng ta cần phải xác định được nhân tố ảnh hưởng đến bảo
lãnh ngân hàng. Các nhân tố có thể được chia thành hai nhóm : nhóm nhân tố chủ
quan và nhóm nhân tố khách quan. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng mà
hai nhóm nhân tố này có ảnh hưởng khác nhau đến hiệu quả hoạt động của các ngân
hàng [
12
].
(1) Nhóm nhân tố chủ quan : đây chính là các nhân tố bên trong nội bộ của
ngân hàng như năng lực tài chính, ứng dụng tiến bộ công nghệ, trình độ và chất
lượng của lao động.v.v.

- Năng lực tài chính của ngân hàng là khả năng mở rộng nguồn vốn, tiềm lực
về vốn của chủ sở hữu. Kế tiếp là khả năng sinh lời của nguồn vốn vì nó thể hiện
hiệu quả của nguồn vốn kinh doanh. Cuối cùng là khả năng sinh lời và chống đỡ rủi
ro, tức khi món nợ xấu của ngân hàng tăng thì dự phòng rủi ro cũng phải tăng theo để
bù đắp rủi do điều này chứng tỏ năng lực tài chính bù đắp tài chính cho các khoản chi
phí này được mở rộng.
- Khả năng ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ phản ánh năng lực công
nghệ thông tin của ngân hàng. Năng lực công nghệ của ngân hàng thể hiện khả năng
trang bị công nghệ mới gồm thiết bị kỹ thuật và con người, tính liên kết công nghệ
của các ngân hàng và tính độc đáo công nghệ của mỗi ngân hàng.
- Trình độ và chất lượng của lao động : Nhân tố con người chính là yếu tố
quyết định quan trọng đến sự thành bại trong bất kỳ hoạt động nào của ngân hàng.
Việc sử dụng nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn giỏi sẽ giúp cho ngân
hàng tạo lập được những khách hàng chung thành, ngăn ngừa được những rủi ro có
thể xảy ra và đây cũng là nhân tố giúp ngân hàng giảm thiểu được chi phí hoạt động.
(2) Nhóm nhân tố khách quan : Đây là nhóm nhân tố bên ngoài có tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động của ngân hàng, các nhân tố này có thể là : môi
trường kinh tế, chính trị và xã hội; môi trường pháp lý.
- Môi trường kinh tế, chính trị và xã hội : Đây là nhân tố có ảnh hưởng không
nhỏ đến các hoạt động của ngân hàng, vì nếu môi trường kinh tế, chính trị và xã hội
12
[[ ]Nguyễn Việt Hùng, Luận án tiến sĩ kinh tế : “ Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động
của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, Trường ĐH Kinh tế Quốc Dân, Hà Nội 2008.
ổn định nó sẽ là điều kiện làm cho quá trình sản xuất của nền kinh tế được diễn ra
bình thường, đảm bảo khả năng hấp thụ vốn và hoàn trả vốn của các doanh nghiệp do
đó nó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, khi môi
trường kinh tế, chính trị và xã hội trở nên bất ổn định thì lại là nhân tố bất lợi cho
hoạt động của ngân hàng như : nhu cầu vay vốn giảm, nguy cơ nợ quá hạn và nợ xấu
tăng làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
- Môi trường pháp lý : Đây là nhân tố có vai trò hết sức quan trọng đối với nền

kinh tế nói chung và đối với hoạt động của ngân hàng nói riêng, nó là cơ sở tiền đề để
ngân hàng phát triển nhanh và bền vững. Thực tiễn cho thấy, nếu hệ thống pháp luật
được xây dựng không đồng bộ, phù hợp với phát triển của nền kinh tế thì nó sẽ là rào
cản cho quá trình phát triển nền kinh tế. Mặt khác, nếu hệ thống pháp luật hoàn chỉnh
sẽ tạo nên môi trường pháp lý để giải quyết các tranh chấp khiếu nại, nảy sinh trong
hoạt động kinh tế xã hội từ đó đảm bảo được lợi ích chung của xã hội nói chung và
lợi ích của các ngân hàng nói riêng trong quá trình phát triển của nền kinh tế.
3. Phân loại bảo lãnh ngân hàng.
Tuỳ theo tiêu chí khác nhau mà bảo lãnh ngân hàng được chia thành các loại
khác nhau.
3.1. Theo phương thức phát hành có 3 loại:
- Bảo lãnh trực tiếp[
13
] : là hình thức ngân hàng trực tiếp thanh toán tiền bảo
lãnh cho người hưởng thụ mà không thông qua một trung gian nào, sau đó truy đòi nợ
từ người bảo lãnh sau đó truy đòi nợ từ người được bảo lãnh. Việc phát hành thư bảo
lãnh cho người thụ hưởng có thể thực hiện thông qua một ngân hàng trung gian có
thể là ngân hàng đại lý hoặc ngân hàng phục vụ người thụ hưởng nhưng đều gọi
chung là ngân hàng thông báo.
- Bảo lãnh gián tiếp[
14
] : là hình thức bảo lãnh qua đó người yêu cầu bảo lãnh
không trực tiếp liên hệ với ngân hàng phát hành mà thông qua một ngân hàng trung
gian thông thường là ngân hàng phục vụ mình hoặc là một ngân hàng có điều kiện
thuận lợi hơn trong việc giao dịch với ngân hàng phát hành.
- Đồng bảo lãnh[
15
] : là việc nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một
nghĩa vụ của khách hàng thông qua một tổ chức tín dụng đầu mối.
13

[[] Lê Trung Thành, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Trường Đại học Đà Lạt, 2002, trang 142.
14
[[]Lê Trung Thành, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Trường Đại học Đà Lạt, 2002, trang 143.
15
[[]Lê Trung Thành, Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại, Trường Đại học Đà Lạt, 2002, trang 144.
3.2. Theo mục đích bảo lãnh.
Bảo lãnh vay vốn : Bảo lãnh vay vốn là cam kết của TCTD với bên nhận bảo
lãnh về việc sẽ trả nợ thay cho khách hàng trong trường hợp khách hàng không trả
hoặc không trả đầy đủ, đúng hạn nợ vay đối với bên nhận bảo lãnh. [
16
]
Bảo lãnh thanh toán : Bảo lãnh thanh toán là cam kết của TCTD với bên
nhận bảo lãnh về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong
trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh
toán của mình khi đến hạn [
17
]. Bảo lãnh thanh toán thường được sử dụng trong các
hợp đồng mua bán hàng hoá, dịch vụ trả chậm. Thông thường, giá trị bảo lãnh thanh
toán bằng 100% giá trị hợp đồng
Bảo lãnh dự thầu : Bảo lãnh dự thầu là cam kết của của TCTD với bên mời
thầu, để bảo đảm nghĩa vụ tham gia dự thầu của khách hàng. Trường hợp khách hàng
phải nộp phạt do vi phạm quy định đấu thầu mà không nộp hoặc không nộp đầy đủ
tiền phạt cho bên mời thầu thì TCTD sẽ thực hiện thay. [
18
]
Bảo lãnh thực hiện hợp đồng : Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết của
TCTD với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ
của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách
hàng vi phạm hợp đồng và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực
hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay[

19
].
Bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm (bảo lãnh bảo hành) : Bảo lãnh đảm
bảo chất lượng sản phẩm là cam kết của của TCTD với bên nhận bảo lãnh, bảo đảm
việc khách hàng thực hiện đúng các thoả thuận về chất lượng của sản phẩm theo hợp
đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm chất lượng
sản phẩm và phải bồi thường cho bên nhận bảo lãnh mà không thực hiện hoặc thực
hiện không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay[
20
].
Bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước (bảo lãnh hoàn thanh toán) : Bảo lãnh
hoàn trả tiền ứng trước là cam kết của TCTD với bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm
nghĩa vụ hoàn trả tiền ứng trước của khách hàng theo hợp đồng đã ký kết với bên
16
[[]
Khoản 1 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng .
17
[[]
Khoản 2 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng .
18
[[]
: Khoản 3 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng .
19
[[]:
Khoản 4 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng .
20
[[]
: Khoản 5 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng .
nhận bảo lãnh. Trường hợp khách hàng vi phạm hợp đồng và phải hoàn trả tiền ứng
trước mà không hoàn trả hoặc hoàn trả không đầy đủ thì TCTD sẽ thực hiện thay. [

21
]
Bảo lãnh hải quan : Bảo lãnh nộp thuế là một loại bảo lãnh ngân hàng do tổ
chức tín dụng phát hành cho bên nhận bảo lãnh về việc bảo đảm nghĩa vụ nộp thuế
của khách hàng với cơ quan hải quan có thẩm quyền. Trường hợp khách hàng không
tái xuất hàng hóa, không nộp thuế hoặc nộp thuế không đầy đủ, đúng hạn thì TCTD
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Bảo lãnh phát hành chứng khoán : Với loại bảo lãnh này ngân hàng hỗ trợ
cho các công ty, tổ chức phát hành chứng khoán và phân phối chứng khoán bằng việc
thỏa thuận mua chứng khoán để bán.
II. Chế độ pháp lý về bảo lãnh ngân hàng.
1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
1.1. Quá trình hình thành và phát triển pháp luật về bảo lãnh ngân hàng.
Nền kinh tế Việt Nam sau 20 năm đổi mới đã có chuyển biến đáng kể, môi
trường pháp lý về đầu tư và thành lập doanh nghiệp đã thông thoáng, tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế tích cực tham gia các loại hình doanh nghiệp và góp phần thúc
đẩy kinh tế.
Lệnh số 38-LCT/HĐNN8 được Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố ngày 24/5/1990 dưới hình thức Pháp lệnh ngân
hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính là văn bản pháp lý cao nhất đầu tiên
của Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín
dụng. Theo pháp lệnh này thì thuật ngữ : “ Bảo lãnh ngân hàng” chưa được đề cập
đến vì vậy những quy định về bảo lãnh ngân hàng còn thiếu do đó hoạt động bảo lãnh
ngân hàng ở thời kỳ này còn rất hạn chế. Sau 4 năm sau Quyết định số 196/QĐ –
NH14 ngày 16 tháng 9 năm 1994 về việc ban hành “ Quy chế về nghiệp vụ bảo lãnh
của ngân hàng” đã đánh dấu sự phát triển của nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng. Tiếp
theo đó là sự ra đời của Quyết định số 217/QĐ – NH1 của Thống Đốc ngân hàng
Nhà nước ngày 17 tháng 8 năm 1996 về việc ban hành quy chế thế chấp, cầm cố tài
sản và bảo lãnh bay vốn ngân hàng cũng góp phần tạo nên nền tảng pháp lý cho hoạt
động bảo lãnh ngân hàng trong thời kỳ này. Đến năm 1997 thời kỳ diễn ra cuộc

khủng hoảng tài chính - tiền tệ các nước trong khu vực , việc đổ bể của nhiều TCTD
và việc phá sản hàng loạt các doanh nghiệp lớn đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt
21
[[]
: Khoản 6 Điều 5 Quy chế bảo lãnh ngân hàng.
động của ngân hàng tại Việt Nam. Các khuôn khổ pháp lý được quy định tại Pháp
lệnh ngân hàng trở nên không còn phù hợp và không bảo vệ được quyền lợi của các
TCTD, có nhiều xung đột pháp lý giữa Pháp lệnh về ngân hàng với các văn bản có
liên quan như : Bộ luật dân sự năm 1995, Luật Công ty…. Từ thực tiễn đó, Luật các
TCTD được xây dựng và được Quốc Hội thông qua ngày 12/12/1997 có hiệu lực thi
hành từ ngày 1/10/1998. Luật các TCTD ra đời đã đáp ứng được yêu cầu quản lý và
định hướng cho hoạt động phát triển các TCTD trong thời kỳ dài và góp phần tạo sự
ổn định về môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng. Lần đầu tiên thuật ngữ “
Bảo lãnh ngân hàng được đề cập” ( khoản 12 Điều 20 Luật các TCTD) và những quy
định về “ bảo lãnh ngân hàng” ( tại các Điều 58, Điều 59 Luật các TCTD) cũng được
thừa nhận.
Trên cơ sở quy định của Luật các TCTD, Thống đốc NHNN đã ban hành
Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000 về việc ban hành Quy chế bảo
lãnh ngân hàng. Quyết định này được sửa đổi, bổ sung bởi Quyết định số
386/2001/QĐ-NHNN ngày 11/4/2001 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ
sung một số điều trong Quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định
số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25/8/2000; Quyết định số 1348/2001/QĐ-NHNN
ngày 29/10/2001 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi một số quy định liên quan
đến thu phí bảo lãnh của các tổ chức tín dụng; Quyết định số 112/2003/QĐ- NHNN
ngày 11/2/2003 của Thống đốc NHNN về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy
chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14
ngày 25/8/2000 của Thống đốc NHNN thay thế cho các văn bản trên là Quyết định số
26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNN. Từ đó đến nay, quy chế
đã được nhiều lần thay đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế. Hiện nay, các
ngân hàng đều đang áp dụng Quy chế Bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết

định số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc NHNN.
1.2. Các văn bản hiện hành liên quan đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng.
Nguồn luật điều chỉnh các hoạt động của ngân hàng là các văn bản chứa các
quy phạm pháp luật về ngân hàng. Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế của
đất nước và quá trình hội nhập kinh tế thế giới các văn bản hiện hành của Việt Nam
điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng là rất nhiều do đó tác giả xin đưa kể ra một
số văn bản điều chỉnh chung còn những văn bản như : Nghị định, Quyết định tác giả
xin đưa vào phần danh mục tài liệu tham khảo.
Một số đạo luật điều chỉnh hoạt động bảo lãnh ngân hàng là :
(1). Bộ Luật Dân sự năm 2005.
(2). Bộ Luật Tố tụng Dân sự năm 2004.
(3). Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 ( sửa đổi và bổ sung năm 2004).
(4). Luật thương mại năm 2005.
(5). Luật xây dựng năm 2003.
(6). Luật đấu thầu năm 2005.
(7). Luật đất đai năm 2003( sửa đổi và bổ sung n ăm 2009).
(8). Luật Các công cụ chuyển nhượng năm 2005.
2. Các quy định cụ thể của pháp luật Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng.
2.1. Chủ thể trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng.
Một quan hệ pháp luật được cấu thành bởi : chủ thể, nội dung và khách thể.
Do đó nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, của xã hội cũng như của mỗi cơ quan, tổ
chức và cá nhân trong quan hệ pháp luật đó ta cần phải xác định rõ những tổ chức, cá
nhân nào được phép tham gia vào cá quan hệ pháp luật và những điều kiện cần để
tham gia với tư cách là chủ thể quan hệ pháp luật. Tổ chức, cá nhân nào thoả mãn
được những điều kiện đó thì có thể trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật đó[
22
].
Quan hệ pháp luật bảo lãnh ngân hàng cũng quy định những điều kiện cần thiết để tổ
chức, cá nhân có thể tham gia với tư cách là chủ thể. Chủ thể trong quan hệ pháp luật
bảo lãnh ngân hàng chủ yếu : Bên bảo lãnh, Bên nhận bảo lãnh, Bên được bảo lãnh.

2.1.1. Bên bảo lãnh.
Bên bảo lãnh trong nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là các tổ chức tín dụng có
đủ điều kiện theo quy định. Các tổ chức tín dụng này bao gồm ngân hàng thương
mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng liên doanh, một số tổ
chức tín dụng khác được ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh
đối với khách hàng. Theo đó để ngân hàng có thể thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh thì
ngân hàng cần phải đáp ứng những điều kiện sau :
- Được NHNN cho phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh đối với khách hàng
( thường được ghi rõ trong giấy phép thành lập và hoạt động của tổ chức tín dụng do
NHNN cấp).
- Có đăng ký kinh doanh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng và nghiệp vụ này phải
được ghi rõ trong giấy đăng ký kinh doanh đã được cấp.
22
[[ ]Giáo trình, Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Trường ĐH Luật Hà Nội, NXB Tư Pháp năm 2006.
2.1.2. Bên nhận bảo lãnh.
Bên nhận bảo lãnh trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng được hiểu là những người có
quyền thụ hưởng một món nợ do người được bảo lãnh thanh toán từ một nghĩa vụ trong các
hợp đồng hoặc các nghĩa vụ thanh toán ngoài hợp đồng.
Về nguyên tắc, khi tham gia hợp đồng bảo lãnh với các tổ chức tín dụng (bên bảo
lãnh), bên nhận bảo lãnh phải thoả mãn một số điều kiện nhất định. Đó là:
- Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Điều kiện này do pháp
luật quy định như một nguyên tắc chung trong pháp luật hợp đồng, không chỉ áp
dụng riêng cho hợp đồng bảo lãnh.
- Có giấy tờ, tài liệu hay bằng chứng khác chứng minh quyền chủ nợ trong một
nghĩa vụ cần đựơc bảo đảm. Điều kiện này thường do các tổ chức tín dụng – bên bảo lãnh
đưa ra để bảo đảm quyền lợi của mình trong hợp đồng bảo lãnh. Trên thực tế, điều kiện
này khó có thể được bên nhận bảo lãnh đáp ứng. Vì họ thường không giao kết hợp
đồng với khách hàng khi khách hàng chưa có sự bảo lãnh chắc chắn của một ngân
hàng uy tín.
2.1.3. Bên được bảo lãnh.

Cá nhân, tổ chức muốn được TCTD đồng ý bảo lãnh nghĩa vụ tài sản cho mình đối
với bên có quyền thì phải thoả mãn những điều kiện chủ yếu sau :
- Có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự theo quy định của
pháp luật.
- Mục đích đề nghị tổ chức tín dụng là hợp pháp.
- Có khả năng tài chính để thực hiện nghĩa vụ được tổ chức tín dụng bảo lãnh trong
thời hạn được can kết.
- Có sự đảm bảo bằng tài sản cho nghĩa vụ hoàn trả trong tương lai đối với TCTD
bảo lãnh bằng các hình thức như : ký quỹ, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của người
thứ ba; nếu các bên thoả thuận khi giao kết hợp đồng dịch vụ bảo lãnh thì thoả thuận này
phải được tuân theo các quy định của Nghị định 163/2006/NĐ – CP của Chính phủ ngày 29
/11/2006 về giao dịch đảm bảo.
Việc xác định đúng các điều kiện của một tổ chức, cá nhân trong quan hệ bảo lãnh
ngân hàng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của các
bên tham gia. Trong các điều kiện đó thì điều kiện về năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự là yếu tố có tính quyết định đến việc thực hiện hoạt động cho vay. Bởi lẽ,
theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005 thì người mất năng lực hành vi dân sự khi thực
hiện giao dịch thì phải do người đại diện theo pháp luật xác lập và thực hiện[
23
]. Do đó nếu
không kiểm tra kỹ tiêu chí này thì sẽ dẫn đến rủi ro cho các bên tham gia quan hệ bảo lãnh
ngân hàng. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì cá nhân sinh ra ở Việt Nam, tổ chức
được thành lập tại Việt Nam thì năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự sẽ được xác
định theo pháp luật Việt Nam. Như vậy, cá nhân nước ngoài, hoặc pháp nhân nước ngoài sẽ
được xác định theo hệ thống pháp luật nào? Nếu như có xung đột giữa luật Việt Nam và luật
nước ngoài được căn cứ để xác định năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự sẽ được
giải quyết như thế nào?
Theo các Điều 760, 761,762,763 và 764 của Bộ Luật Dân sự năm 2005 , nếu trong
quan hệ bảo lãnh ngân hàng có cá nhân là người nước ngoài tham gia với tư cách là bên
được bảo lãnh thì việc xác định năng lực pháp luật sẽ tương đương hoặc bằng với công dân

của nước sở tại còn năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó sẽ áp dụng theo pháp
luật của người nước ngoài đó là công dân. Nếu trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng có pháp
nhân nước ngoài tham với tư cách là bên được bảo lãnh thì việc xác định năng lực chủ thể
trở nên khó khăn hơn. Do pháp luật của có nước có những quy định khác nhau về năng lực
pháp luật của pháp nhân ( có nước quy định năng lực pháp luật của pháp nhân được tính từ
khi pháp nhân được thành lập, có nước quy định năng lực pháp luật của pháp nhân được
tính khi pháp nhân đăng ký kinh doanh; có nước cho phép pháp nhân được kinh doanh trong
một số lĩnh vực ngành nghề nhưng có nước lại không cho phép kinh doanh trong lĩnh vực
đó) vì vậy đã làm nảy sinh hiện tượng xung đột pháp luật về năng lực chủ thể của pháp nhân
trong quan hệ từ đó gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định tính đầy đủ năng lực
pháp luật dân sự của pháp nhân nước ngoài. Việc giải quyết vấn đề xung đột này chủ yếu
được dựa theo nguyên tắc áp dụng luật của nước mà pháp nhân mang quốc tịch trong đó
việc xác định quốc tịch của pháp nhân lại tuỳ theo quy định của từng nước. Ví dụ trong hệ
thông luật Châu Âu lực địa ( Pháp, Bồ đào Nha, Tây ba Nha …) thì pháp nhân mang quốc
tịch của một nước khi có trụ sở chính đặt trên lãnh thổ của nước đó, còn trong hệ thống pháp
luật Anh - Mỹ thì xác định quốc tịch theo nơi đăng ký của pháp nhân. Theo pháp luật Việt
Nam tại Điều 765 Bộ Luật Dân sự năm 2005 thì việc giải quyết xung đột pháp luật như sau :
- Năng lực pháp luật dân sự được xác định theo pháp luật của nước mà pháp nhân
nước ngoài đó mang quốc tịch ( pháp nhân mang quốc tịch của nước nào thì năng lực pháp
luật của nó được xác định theo pháp luật của nước đó). Tuy nhiên trên thực tế thì việc xác
định dựa trên tiêu chí này sẽ gây ra khó khăn trong việc xác định luật áp dụng chẳng hạn, Ví
23
[[] Khoản 2 Điều 22 Bộ Luật dân sự năm 2005.
dụ, Công ty A được đăng ký thành lập trên lãnh thổ của Pháp nhưng lại đặt trụ sở
điều hành trên lãnh thổ của Anh, như vậy theo pháp luật của Pháp, công ty A có quốc
tịch của Anh, còn theo Pháp luật của Anh thì công ty A lại có quốc tịch của Pháp.
Công ty A ký kết hợp đồng bảo lãnh thực hiện hợp đồng với ngân hàng C tại Việt
Nam, như xuất phát từ quy phạm xung đột, luật áp dụng luật của quốc gia người bán,
vậy trong trường hợp này, luật của quốc gia nào sẽ được áp dụng để xác định tư cách
pháp nhân của công ty A, luật của Pháp hay luật của Anh.

- Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập các giao dịch dân sự tại
Việt thì năng lực pháp luật dân sự của nó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
Chẳng hạn, pháp nhân mang quốc tịch của nước ngoài nhưng đặt văn phòng đại diện
tại Việt Nam, trong quá trình giao dịch dân sự với các cá nhân, tổ chức Việt Nam thì
khả năng hưởng cá quyền và nghĩa vụ của văn phòng đại diện đó sẽ được xác định
theo pháp luật Việt Nam.
2.2. Cam kết bảo lãnh.
2.2.1. Hợp đồng bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh là thoả thuận bằng văn bản giữa TCTD và bên nhận bảo
lãnh hoặc giữa TCTD, bên nhận bảo lãnh, khách hàng và các bên liên quan (nếu có)
về việc TCTD sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh.
2.2.2. Hợp đồng cấp bảo lãnh.
Hợp đồng cấp bảo lãnh là văn bản thoả thuận giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng và các bên có liên quan (nếu có) về quyền và nghĩa vụ của các bên trong
việc thực hiện bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho khách hàng ơ [
24
]
Hợp đồng cấp bảo lãnh có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ nếu các bên
liên quan thoả thuận. Nội dung hợp đồng cấp bảo lãnh bao gồm: [
25
]
- Tên, địa chỉ của bên bảo lãnh, khách hàng và thời gian ký hợp đồng;
- Số tiền, thời hạn bảo lãnh và phí bảo lãnh
- Mục đích bảo lãnh;
24
[[]
: Khoản 3 Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
25

[[]
: Điều 10 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
- Điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
- Hình thức bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín dụng
bảo lãnh, giá trị tài sản làm đảm bảo;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên;
- Quy định về hoàn trả của khách hàng sau khi tổ chức tín dụng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh;
- Quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh;
- Chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của các bên;
- Những thoả thuận khác.
2.3. Phạm vi bảo lãnh.
Theo quy định tại Điều 363 Bộ Luật Dân sự 2005, phạm vi bảo lãnh có thể là
một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ. Nếu không có thoả thuận gì khác thì người bảo lãnh
phải bảo lãnh cả tiền lãi trên nợ gốc trong phạm vi bảo lãnh đồng thời phải bảo lãnh
cả khoản tiền phạt cũng như tiền bồi thường thiệt hại. Như vậy, phạm vi bảo lãnh
gồm bao nhiêu phần so với tổng giá trị của nghĩa vụ chính tuỳ thuộc vào sự cam kết,
xác định của người bảo lãnh.
Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ các nghĩa vụ sau
đây: [
26
]
- Nghĩa vụ trả nợ gốc, lãi vay và các chi phí khác có liên quan đến khoản cho
vay;
- Nghĩa vụ thanh toán tiền mua vật tư, hàng hóa, máy móc, thiết bị và các
khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án hoặc phương án đầu tư, phương án
sản xuất, kinh doanh hoặc dịch vụ đời sống;
- Nghĩa vụ thanh toán các khoản thuế, các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà
nước;
- Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia dự thầu;

- Nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia quan hệ hợp đồng với bên nhận bảo
lãnh, như thực hiện hợp đồng, bảo đảm chất lượng sản phẩm, nhận và hoàn trả tiền
ứng trước;
- Các nghĩa vụ hợp pháp khác do các bên thỏa thuận cam kết trong các hợp
đồng liên quan.
26
[[]
: Điều 6 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
Ngoài ra, các tổ chức tín dụng còn bị giới hạn trị giá hợp đồng bảo lãnh theo
quy định sau: [
27
]
- Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho một khách hàng không được
vượt quá 15% (mười lăm phần trăm) vốn tự có của tổ chức tín dụng. Trường hợp tổ
chức tín dụng phải trả thay cho khách hàng dẫn đến tổng dư nợ cho vay và dư nợ do
trả thay vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng phải ngừng
ngay việc cho vay và bảo lãnh mới đối với khách hàng đó, đồng thời thu hồi nợ để
đảm bảo tổng mức dư nợ cho vay đối với một khách hàng theo quy định.
- Tổng số dư bảo lãnh cho một khách hàng của Chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài không được vượt quá 15% vốn tự có của Ngân hàng nước ngoài.
- Tổ chức tín dụng xác định tổng mức bảo lãnh phù hợp với khả năng tài chính
của mình, bảo đảm thực hiện theo quy định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước về
các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Nếu khách hàng có yêu cầu bảo lãnh vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín
dụng thì tổ chức tín dụng cùng với các tổ chức tín dụng khác thực hiện việc bảo lãnh
theo hình thức đồng bảo lãnh, tức là nhiều tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh cho một
nghĩa vụ của khách hàng.
2.4. Nội dung bảo lãnh
Nội dung của bảo lãnh gồm: [
28

]
- Tên, địa chỉ của tổ chức tín dụng, khách hàng, bên nhận bảo lãnh;
- Ngày phát hành bảo lãnh và số tiền phát hành;
- Hình thức và điều kiện thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
- Thời hạn bảo lãnh;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên;
- Giải quyết tranh chấp phát sinh;
- Chuyển nhượng quyền, nghĩa vụ của các bên;
- Các thỏa thuận khác.
Bảo lãnh ngân hàng có thể được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ nếu các bên
liên quan có thỏa thuận.
2.5. Thẩm quyền ký bảo lãnh.
27
[[]
: Điều 7 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
28
[[]
: Khoản 2 Điều 11 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
Thẩm quyền ký bảo lãnh là người đại diện theo pháp luật, người này có thể
uỷ quyền hoặc ban hành văn bản qui định thẩm quyền ký các văn bản bảo lãnh của
các chức danh trong hệ thống của tổ chức tín dụng[
29
]. Tuy nhiên trên thực tế vấn đề
này còn nhiều bất cập, về nguyên tắc đại diện theo pháp luật ngân hàng thương mại
chỉ có một người duy nhất đó là cá nhân được Điều lệ hoặc pháp luật chỉ định là
người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, trong khi theo quy định này thì nguời
đại diện theo pháp luật có thể uỷ quyền hoặc ban hành văn bản quy định thẩm quyền
ký các văn bản bảo lãnh do đó trên thực tế thì người đại diện theo uỷ quyền là rất
nhiều có thể là bất kỳ ai được người đại diện theo pháp luật uỷ quyền hợp lệ. Như
vậy vấn đề đặt ra là tiêu chí để xác định người đại diện hợp pháp cho ngân hàng như

thế nào? Tác giả xin đưa ra tiêu chí để xác định người đại diện hợp pháp như sau :
Thứ nhất, Tiêu chí về mặt hình thức : Xác định người đại diện đó được chỉ
định bằng phương thức và bằng chứng nào: pháp luật? Điều lệ của pháp nhân hay
bằng văn bản uỷ quyền hợp lệ khác. Nếu như xác định theo tiêu chí này ta có thể căn
cứ vào : Điều lệ của pháp nhân ngân hàng đã được chuẩn uy; Quyết định bổ nhiệm;
Giấy uỷ quyền hoặc hợp đồng uỷ quyền; văn bản công nhận nhiệm vụ cho cá nhân là
cán bộ quản lý, nhân viên của ngân hàng; các văn bản khác thể hiện ý chí đích thực
của pháp nhân ngân hàng trong việc lựa chọn người đại diện cho mình.
Thứ hai, Tiêu chí về nội dung : Xác định xem người đại diện nhân danh ai khi
tiến hành giao dịch với người thứ ba : nhân danh pháp nhân ngân hàng hay nhân danh
chính họ.
2.6. Thực hiện bảo lãnh ngân hàng.
2.6.1. Thời hạn bảo lãnh.
Thời hạn bảo lãnh được xác định từ khi phát hành bảo lãnh cho đến thời điểm
chấm dứt bảo lãnh được ghi trong cam kết bảo lãnh. Trường hợp cam kết bảo lãnh
không ghi cụ thể thời điểm chấm dứt bảo lãnh thì thời điểm chấm dứt bảo lãnh được
xác định tại thời điểm nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt.
Nghĩa vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng chấm dứt trong các trường hợp sau: [
30
]
- Khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh;
- Tổ chức tín dụng đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh;
29
[[] Điều 14, Quyết định số 26/2006/QĐ – NHNN ngày 26 tháng 6 năm 2006 của Thống Đốc ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về việc ban hành “ Quy chế bảo lãnh ngân hàng”.
30
[[]
: Điều 20 Quy chế bảo lãnh ngân hàng
- Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;
- Thời hạn của bảo lãnh đã hết;

- Bên nhận bảo lãnh đồng ý miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên bảo
lãnh hoặc nghĩa vụ bảo lãnh chấm dứt theo quy định của pháp luật;
- Theo thoả thuận của các bên.
Quy chế bảo lãnh ngân hàng cũng quy định rõ ràng các trường hợp được miễn
nghĩa vụ bảo lãnh tại Điều 19 như sau: Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn
việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có
quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Trong trường hợp một trong số các tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh liên đới
cho một nghĩa vụ của khách hàng được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh
của mình thì những tổ chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của
họ.
2.6.2. Các biệm pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng bảo lãnh.
- Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận áp dụng hoặc không áp dụng các
biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín dụng bảo lãnh.
- Các biện pháp bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng đối với tổ chức tín
dụng bảo lãnh bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, bảo lãnh của bên thứ ba, ký
quỹ và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định của pháp luật.
2.6.3. Phí bảo lãnh.
Điều 16 Quy chế bảo lãnh ngân hàng quy định về phí bảo lãnh như sau:
- Bên bảo lãnh thoả thuận mức phí bảo lãnh đối với khách hàng, phù hợp với
chi phí của tổ chức tín dụng và mức độ rủi ro của nghiệp vụ này.
- Trong trường hợp có bảo lãnh đối ứng, xác nhận bảo lãnh, mức phí bảo lãnh
do các bên thoả thuận, trên cơ sở mức phí bảo lãnh được khách hành chấp nhận thanh
toán.
- Các bên tham gia đồng bảo lãnh thoả thuận mức phí bảo lãnh mỗi bên được
hưởng, trên cơ sở thoả thuận về tỷ lệ tham gia đồng bảo lãnh của từng bên và mức
phí bảo lãnh thu được của khách hàng.
- Trường hợp tổ chức tín dụng bảo lãnh cho một nghĩa vụ mà nhiều khách
hàng cùng tham gia thực hiện thì tổ chức tín dụng thoả thuận với từng khách hàng về

mức phí phải trả, trên cơ sở nghĩa vụ tương ứng của mỗi khách hàng trong hợp đồng
liên đới trách nhiệm giữa các khách hàng.
2.7. Giải quyết tranh chấp trong hợp đồng bảo lãnh và các thức xử lý.
2.7.1. Giải quyết tranh chấp bằng thương lượng.
Tự thương lượng là cách thức thường được áp dụng để giải quyết mâu thuẫn.
Theo quy định của pháp luật, để giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng, các bên có
quyền tự thương lượng, hoà giải với nhau về các xung đột, bất đồng trên tinh thần
bình đẳng, thiện chí, hợp tác và cùng có lợi. Quy định này nhằm tôn trọng quyền tự
định đoạt của các bên và giúp cho các bên tránh được những chi phí không cần thiết
do phải theo kiện trước toà.
Kết quả của quá trình này này có thể là mâu thuẫn được giải quyết hoặc không
được giải quyết, thậm chí mâu thuẫn giữa các bên ngày càng trầm trọng hơn, dẫn đến
quan hệ hợp đồng có thể được tiếp tục hoặc không thể tiếp tục được nữa. Mặc dù
vậy, khi các bên cùng thiện chí và cùng mong muốn giữ quan hệ kinh doanh lâu dài,
cuộc thương lượng sẽ dễ dàng đạt kết quả. Vì thế vụ tranh chấp sẽ được giải quyết
dứt điểm bằng sự xác định rõ ràng phần quyền, nghĩa vụ tài sản của mỗi bên. Hơn thế
nữa, do sự thống nhất ý chí cao giữa các bên cho nên những quyền và nghĩa vụ này
được thực hiện dễ dàng, đầy đủ và làm cơ sở để giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp.
2.7.2. Giải quyết tranh chấp bằng hoà giải.
Hòa giải là một trong các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tố tụng, bởi
vì nó được thực hiện ngoài hoạt động của các cơ quan xét xử do chính Nhà nước lập
ra là các tòa án. Đây là hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia của bên thứ ba
độc lập do hai bên cùng chấp nhận hoặc chỉ định, hòa giải viên này đóng vai trò trung
gian để hỗ trợ cho các bên nhằm tìm kiếm những giải pháp thích hợp cho việc giải
quyết xung đột. Những người hòa giải phải độc lập, không bị lệ thuộc bất kỳ ai ngoài
nguyên tắc khách quan và công bằng bởi vì nhiệm vụ của họ là đạt được sự hòa giải
giữa các bên. Những đề xuất của hòa giải viên là kết quả của quá trình trao đổi ý kiến
với các bên và từng bên, có thể được đưa ra ở bất kỳ giai đoạn nào của quá trình hòa
giải.
Hòa giải có tính chất tự nguyện của các bên, thể hiện từ khi lựa chọn phương

thức tới việc tiến hành phương thức, cuối cùng là thừa nhận kết quả của nó. Hòa giải
cũng mang tính chất ôn hòa thể hiện trong quá trình hòa giải các bên không coi nhau
như là các bên tranh chấp quyền lợi với mình mà coi nhau như là những người có
cùng chí hướng để tìm ra sự thật nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của cả hai bên và
quyết định của người hòa giải không có ý nghĩa bắt buộc với các bên mà nó chỉ có ý
nghĩa khi các bên chấp nhận một cách tự nguyện.
2.7.3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài.
Trọng tài thương mại được thành lập để giải quyết các tranh chấp thương mại.
Tuy nhiên, tranh chấp thương mại chỉ có thể thuộc thẩm quyền của trọng tài thương
mại nếu như các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài. Theo PLTTTM 2003,
phạm vi giải quyết các hoạt động liên quan đến thương mại của trọng tài được quy
định tại Khoản 2 Điều 3. Theo đó muốn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thì các
bên phải có thỏa thuận, thỏa thuận này có thể trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp
nhưng phải trước khi gửi hồ sơ lên trọng tài. Thỏa thuận trọng tài đó có thể là thỏa
thuận trong hợp đồng hoặc có thể bằng một văn bản riêng biệt. Các bên có thể tự thỏa
thuận với nhau lựa chọn bất kỳ tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp. Với tư
cách là một tổ chức phi chính phủ thì trọng tài thương mại không có cơ quan cấp trên
nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm. Phán quyết của trọng tài có hiệu
lực kể từ ngày được công bố và nó không bị kháng cáo hay kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án và cũng không có thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm. Nếu quyết định của trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của
một trong các bên thì nó sẽ được thi hành, như vậy, quyết định trọng tài có thể được
cưỡng chế thi hành nếu như quyết định này là hợp pháp. Mặt khác, phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại còn có một số ưu điểm so với các phương
thức giải quyết tranh chấp khác như tòa án, thương lượng hay hòa giải thẻ hiện việc
giải quyết tranh chấp đảm bảo bí mật thương mại cho các bên, tiết kiệm nhờ thủ tục
tố tụng đơn giản, ngắn gọn, tốc độ giải quyết tranh chấp nhanh.
2.7.4. Giải quyết tranh chấp bằng toà án.
Tranh chấp về giao dịch bảo lãnh ngân hàng có thể được giải quyết tại tòa án
theo quy định của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004. Toà án có thẩm quyền giải

quyết theo thủ tục tố tụng dân sự đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo
lãnh mà các bên có thoả thuận về việc yêu cầu toà án giải quyết. Ngoài ra, nếu các
bên không thoả thuận trong hợp đồng cơ quan nào sẽ giải quyết tranh chấp thì về
nguyên tắc thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về toà án.

CHƯƠNG II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO
LÃNH NGÂN HÀNG TẠI NHNo & PTNT CHI NHÁNH TÂY
HÀ NỘI
I. Tổng quan về sự hình thành và phát triển NHNo & PTNT Việt Nam Chi
Nhánh Tây Hà Nội.
1. Lịch sử hình thành và phát triển NHNo & PTNT Việt Nam.
Trong giai đoạn từ năm1988 đến năm 1990 Ngân hàng Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Việt Nam có tên là Ngân hàng phát triển Nông nghiệp Việt Nam có
trụ sở tại số 7, Lê Lai, Hoàn Kiếm Hà Nội theo Nghị Định số 53/HĐBT của Hội
đồng Bộ Trưởng (hiện nay là Chính Phủ) ngày 26 tháng 3 năm 1988 về việc thành
lập các ngân hàng chuyên doanh. Ngân hàng phát triển Nông nghiệp được thành lập
trên cơ sở một số cục, Vụ Ngân hàng Nhà nước trung ương, các chi nhánh trực thuộc
được tách từ các ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh thành phố và tiếp nhận toàn bộ
mạng lưới, con người, bộ máy, cơ sở vật chất của các ngân hàng nhà nước chi nhánh
huyện, thị.
Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1996 theo Quyết định số 400/CT ngày 14
tháng 11 năm 1990 của Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng (hiện nay là Thủ tướng Chính
Phủ) về việc thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thay thế cho Ngân hàng
Phát triển Nông Nghiệp Việt Nam với mục đích hoạt động là ngân hàng đa năng,
hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, là một pháp nhân, hạch
toán kinh tế độc lập, tự chủ, tự chụi trách nhiệm về hoạt động của mình trước pháp
luật. Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam có trụ sở chính tại số 4, Phạm Ngọc thạch,
Đống Đa, Hà Nội. Từ năm 1992 Ngân hàng Nông nghiệp mở ra hoạt động kinh
doanh đối ngoại gồm cả cho vay ngoại tệ và thanh toán quốc tế, đồng thời là Ngân
hàng thương mại đầu tiên thực hiện dự án của các tổ chức quốc tế.

Giai đoạn năm 1996 đến nay : Ngày 15 tháng 11 năm 1996 được Thủ tướng
uỷ quyền, Thống đốc Ngân hàng nhà nước ký Quyết định số 280/QĐ-NHNN đổi tên
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam là
doanh nghiệp Nhà nước đặc biệt thực hiện hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu
của Nhà nước, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và chụi sự quản lý trực tiếp
của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chủ yếu vẫn là nông nghiệp, nông
thôn, nông dân. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có trụ sở tại số 2 -
Láng Hạ- Ba Đình- Hà Nội với vốn điều lệ là 2270 tỷ Việt Nam đồng. Tính đến quý
III năm 2009 tổng tài sản của Ngân hàng đạt gần 483 ngàn tỷ Việt Nam đồng, vốn
điều lệ đạt 11.650.544.059.414 VND, vốn tự có của Ngân hàng 11.847.364.387.985
VND, lợi nhuận tăng 2,76 lần so với đầu năm[
31
].
Theo Quyết định số 67/QĐ –TTg ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách tín dụng phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông
thôn. Do đó hoạt động tín dụng của ngân hàng được phát triển , đối tượng cho vay đa
dạng, hồ sơ thủ tục vay vốn đơn giản, mạng lưới Chi nhánh, Văn phòng giao dịch
mở rộn tới cấp xã.
Năm 2008 là năm ghi dấu chặng đường 20 năm xây dựng và trưởng thành của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và cũng là năm có tính
quyết định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo chủ trương của Đảng, Chính
phủ. Trong chiến lược phát triển của mình, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam sẽ trở thành một Tập đoàn tài chính đa nghành, đa sở hữu, hoạt
động đa lĩnh vực. Theo đó, toàn hệ thống xác định những mục tiêu lớn phải ưu tiên,
đó là: Tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chủ lực trên thị trường tài chính nông thôn, luôn là
người bạn đồng hành thủy chung tin cậy cuả 10 triệu hộ gia đình; xúc tiến cổ phần
hóa các công ty trực thuộc, tiến tới cổ phần hóa Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển

Nông thôn Việt Nam theo định hướng và lộ trình thích hợp, đẩy mạnh tái cơ cấu ngân
hàng, giải quyết triệt để vấn đề nợ xấu, đạt hệ số an toàn vốn theo tiêu chuẩn quốc tế,
phát triển hệ thống công nghệ thông tin, đa dạng hóa sản phẩm , nâng cao chất lượng
dịch vụ, chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, đảm bảo các lợi ích của người lao
động và phát triển thương hiệu - văn hóa của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Việt Nam. Phạm vi , quy mô hoạt động của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Việt Nam được mở rộng nhanh chóng với việc ra đời nhiều
31
[[] Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam Bảng cân đối kế toán hợp
nhất Quý III năm 2009

×