Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

PHÁP LUẬT về KINH DOANH DỊCH vụ XUYÊN BIÊN GIỚI tại VIỆT NAM TRONG bối CẢNH TOÀN cầu hóa – cơ hội và THÁCH THỨC đối với DOANH NGHIỆP KINH DOANH TRONG LĨNH vực KINH DOANH GAME và MẠNG xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10 MB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

ĐẮC THỊ HOA

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ XUYÊN BIÊN GIỚI
TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA – CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KINH
DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH GAME
VÀ MẠNG XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
--------------------

ĐẮC THỊ HOA

PHÁP LUẬT VỀ KINH DOANH DỊCH VỤ XUYÊN BIÊN GIỚI
TẠI VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA – CƠ
HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP KINH
DOANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH GAME
VÀ MẠNG XÃ HỘI


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MINH HẰNG

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả


LỜI CẢM ƠN
Luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Ứng dụng – Kinh tế với đề tài “Pháp luật
về kinh doanh dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
– Những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
game và mạng xã hội” là kết quả của quá trình cố gắng nghiên cứu của tác giả dƣới
sự hƣớng dẫn nhiệt tình của Tiến sĩ Nguyễn Thị Minh Hằng – Trƣởng khoa Luật
trƣờng Đại học Ngoại thƣơng Hà Nội. Qua trang viết này tôi xin đƣợc gửi lời cảm
ơn tới những ngƣời đã giúp đỡ tôi trong thời gian học tập - nghiên cứu khoa học
vừa qua.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giảng viên trƣờng Đại học Luật Hà Nội
đã tận tình truyền đạt rất nhiều kiến thức bổ ích trong suốt quá trình học tập của tôi
tại khóa học Thạc sĩ Luật – chuyên ngành Ứng dụng tại Đại học Luật Hà Nội.

Xin chân thành cảm ơn bà Dƣơng Thị Thu Hƣơng – Trƣởng phòng Pháp chế
Công ty Cổ phần Bạch Minh đã đóng góp những ý kiến rất sâu sắc về vấn đề tác
động của hoạt động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới của doanh nghiệp nƣớc ngoài
vào Việt Nam trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ mạng xã hội và game.
Xin chân thành cảm ơn ông Hoàng Vĩnh Bảo – Thứ trƣởng Bộ Thông tin và
Truyền thông, xin chân thành cảm ơn bà Nguyễn Thị Mai Hƣơng – Phó chánh
Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông thành phố Hà Nội về những thông tin và ý
kiến đánh giá vô cùng quý giá liên quan đến thực trạng quản lý dịch vụ xuyên biên
giới vào Việt Nam trong lĩnh vực mạng xã hội và game hiện nay.
Và cuối cùng, tôi xin tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đối với Tiến sĩ
Nguyễn Thị Minh Hằng – Trƣởng khoa Luật – Đại học Ngoại Thƣơng Hà Nội đã
trực tiếp tận tình hƣớng dẫn cũng nhƣ cung cấp tài liệu thông tin khoa học cần thiết
cho luận văn này.
Tác giả


MỤC LỤC
1.

Giới thiệu về đề tài và tính cấp thiết của đề tài .............................................. 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 2

3.

Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài .................................. 3

4.


Mục tiêu nghiên cứu của đề tài ...................................................................... 3

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu ............................................................................... 4

6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ....................................................... 4

7.

Bố cục của Luận văn ...................................................................................... 5

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ
XUYÊN BIÊN GIỚI ................................................................................................. 6
1.1.

Định nghĩa về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới ..................................... 6

1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm của thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới ..................... 6

1.1.1.1. Khái niệm của Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới..................................... 6
1.1.1.2. Đặc điểm của Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới .................................... 12
1.1.2.

Cấu trúc của Pháp luật về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới................. 14


1.1.2.1. Các văn bản quy phạm pháp luật nội địa của Việt Nam .............................. 14
1.1.2.2. Các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam tham gia .............................................. 16
1.1.3.

Vị trí của dịch vụ Mạng xã hội và Game trong thương mại dịch vụ xuyên

biên giới

............................................................................................................... 18

1.1.3.1. Vị trí của dịch vụ Mạng xã hội trong Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới19
1.1.3.2. Vị trí của dịch vụ Game trong Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới .......... 22
1.2.

Pháp luật về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới ................................. 24

1.2.1.

Khái niệm pháp luật về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới ..................... 24

1.2.2.

Đặc điểm pháp luật về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới ...................... 25

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUÂT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ CUNG CẤP DỊCH VỤ XUYÊN BIÊN GIỚI TRONG LĨNH
VỰC GAME VÀ MẠNG XÃ HỘI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC NÀY .............................. 28



2.1.

Thực trạng pháp luật về cung cấp dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam

trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mạng xã hội và trò chơi điện tử ...................... 28
2.1.1.

Thực trạng pháp luật trong nước về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới

trong lĩnh vực cung cấp Game và Mạng xã hội ........................................................ 28
2.1.2.

Thực trạng các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia về Thương mại

dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực Mạng xã hội và Game ................................. 32
2.1.3.

Mức độ tương thích của pháp luật quốc gia Việt Nam với các Điều ước

quốc tế mà Việt Nam đã tham gia về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh
vực cung cấp Mạng xã hội và Game ......................................................................... 34
2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật Thƣơng mại dịch vụ trong lĩnh vực cung

cấp dịch vụ Mạng xã hôi và Game tại Việt Nam .................................................. 36
2.2.1.

Thực tiễn thi hành pháp luật Việt Nam của các doanh nghiệp nước ngoài


đang cung cấp dịch vụ mạng xã hội và game vào Việt Nam .................................... 36
2.2.2.

Thực tiễn thi hành pháp luật của doanh nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực

cung cấp dịch vụ Mạng xã hội và Game ................................................................... 49
2.2.2.1. Điểm tích cực ............................................................................................... 50
2.2.2.2. Khó khăn, vƣớng mắc .................................................................................. 52
2.3.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này60

2.3.1.

Nghiên cứu kỹ lưỡng và đánh giá tác động của các cam kết quốc tế trước

khi tham gia ............................................................................................................... 61
2.3.2.

Rà soát và loai bỏ các điều luật quốc gia vi phạm các cam kết quốc tế ..... 62

2.3.3.

Hoàn thiện hành lang pháp lý ...................................................................... 63

2.3.4.

Tiến hành các biện pháp can thiệp kỹ thuật và tài chính ............................ 65


2.3.5.

Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước: ................................................................ 66

2.3.5.1. hỗ trợ về thuế, hỗ trợ về chính sách vay vốn, hỗ trợ về thủ tục đầu tƣ, kinh
doanh

........................................................................................................ 66

2.3.5.2. Tạo ra các ƣu đãi về đầu tƣ .......................................................................... 67
2.3.5.3. Cởi mở trong quản lý hành chính ................................................................ 68


KẾT LUẬN .............................................................................................................. 70
PHỤ LỤC 1 - PHỎNG VẤN CHUYÊN GIA
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Giới thiệu về đề tài và tính cấp thiết của đề tài
Hội nhập kinh tế quốc tế là một bƣớc đi quan trọng trong việc thực hiện chủ

trƣơng đổi mới đất nƣớc, đặc biệt là trong xu hƣớng toàn cầu hóa nhƣ hiện nay. Để
bƣớc vào sân chơi chung của nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã từng bƣớc tham gia
rất nhiều các Điều ƣớc quốc tế cả song phƣơng và đa phƣơng để phục vụ cho quá
trình hội nhập toàn diện các lĩnh vực của nền kinh tế (bao gồm cả thƣơng mại hàng

hóa và thƣơng mại dịch vụ). Song song với việc ký kết các Điều ƣớc quốc tế để
phục vụ cho quá trình hội nhập, nội luật hóa các thỏa thuận đã đạt đƣợc và tạo ra cơ
chế thực thi các thỏa thuận đó cũng là một vấn đề cần quan tâm. Có nhƣ thế, chúng
ta mới đảm bảo đƣợc môi trƣờng tốt nhất cho các doanh nghiệp trong nƣớc khi mở
cửa đón nhận các luồng đầu tƣ từ các quốc gia khác trên thế giới.
Trong giai đoạn bùng nổ internet dẫn đến việc cung cấp dịch vụ từ lãnh thổ
của quốc gia này tới lãnh thổ của quốc gia khác ngày càng trở nên dễ dàng. Đặc biệt
là các dịch vụ đƣợc cung cấp trên môi trƣờng mạng nhƣ dịch vụ Mạng xã hội và
dịch vụ game. Điều này đặt ra một nhu cầu cấp thiết của các quốc gia nói chung và
Việt Nam nói riêng về vấn đề quản lý các dịch vụ đƣợc cung cấp xuyên biên giới
của tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài vào nội địa quốc gia. Hiện nay sự quản lý của nhà
nƣớc Việt Nam đang vừa không kiểm soát đƣợc sự phát triển ồ ạt của các dịch vụ
mạng xã hội và game đƣợc cung cấp từ nƣớc ngoài thông qua phƣơng thức cung
cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam, vừa đang tạo ra tình trạng “bảo hộ
ngƣợc” dẫn đến doanh nghiệp trong nƣớc bị bóp nghẹt và đi vào bế tắc.
Tính đến thời điểm hiện nay, các chính sách kiểm soát đối với doanh nghiệp
nƣớc ngoài cung cấp dịch vụ mạng xã hội và game dƣới phƣơng thức dịch vụ xuyên
biên giới vào Việt Nam vẫn chƣa đƣợc xây dựng một cách đồng bộ và hoàn thiện,
việc thực thi các quy định đã đƣợc ban hành cũng rất yếu ớt và không mấy hiệu quả.
Vấn đề này tạo ra một hệ lụy không hề nhỏ đối với xã hội. Khi thông tin truyền dƣa
trên mạng không đƣợc kiểm soát một cách đúng mức hay vấn đề tạo ra cục diện


2

chênh lệch giữa điều kiện pháp lý để hoạt động giữa doanh nghiệp trong nƣớc và
doanh nghiệp nƣớc ngoài trong việc cung cấp các dịch vụ này tại Việt Nam. Trong
khi doanh nghiệp trong nƣớc đang loay hoay tháo gỡ các vấn đề liên quan đến rào
cản về giấy phép, hành lang pháp lý chƣa rõ ràng, các chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mạng xã hội và game chƣa đƣợc

hoàn thiện và thực sự phát huy hiệu quả thì các doanh nghiệp nƣớc ngoài lại có
đƣợc mọi cơ hội để tấn công ồ ạt vào thị trƣờng Việt Nam nhƣ: Lƣợng ngƣời dùng
mạng lớn, độ tuổi ngƣời dùng mạng trẻ và đặc biệt, doanh nghiệp nƣớc ngoài cung
cấp dịch vụ mạng xã hội và game không hề gặp bất cứ một rào cản nào về mặt pháp
lý khi cung cấp dịch vụ vào Việt Nam thông qua môi trƣờng mạng.
Chính vì lẽ đó, tìm hiểu, nghiên cứu về hành lang pháp lý và ứng dụng các quy
định của pháp luật liên quan đến hoạt động cung cấp mạng xã hội, game theo
phƣơng thức xuyên biên giới vào Việt Nam để từ đó đƣa ra đƣợc các hƣớng đi đúng
đắn, các chính sách hợp lý để vừa thúc đẩy quá trình hội nhập lại vừa đảm bảo môi
trƣờng đầu tƣ, kinh doanh của doanh nghiệp trong nƣớc là một điều rất cần thiết.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, tác giả đƣợc tiếp xúc với khá nhiều công

trình nghiên cứu, các cuốn sách và nhiều bài đăng trên các tạp chí uy tín viết về đề
tài thƣơng mại dịch vụ nói chung và thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới nói riêng
trong tiến trình hội nhập toàn cầu hóa. Có thể kể đến nhƣ cuốn sách “Pháp luật
thƣơng mại dịch vụ Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế” – Nhà xuất bản Bƣi Điện
– Xuất bản năm 2006 của Phó Giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Nhƣ Phát và Tiến sĩ Phan
Thảo Nguyên chủ bút. Hay công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ mang tên “Lựa
chọn giải pháp để Việt Nam mở cửa dịch vụ thƣơng mại” – Bộ Thƣơng mại – Năm
2004 do Giáo sƣ – Tiến sĩ Nguyễn Thị Mơ làm chủ nhiệm; Cuốn sách “Lựa chọn
bƣớc đi và giải pháp mở cửa thị trƣờng dịch vụ Việt Nam” – Nhà xuất bản Lý Luận
– năm 2005 do Giáo sƣ, Tiến sĩ Nguyễn Thị Mơ là tác giả; Bài viết Tổng quan pháp
luật Việt Nam về Thƣơng mại dịch vụ và cam kết mở cửa thị trƣờng dịch vụ khi gia


3


nhập WTO đăng trên tạp chí Luật học số 6/2007 (trang 3 đến trang 12) của Tiến sĩ
Bùi Ngọc Cƣờng… Các công trình nghiên cứu, sách, bài viết này đã đề cập một
cách rất toàn diện về vấn đề mở cửa phát triển thƣơng mại dịch vụ tại Việt Nam
trong tiến trình hội nhập, đổi mới đất nƣớc. Đặc biệt, các tác phẩm nghiên cứu nêu
trên đã đi rất sát vào vấn đề thể chế hóa các quy định của pháp luật quốc gia để
tƣơng thích với các thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Cũng nhƣ đƣa ra
các đánh giá về xu hƣớng phát triển Thƣơng mại dịch vụ trong nƣớc.
Tuy nhiên, các tác phẩm nghiên cứu đã có hiện nay chƣa đề cập riêng biệt, cụ
thể và đi sâu nghiên cứu về vấn đề thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới, đặc biệt là
trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử và mạng xã hội tại thị trƣờng Việt
Nam dƣới tác động của các điều ƣớc quốc tế thế hệ mới, cũng nhƣ sự biến chuyển
của hệ thống pháp luật nội địa Việt Nam trong lĩnh vƣc cung cấp dịch vụ Mạng xã
hội và Game dƣới tác động của các Điều ƣớc quốc tế này.
Với luận văn này, tác giả hi vọng sẽ mở ra đƣợc một định hƣớng nghiên cứu
sâu sắc và cụ thể hơn vào thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp đang kinh
doanh trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Mạng xã hội và Game.
3.

Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài



Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về các học thuyết pháp lý và các
quy định của pháp luật về thƣơng mại dịch vụ nói chung và thƣơng mại dịch
vụ xuyên biên giới nói riêng.



Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy các học thuyết pháp lý và các
quy định của pháp luật về thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực

cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử và mạng xã hội.

4.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xuyên suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện Luận văn, tác giả luôn luôn

trung thành với mục tiêu nghiên cứu nhằm:
-

Làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới
liên quan đến lĩnh vực cung cấp các dịch vụ trò chơi điện tử và mạng xã hội;


4

-

Làm rõ thực trạng pháp luật của Việt Nam về thƣơng mại dịch vụ xuyên biên
giới liên quan đến lĩnh vực cung cấp các dịch vụ trò chơi điện tử và mạng xã
hội;

-

Đề xuất các giải pháp pháp lý để hoàn thiện pháp luật quốc gia liên quan đến
hoạt động cung cấp các dịch vụ trò chơi điện tử và mạng xã hội.

5.

Phƣơng pháp nghiên cứu

Tác giả sử dụng các phƣơng pháp thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp kết

hợp nghiên cứu lý luận với thực tiễn cùng các quan điểm, đƣờng lối, chính sách của
đảng và nhà nƣớc, phỏng vấn chuyên gia để làm rõ nội dung cần nghiên cứu.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng phƣơng pháp phỏng vấn trực tiếp đối với các
cán bộ lãnh đạo của các cơ quan quản lý nhà nƣớc trong lĩnh vực Thông tin và
Truyền thông, cơ quan quản lý trực tiếp việc cung cấp các dịch vụ mạng xã hội và
game tại Việt Nam. Phỏng vấn nhân sự làm việc tại doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
mạng xã hội và game để làm rõ những tâm tƣ, khó khăn, nguyện vọng của doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ mạng xã hội và game tại Việt
Nam trong bối cảnh doanh nghiệp nƣớc ngoài đang tấn công thị trƣờng một cách ồ
ạt nhƣ hiện nay.
Bên cạnh các phƣơng pháp trên, tác giả cũng sử dụng một số công cụ thống
kê, đánh giá trực tuyến đƣợc cung cấp bởi những công ty ứng dụng công nghệ có uy
tín trên thế giới nhƣ hệ thống thống kê của Alexa, Informer technologies, Inc…. để
có đƣợc những đánh giá khách quan nhất về tình hình hoạt động của các dịch vụ
mạng xã hội, game trên thị trƣờng Việt Nam hiện nay.
6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn này là bài nghiên cứu có hệ thống về tự do hóa thƣơng mại trong

lĩnh vực thƣơng mại dịch vụ nói chung và thƣơng mại dịch vụ trong lĩnh vực ứng
dụng công nghệ thông tin nói riêng. Cùng với các tìm hiểu về tác động của tự do
hóa thƣơng mại đến lĩnh vực Thƣơng mại dịch vụ tại Việt Nam nói chung cũng nhƣ
hoạt động và sự phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động kinh doanh


5


dịch vụ mạng xã hội và game nói riêng. Từ đó đƣa ra những phƣơng hƣớng phát
huy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu để có thể đẩy mạnh sự phát triển của các
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ thông tin trong nƣớc,
không để lỡ mất cơ hội tiếp cận thị trƣờng của doanh nghiệp trong nƣớc và thất thu
ngân sách đối với hoạt động của doanh nghiệp nƣớc ngoài tại Việt Nam. Cũng từ
đó, đặt ra mục tiêu phát triển bền vững hơn đối với ngành dịch vụ ứng dụng công
nghệ thông tin nói chung và dịch vụ mạng xã hội, game nói riêng.
7.

Bố cục của Luận văn
Luận văn đƣợc trình bày thành 2 chƣơng nhằm nêu bật các nội dung chính

sau đây:
-

Chƣơng thứ nhất: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH
VỤ XUYÊN BIÊN GIỚI

-

Chƣơng thứ hai: THỰC TRẠNG PHÁP LUÂT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ CUNG CẤP DỊCH VỤ XUYÊN BIÊN GIỚI TRONG
LĨNH VỰC GAME VÀ MẠNG XÃ HỘI. CÁC ĐỀ XUẤT GIẢI QUYẾT
VƢỚNG MẮC


6

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƢƠNG MẠI DỊCH VỤ
XUYÊN BIÊN GIỚI

1.1. Định nghĩa về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới
1.1.1.1. Khái niệm của Thương mại dịch vụ xuyên biên giới
Đề hiểu về phƣơng thức cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, trƣớc hết cần phải
hiểu “Thƣơng mại dịch vụ” là gì và “Phƣơng thức cung cấp dịch vụ” là gì?
“Thƣơng mại dịch vụ” là một định nghĩa đƣợc đề cập đến rất nhiều trong các
điều ƣớc quốc tế thế hệ mới. Nó đƣợc dung để chỉ một khía cạnh của hoạt động
thƣơng mại (bên cạnh hoạt động thƣơng mại về hang hóa). Thƣơng mại dịch vụ bao
gồm các ngành dịch vụ mang lại lợi ích cho thƣơng nhân cung cấp dịch vụ đó. Hay
nói cách khác, thƣơng mại dịch vụ là một khái niệm rộng dùng để chỉ toàn bộ các
hoạt động cung ứng dịch vụ nhằm mục đích thu lợi của tổ chức/cá nhân. Trong đó,
hoạt động cung ứng dịch vụ đƣợc hiểu là “hoạt động thƣơng mại, theo đó một bên
(sau đây gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên
khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa
vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận1.
Đặc điểm của thƣơng mại dịch vụ đó là đối tƣợng của nó là công việc, có tính
vô hình và có những mối liên hệ khó tách rời với đối tƣợng của thƣơng mại hàng
hóa. Xét về mặt bản chất, dịch vụ cũng có thể đƣợc coi là một loại hàng hóa đặc
biệt lƣu thông trên thị trƣờng. Do đó, các quy chế pháp lý đƣợc sử dụng cho thƣơng
mại hàng hóa cũng có thể đƣợc sử dụng chung cho cả thƣơng mại dịch vụ.
“Phƣơng thức cung cấp dịch vụ” đƣợc hiểu là cách thức cung cấp các dịch
vụ đến ngƣời tiêu dùng. Phƣơng thức cung cấp dịch vụ có thể đƣợc xác định trên cơ
sở tiếp xúc giữa nhà cung cấp dịch vụ và ngƣời sử dụng dịch vụ (trực tiếp hay gián
tiếp) hoặc nguồn gốc địa lý của nhà cung cấp dịch vụ và ngƣời tiêu dùng dịch vụ
(cung cấp dịch vụ nội địa hay cung cấp dịch vụ xuyên biên giới). Trong bài luận văn
1

Khoản 9, Điều 3, Luật Thƣơng mại Việt Nam 2005



7

này, tác giả đề cập đến phƣơng thức cung cấp dịch vụ xuyên biên giới giữa ngƣời
cung cấp dịch vụ là doanh nghiệp nƣớc ngoài và ngƣời sử dụng dịch vụ là cá nhân,
tổ chức cƣ trú tại Việt Nam.
Từ định nghĩa sơ bộ về “Cung cấp dịch vụ” và “Phƣơng thức cung cấp dịch
vụ” nêu trên, có thể tiếp cận đến thuật ngữ “Cung cấp dịch vụ xuyên biên giới” với
vai trò là nội dung chính của bài luận văn này nhƣ sau:
“Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới” là một thuật ngữ đƣợc sử dụng trong
sự phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới là tự do hóa thƣơng
mại (trong đó có tự do hóa thƣơng mại hàng hóa và tự do hóa thƣơng mại dịch vụ).
Trong xu thế phát triển mới, hằm mở ra cơ hội tiếp cận thị trƣờng cho các nhà cung
cấp dịch vụ ở khắp nơi trên thế giới, các điều ƣớc quốc tế thế hệ mới đã đƣa ra
những thỏa thuận về việc các quốc gia thành viên sẽ mở cửa các lĩnh vực thƣơng
mại dịch vụ cho nhà cung cấp đến từ các quốc gia thành viên khác của cùng điều
ƣớc quốc tế đó. Theo đó, bằng nhiều biện pháp khác nhau mà các quốc gia sẽ tăng
cƣờng khả năng tiếp cận thị trƣờng cho nhà cung cấp dịch vụ từ bên ngoài vào thị
trƣờng trong nƣớc, chẳng hạn nhƣ: Giảm bớt các hàng rào thuế quan, giảm bớt các
hàng rào kỹ thuật, loại bỏ các hạn chế đầu tƣ, kinh doanh đối với nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài trong một số lĩnh vực dịch vụ hay thậm chí thừa nhận việc nhà cung cấp nƣớc
ngoài cung cấp dịch vụ vào lãnh thổ quốc gia mình mà không cần có bất cứ hiện
diện thƣơng mại nào nhƣ cung cấp dịch vụ theo phƣơng thức xuyên biên giới. Để có
thể hiểu rõ hơn, tác giả sẽ đƣa ra phân tích về phƣơng thức cung cấp dịch vụ xuyên
biên giới theo các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam tham gia và theo các quy định của
pháp luật nội địa Việt Nam nhƣ sau:
Thương mại dịch vụ xuyên biên giới tiếp cận từ các quy định của pháp luật nội
địa Việt Nam
Để thể chế hóa nội dung các cam kết của Việt Nam trong các Hiệp định kể
trên, Việt Nam đã có các văn bản pháp luật chuyên ngành đề cập đến từng lĩnh vực
cụ thể đƣợc cung cấp dịch vụ theo phƣơng thức qua biên giới. Trong phạm vi bài



8

viết, tác giả chỉ đề cập đến các quy định liên quan trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ
mạng xã hội và trò chơi điện tử.
Thực hiện các cam kết trong khuôn khổ WTO liên quan đến quản lý các hoạt
động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực thông tin, truyền thông của
doanh nghiệp các nƣớc thành viên khác vào Việt Nam, nhà làm luật Việt Nam cũng
đã có những ghi nhận về vấn đề này, thể hiện sự quan tâm của nhà nƣớc đến việc
cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực thông tin, truyền thông nói chung và lĩnh vực mạng
xã hội và game nói riêng của doanh nghiệp nƣớc ngoài vào Việt Nam. Cụ thể nhƣ
sau:
Khoản 1 Điều 22 Nghị định 72/2013/NĐ-CP quy định về hoạt động cung cấp
thông tin công cộng qua biên giới nhƣ sau: “Các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
nước ngoài khi cung cấp thông tin công cộng qua biên giới có người sử dụng tại
Việt Nam hoặc có truy cập từ Việt Nam cần tuân thủ các quy định của pháp Luật
liên quan của Việt Nam”. Đây là một quy định chƣa mấy rõ ràng để có thể đƣa vào
thực thi trên thực tế vì nội dung chỉ quy định “cần tuân thủ các quy định của pháp
luật Việt Nam” chƣa thể hiện đƣợc đúng cam kết về quản lý việc cung cấp dịch vụ
xuyên biên giới vào Việt Nam là “không yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải có hiện
diện thƣơng mại tại Việt Nam”. Tuy nhiên, nếu theo đúng quy định tại Khoản 1
Điều 22 nói trên thì có thể thấy rằng “tuân thủ pháp luật Việt Nam” bao gồm cả quy
định về hiện diện thƣơng mại và điều kiện về các loại giấy phép con để thực hiện
dịch vụ tại Việt Nam.
Ngoài ra tại Khoản 4, Điều 31 của Nghị định này còn quy định rõ “Tổ chức,
cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng cho người sử dụng
tại Việt Nam phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp Luật Việt Nam để
thực hiện cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng theo quy định tại Nghị định
này và quy định về đầu tư nước ngoài.”

Nhƣ vậy, nhìn chung cho đến năm 2014, các quy định của pháp luật Việt Nam
cũng vẫn chƣa đƣa ra đƣợc một khái niệm rõ ràng về Thƣơng mại dịch vụ xuyên


9

biên giới. Hầu hết các quy định đƣợc đƣa ra một cách rời rạc, thiếu tính hệ thống và
mới chỉ đề câp đến khía cạnh mức độ quản lý đối với nhà cung cấp dịch vụ theo
phƣơng thức xuyên biên giới vào Việt Nam chứ không giải thích hành vi nào đƣợc
coi là cung cấp dịch vụ xuyên biên giới. Hầu hết mới chỉ dừng lại ở quy định nhà
cung cấp dịch vụ qua biên giới cho ngƣời tiêu dùng Việt Nam phải tuân thủ theo các
quy định của pháp luật Việt Nam trong quá trình cung cấp dịch vụ. Các quy định
này cũng không chỉ rõ các nhà cung cấp dịch vụ nƣớc ngoài phải tuân thủ quy định
cụ thể nào của pháp luật Việt Nam.
Đến năm 2016, Thông tƣ số 38/2016/TT-BTTTT ngày 26/12/2016 của Bộ
Thông tin và Truyền thông quy định chi tiết về việc cung cấp thông tin công cộng
qua biên giới mới ghi nhận một cách chính thức các nội dung chi tiết của pháp luật
Việt Nam mà nhà cung cấp dịch vụ nƣớc ngoài cung cấp dịch vụ cung cấp thông tin
công cộng qua biên giới nói chung và mạng xã hội, game nói riêng phải tuân thủ.
Theo Khoản 1, Điều 2 Thông tƣ Thông tƣ này thì “Cung cấp thông tin công cộng
qua biên giới là việc tổ chức, cá nhân tại nước ngoài (sau đây gọi là tổ chức, cá
nhân nước ngoài) sử dụng trang thông tin điện tử, mạng xã hội, ứng dụng trên
mạng, dịch vụ tìm kiếm và các loại hình tương tự khác trên mạng để cung cấp thông
tin công cộng mà người sử dụng tại Việt Nam có truy cập hoặc sử dụng dịch vụ
(bao gồm cả tổ chức và cá nhân)”. Mặc dù vậy, Thông tƣ 38/2016/TT-BTTT cũng
chỉ đƣa ra định nghĩa về hành vi cung cấp thông tin công cộng qua biên giới chứ
không phải một định nghĩa chung nhất về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới hay
Cung cấp dịch vụ theo phƣơng thức xuyên biên giới nhƣ những gì mà các Điều ƣớc
quốc tế đang hƣớng đến. Cũng theo Thông tƣ này, nhà cung cấp dịch vụ nƣớc ngoài
khi cung cấp dịch vụ nội dung thông tin dƣới phƣơng thức xuyên biên giới vào Việt

Nam chỉ phải tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam về nội dung thông tin mà
không phải thực hiện các biện pháp hành chính về hiện diện thƣơng mại và giấy
phép nhƣ doanh nghiệp nội địa của Việt Nam.


10

Nhƣ vậy, qua hai phân tích nêu trên, có thể thấy rằng hiện nay cả trong các
Điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam tham gia và các văn bản quy phạm pháp luật nội địa
của Việt Nam đều chƣa có một khái niệm chung và hoàn chỉnh nhất để dùng cho
Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới, các Điều ƣớc quốc tế hầu hết tiếp cận khái
niệm Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới theo hƣớng mô tả đặc điểm của loại dịch
vụ này. Trong khi đó, các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam lại tập trung đƣa
ra các nghĩa vụ mà nhà cung cấp dịch vụ phải đảm bảo khi cung cấp dịch vụ theo
phƣơng thức xuyên biên giới vào Việt Nam. Tuy nhiên, xét về mặt bản chất, có thể
hiểu Thương mại dịch vụ xuyên biên giới là một phương thức cung cấp dịch vụ mà
theo đó, các dịch vụ được cung cấp vượt ra khỏi lãnh thổ của nước xuất xứ để tới
và được sử dụng tại lãnh thổ của một quốc gia khác mà không cần sự dịch chuyển
về mặt địa lý của người cung cấp dịch vụ cũng như người sử dụng dịch vụ.
Thương mại dịch vụ xuyên biên giới tiếp cận từ các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia:
Cung cấp dịch vụ xuyên biên giới hay còn gọi là Cung cấp dịch vụ qua biên
giới là một phƣơng thức tiêu biểu cho quá trình toàn cầu hóa và trở thành một trong
các điều kiện đàm phán mở cửa dịch vụ của Việt Nam khi tham gia Tổ chức thƣơng
mại Thế giới WTO. Song song với quá trình đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam
cũng có các vòng đàm phán song phƣơng với Hoa Kỳ để đi đến ký kết Hiệp định
thƣơng mại Việt Mỹ - BTA có hiệu lực vào năm 2001. Năm 2007, Việt Nam trở
thành thành viên đầy đủ của WTO và chính thức cùng ký kết vào các biểu cam kết
dịch vụ của WTO cũng nhƣ chấp nhận tuân thủ theo quy định của Hiệp định chung
về thƣơng mại dịch vụ GATS.

Tháng 2/2015, Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) đƣợc
công bố cũng đề cập đến khái niệm của phƣơng thức cung cấp dịch vụ qua biên giới
tƣơng tự với khái niệm đã nêu trong Hiệp định GATS kể trên. Cụ thể, tại chƣơng III
của Hiệp định có nêu “cung cấp dịch vụ xuyên biên giới là việc cung cấp một loại
hình dịch vụ: (i) từ lãnh thổ của Bên này sang lãnh thổ của Bên kia, (ii) trong lãnh


11

thổ của Bên này cho khách hàng sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ của Bên kia; (iii)
“nhà cung cấp dịch vụ” của một Bên là bất kỳ thể nhân hoặc pháp nhân nào của một
Bên thực hiện việc cung cấp một loại hình dịch vụ nào đó”.
Nhƣ đã nêu ở trên, Điều 1 của GATS khẳng định cung cấp dịch vụ qua biên
giới là phƣơng thức mà dịch vụ đƣợc cung cấp từ lãnh thổ của một nƣớc thành viên
này sang lãnh thổ của một nƣớc thành viên khác. Đối chiếu với Hiệp định BTA
nhận thấy chƣa có một khái niệm rõ ràng và chính thức về vấn đề này mà tất cả các
điều ƣớc quốc tế nêu trên vẫn đang đề cập đến Cung cấp dịch vụ xuyên biên giới
nhƣ một trong những phƣơng thức mà thể nhân của quốc gia thành viên này cung
cấp cho ngƣời sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ của quốc gia thành viên kia trong cùng
một điều ƣớc quốc tế.
Đến năm 2016 các doanh nghiệp Việt Nam đón chờ thông tin liên quan đến
Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dƣơng - TPP. So với các Hiệp định kể
trên, thay vì liệt kê các đặc điểm của phƣơng thức cung cấp dịch vụ qua biên giới,
TPP đã yêu cầu các nƣớc thành viên “Không Bên tham gia Hiệp định nào đƣợc
phép buộc nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia phải thành lập hoặc duy trì văn phòng
đại diện hoặc bất kỳ hình thức doanh nghiệp nào khác, hoặc buộc nhà cung cấp đó
phải là cá nhân cƣ trú trong lãnh thổ của mình để xem đó nhƣ là điều kiện để cho
phép cung cấp dịch vụ xuyên biên giới”. Mặc dù TPP không đƣợc thông qua nhƣ
mong muốn của rất nhiều nƣớc thành viên nhƣng việc quy định không yêu cầu hiện
diện (chi nhánh, văn phòng, công ty con, liên doanh) của nhà cung cấp dịch vụ tại

lãnh thổ cung cấp dịch vụ đã cho thấy đây là phù hợp giữa luật pháp đối với thực tế
cung cấp dịch vụ của phƣơng thức cung cấp dịch vụ qua biên giới.
Ngoài các Hiệp định kể trên còn khá nhiều các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết đề cập đến các cam kết của Việt Nam trong việc mở cửa dịch vụ đối với
các phƣơng thức cung cấp dịch vụ qua biên giới.
Nhƣ vậy, theo cách tiếp cận của các điều ƣớc quốc tế thế hệ mới nêu trên, có
thể đƣa ra một khái niệm chung về “Cung cấp dịch vụ xuyên biên giới là hoạt động


12

cung cấp dịch vụ từ lãnh thổ của một thành viên đến lãnh thổ của bất kỳ một thành
viên nào khác mà trong đó chỉ có bản thân dịch vụ là đi qua biên giới, còn ngƣời
cung cấp dịch vụ không có mặt tại nƣớc nhận dịch vụ và ngƣời sử dụng dịch vụ
cũng không có mặt tại nƣớc cung cấp dịch vụ. Hay nói cách khác, trong hoạt động
cung cấp dịch vụ xuyên biên giới thì nhà cung cấp dịch vụ không hề có bất cứ một
sự dịch chuyển vật lý nào tới lãnh thổ mà ngƣời sử dụng dịch vụ đang cƣ trú. Mọi
hành vi cung cấp và sử dụng dịch vụ đều không khiến cho ngƣời cung cấp hay
ngƣời sử dụng dịch vụ phải thay đổi địa điểm của mình. Loại hình cung cấp dịch vụ
này hiện nay rất phổ biến đối với các loại hình dịch vụ đƣợc cung cấp qua môi
trƣờng mạng và điển hình là dịch vụ mạng xã hội và game.
1.1.1.2. Đặc điểm của Thương mại dịch vụ xuyên biên giới
Nhƣ đã phân tích ở trên Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới chỉ là một trong
những phƣơng thức cung cấp dịch vụ, đối tƣợng của nó về bản chất vẫn là các dịch
vụ với những đặc điểm chung nhất. Do đó, trƣớc hết Thƣơng mại dịch vụ xuyên
biên giới vẫn mang các đặc điểm chung của Thƣơng mại dịch vụ, đó là:
-

Đối tƣợng của hoạt động cung cấp dịch vụ là loại hàng hóa vô hình, không sờ
mó hay nhìn thấy đƣợc mà chỉ có thể trải nghiệm qua hành vi sử dụng dịch vụ

của khách hàng. Quá trình thực hiện dịch vụ của nhà cung cấp và tiêu dùng
dịch vụ của khách hàng phải diễn ra đồng thời với nhau.

-

Thƣơng mại dịch vụ có phạm vi hoạt động khá rộng lớn. Thƣơng mại dịch vụ
bao trùm trong hầu nhƣ toàn bộ đời sống từ các dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân
đến các dịch vụ cung ứng cho mục đích sản xuất, kinh doanh của tổ chức,
doanh nghiệp….

-

Thƣơng mại dịch vụ có sức lan tỏa rất lớn: Do có phạm vi hoạt động rộng lớn,
có khả năng tiếp cận khắp các lĩnh vực của đời sống cũng nhƣ kinh tế - xã hội,
thậm chí còn có vai trò trung gian giữa thƣơng mại hàng hóa với ngƣời tiêu
dùng. Do đó Thƣơng mại dịch vụ đang đƣợc coi là lĩnh vực khả năng tiếp cận


13

đến ngƣời tiêu dùng cao và sẽ là hƣớng đi mới mang lại nhiều lợi ích cho nền
kinh tế của các quốc gia.
Ngoài ra, từ các cách tiếp cận về cung cấp dịch vụ xuyên biên giới nêu trên có
thể rút ra đƣợc các đặc điểm riêng biệt của cung cấp dịch vụ xuyên biên giới nhƣ
sau:
-

Nhà cung cấp dịch vụ không hiện diện tại lãnh thổ nơi dịch vụ đƣợc cung ứng.
Điều này có nghĩa là tổ chức, cá nhân của các nƣớc thành viên điều ƣớc quốc
tế có cung cấp dịch vụ không cần thực hiện bất cứ sự dịch chuyển nào về măt

địa lý để cung cấp dịch vụ tới cho ngƣời tiêu dùng tại Việt Nam mà vẫn đảm
bảo việc cung cấp dịch vụ của mình tới lãnh thổ quốc gia thành viên kia là hợp
pháp.

-

Không có sự di chuyển của ngƣời cung cấp và ngƣời tiêu thụ dịch vụ sang
lãnh thổ của nhau. Cũng nhƣ đối với nhà cung cấp dịch vụ, ngƣời sử dụng
dịch vụ trong trƣờng hợp này cũng không cần thực hiện bất cứ một sự dịch
chuyển nào về măt địa lý đến lãnh thổ quốc gia của nhà cung cấp dịch vụ.

-

Các hoạt động cung cấp dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ dƣới phƣơng thức
xuyên biên giới đƣợc đối xử nhƣ các nhà cung cấp dịch vụ trong cùng lĩnh vực
của chính quốc mà ngƣời sử dụng dịch vụ đang cƣ trú. Điều này có nghĩa là
một dịch vụ đƣợc cung cấp xuyên biên giới vào lãnh thổ Việt Nam, tuy không
phải chịu các quy chế về vấn đề thành lập một hiện diện thƣơng mại tại Việt
Nam hay phải xin các giấy phép cung cấp dịch vụ tại Việt Nam, nhƣng nội
dung dịch vụ mà họ cung cấp vẫn phải tuân thủ các quy định chi tiết của pháp
luật Việt Nam về loại hình dịch vụ mà tổ chức, cá nhân đó cung cấp.

-

Thƣơng mại dịch vụ gắn với tính vô hình của đối tƣợng, khi lƣu thông qua
biên sẽ rất khó kiểm soát, không nhƣ các loại hàng hóa hữu hình khác có thể
kiểm soát đƣợc bằng mắt thƣờng hoặc các biện pháp kỹ thuật thông thƣờng.
Không những thế, đối tƣợng của Thƣơng mại dịch vụ khi dịch chuyển qua
biên giới lại thƣờng mang nhiều yếu tố liên quan đến văn hóa, tƣ tƣởng, đạo



14

đức, tôn giáo…. các giá trị vô hình của một quốc gia, cho nên vấn đề kiểm
soát các dịch vụ này lại càng đƣợc đặt ra một cách bức thiết. Chính vì vậy,
trong các cuộc thƣơng lƣợng để đạt đƣợc tự do hóa thƣơng mại dịch vụ
thƣờng gặp nhiều khó khăn hơn tự do hóa thƣơng mại hàng hóa, nó còn phụ
thuộc vào tình hình chính trị, kinh tế – xã hội, văn hóa của nƣớc cung cấp và
nƣớc tiếp nhận dịch vụ đó.
1.1.2. Cấu trúc của Pháp luật về Thương mại dịch vụ xuyên biên giới
Pháp luật về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam trong lĩnh vực
cung cấp nội dung thông tin nói chung và cung cấp dịch vụ Game và Mạng xã hội
nói riêng bao gồm pháp luật nội địa Việt Nam và các Điều ƣớc quốc tế mà Việt
Nam tham gia, cụ thể nhƣ sau:
1.1.2.1. Các văn bản quy phạm pháp luật nội địa của Việt Nam
Nhằm quản lý các hoạt động Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh
vực dịch vụ Game và Mạng xã hội đƣợc cung cấp vào Việt Nam, nhà nƣớc ta đã
đƣa chế định quy định về hoạt động này vào khá nhiều các văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau, phù hợp với nhu cầu quản lý của từng ngành kinh tế. Cụ thể là:
Luật Viễn thông năm 2009 của Việt Nam có nêu tại Khoản 5 Điều 25 là “Việc
cung cấp dịch vụ viễn thông qua biên giới đến người sử dụng dịch vụ viễn thông
trên lãnh thổ Việt Nam phải theo các quy định của pháp luật Việt Nam, điều ước
quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên”. Đây đƣợc coi là
quy định đầu tiên của ngành Thông tin và Truyền thông liên quan đến việc quản lý
hoạt động cung cấp dịch vụ qua biên giới vào Việt Nam của tổ chức, cá nhân nƣớc
ngoài. Quy định này là một quy định mang tính định hƣớng chung và sẽ đƣợc cụ thể
hóa trong các văn bản dƣới Luật phù hợp với từng chuyên ngành khác nhau của
Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới.
Trong số các văn bản dƣới Luật đó, liên quan đến hoạt động cung cấp dịch vụ
nội dung thông tin hay dịch vụ cung cấp Game và Mạng xã hội, Chính phủ và Bộ



15

Thông tin và Truyền thông đã căn cứ vào Luật Viễn thông năm 2009 để ban hành ra
các văn bản hƣớng dẫn cụ thể nhƣ sau:
Nghị định 72/2013/NĐ-CP có đề cập đến các hoạt động cung cấp thôn tin
công cộng qua biên giới tại Khoản 1 Điều 22 nhƣ sau: “Các tổ chức, doanh nghiệp,
cá nhân nước ngoài khi cung cấp thông tin công cộng qua biên giới có người sử
dụng tại Việt Nam hoặc có truy cập từ Việt Nam cần tuân thủ các quy định của
pháp Luật liên quan của Việt Nam”. Đây có thể coi là quy định sớm nhất của Việt
Nam về hoạt động Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực cung cấp
Game và Mạng xã hội. Mặc dù vậy, quy định này đƣợc đánh giá là chƣa mấy rõ
ràng để thực hiện khi chỉ nêu chung chung về việc “cần tuân thủ quy định của pháp
luật liên quan của Việt Nam” mà chƣa chỉ ra rõ quy định nào của pháp luật sẽ đƣợc
áp dụng. Điều này dẫn đến xu hƣớng hiểu rằng Việt Nam chƣa thực hiện đƣợc đúng
cam kết về quản lý việc cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam là “không
yêu cầu nhà cung cấp dịch vụ phải có hiện diện thƣơng mại tại Việt Nam” bởi vì có
thể hiểu rằng nó bao gồm cả yêu cầu về hiện diện thƣơng mại và yêu cầu đáp ứng
các điều kiện về các loại giấy phép con để thực hiện dịch vụ tại Việt Nam.
Ngoài ra tại Khoản 4, Điều 31 của Nghị định này còn quy định rõ “Tổ chức,
cá nhân nước ngoài cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng cho người sử dụng
tại Việt Nam phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp Luật Việt Nam để
thực hiện cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng theo quy định tại Nghị định
này và quy định về đầu tư nước ngoài.”
Đến năm 2016, để cụ thể hóa quy định tại Nghị định 72/2013/NĐ-CP về hoạt
động Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới trong lĩnh vực cung cấp nội dung thông
tin, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tƣ số 38/2016/TT-BTTTT
ngày 26/12/2016. Thông tƣ 38/2016/TT-BTTTT đã giải quyết đƣợc một vấn đề tồn
tại mà các văn bản pháp luật trƣớc đó chƣa giải quyết đƣợc, đó là đƣa ra một khái

niệm về hoạt động cung cấp thông tin công cộng qua biên giới. Cụ thể nhƣ sau:
“Cung cấp thông tin công cộng qua biên giới là việc tổ chức, cá nhân tại nước


16

ngoài (sau đây gọi là tổ chức, cá nhân nước ngoài) sử dụng trang thông tin điện tử,
mạng xã hội, ứng dụng trên mạng, dịch vụ tìm kiếm và các loại hình tương tự khác
trên mạng để cung cấp thông tin công cộng mà người sử dụng tại Việt Nam có truy
cập hoặc sử dụng dịch vụ (bao gồm cả tổ chức và cá nhân)”2. Ngoài ra, Thông tƣ
38/2016/TT-BTTTT cũng nêu rõ, một số nội dung mà nhà cung cấp dịch vụ nƣớc
ngoài khi cung cấp dịch vụ theo phƣơng thức xuyên biên giới vào Việt Nam sẽ phải
tuân thủ và quy trình phối hợp thực thi các quy định của pháp luật Việt Nam đƣợc
áp dụng với nhà cung cấp dịch vụ từ nƣớc ngoài. Nhƣ vậy, với các quy định này, cơ
bản Thông tƣ 38/2016/TT-BTTTT đã giải quyết đƣợc một số vấn đề cấp thiết để các
quy định và tinh thần quản lý hoạt động Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới tại
Việt Nam trong lĩnh vực cung cấp nội dung thông tin nói chung và cung cấp dịch vụ
Game và Mạng xã hội nói riêng có khả năng thực thi.
1.1.2.2. Các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia
Các quy định của pháp luật trong nƣớc về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên
giới nêu trên đều đƣợc xây dựng dựa trên các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham
gia trong quá trình hội nhập kinh tế. Các cam kết hiện nay đang có tác động đến
hoạt động kinh doanh Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới tại Việt Nam bao gồm:
Hiệp định chung về Thƣơng mại dịch vụ (GATS) trong khuôn khổ WTO mà Việt
Nam chính thức là thành viên vào năm 2007; Hiệp định thƣơng mại Việt Mỹ - BTA
có hiệu lực vào năm 2001. Tháng 2/2015, Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam EU (EVFTA) đƣợc công bố cũng đề cập đến việc mở cửa thị trƣờng cho các dịch vụ
đƣợc cung cấp theo phƣơng thức qua biên giới tƣơng tự với nội dung đã nêu trong
Hiệp định GATS kể trên..
Trong các Điều ƣớc quốc tế này, Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới đƣợc đề
cập đến nhƣ một điều kiện tiên quyết cho quá trình hội nhập về thƣơng mại dịch vụ.

Đây đƣợc coi là tiêu chí đánh giá mức độ hội nhập của một quốc gia với nền kinh tế
thế giới. Chính vì vậy, các cam kết mở cửa thị trƣờng cho phép mở rộng Thƣơng
2

Khoản 1 Điều 2 Thông tƣ số 38/2016/TT-BTTTT


17

mại dịch vụ xuyên biên giới rất đƣợc quan tâm trong quá trình đàm phán. Điều 1
của GATS quy định cung cấp dịch vụ qua biên giới là phƣơng thức mà dịch vụ
đƣợc cung cấp từ lãnh thổ của một nƣớc thành viên này sang lãnh thổ của một nƣớc
thành viên khác.
Đến Hiệp định Thƣơng mại Việt - Mỹ (BTA), mặc dù không đƣa ra một khái
niệm nào về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới, nhƣng BTA dẫn chiếu trực tiếp
đến GATS và thừa nhận áp dụng khái niệm về Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới
tại GATS. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của các Điều ƣớc quốc tế
thế hệ mới khi lấy GATS làm gốc và tiêu chuẩn để đàm phán và ký kết.
Chƣơng III của Hiệp định Thƣơng mại tự do Việt Nam EU (EVFTA) nêu
“cung cấp dịch vụ xuyên biên giới là việc cung cấp một loại hình dịch vụ: (i) từ lãnh
thổ của Bên này sang lãnh thổ của Bên kia, (ii) trong lãnh thổ của Bên này cho
khách hàng sử dụng dịch vụ trên lãnh thổ của Bên kia; (iii) “nhà cung cấp dịch vụ”
của một Bên là bất kỳ thể nhân hoặc pháp nhân nào của một Bên thực hiện việc
cung cấp một loại hình dịch vụ nào đó”.
Đến năm 2016 văn kiện của Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dƣơng
– TPP đƣợc xây dựng một cách hoàn chỉnh để đi vào ký kết. Thay vì liệt kê các đặc
điểm của phƣơng thức cung cấp dịch vụ qua biên giới, TPP nêu rõ “Không Bên
tham gia Hiệp định nào được phép buộc nhà cung cấp dịch vụ của Bên kia phải
thành lập hoặc duy trì văn phòng đại diện hoặc bất kỳ hình thức doanh nghiệp nào
khác, hoặc buộc nhà cung cấp đó phải là cá nhân cư trú trong lãnh thổ của mình để

xem đó như là điều kiện để cho phép cung cấp dịch vụ xuyên biên giới”.
Ngoài các Hiệp định kể trên còn khá nhiều các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết đề cập đến các cam kết của Việt Nam trong việc mở cửa dịch vụ đối với
các phƣơng thức cung cấp dịch vụ qua biên giới.


18

1.1.3. Vị trí của dịch vụ Mạng xã hội và Game trong thương mại dịch vụ xuyên
biên giới
Theo tiêu chí phân loại của Biểu cam kết dịch vụ CXL Dịch vụ Mạng xã hội
và Game các dịch vụ thuộc phân nhóm dịch vụ Thông tin trực tuyến và truy cập lấy
thông tin từ cơ sở dữ liệu (hay còn gọi là dịch vụ cung cấp nội dung thông tin trên
mạng) – có mã CPC7523** bởi các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, dịch vụ Mạng xã hội và Game có môi trƣờng truyền đƣa là mạng
(bao gồm mạng internet và mạng viễn thông). Ngoài phƣơng thức cung cấp qua
mạng, các dịch vụ này không thể cung cấp qua môi trƣờng nào khác do đặc thù về
mặt kỹ thuật.
Thứ hai, đối tƣợng của dịch vụ là nội dung thông tin thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau phục vụ cho nhu cầu giải trí của ngƣời dùng. Trong quá trình sử dụng dịch vụ,
ngƣời dùng sẽ tiếp nhận các dữ liệu thông tin từ hệ thống máy chủ của nhà cung cấp
dịch vụ đƣợc thể hiện dƣới hình thức thông điệp dữ liệu hoặc tệp tin máy tính thông
qua thiết bị có kết nối mạng của mình và trực tiếp sử dụng các nội dung thông tin
đƣợc truyền đƣa đó.
Với sự phát triển mạnh mẽ của internet và công nghệ thông tin, sự thuận tiện
mang đến cho con ngƣời khi sử dụng các dịch vụ đƣợc truyền đƣa qua mạng là rất
lớn, chính vì lẽ đó, các dịch vụ nội dung thông tin ngày càng thu hút đƣợc đông đảo
ngƣời dùng cũng nhƣ chiếm đƣợc vai trò lớn trong lĩnh vực Thƣơng mại dịch vụ nói
chung và Thƣơng mại dịch vụ xuyên biên giới nói riêng. So với các ngành Thƣơng
mại dịch vụ có cùng phƣơng thức truyền đƣa là xuyên biên giới nhƣ các dịch vụ tài

chính, dịch vụ bảo hiểm… thì nhóm dịch vụ về viễn thông – cung cấp nội dung
thông tin, với cùng một mức khả năng tiếp cận ngƣời dùng nhƣng lại có thể thu hút
đƣợc số lƣợng đông đảo khách hàng hơn hẳn các dịch vụ nêu trên. Điều này là hệ
quả tất yếu của sự phát triển nhu cầu giải trí của con ngƣời gắn liền với các sản
phẩm công nghệ không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới.


×