Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và thực tiễn thi hành tại tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.39 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRIỆU NGỌC THƠ

PHÁP LUẬT VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRIỆU NGỌC THƠ

PHÁP LUẬT VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN
THI HÀNH TẠI TỈNH YÊN BÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật Kinh tế


Mã số

: 62 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Thúy Nga

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Triệu Ngọc Thơ


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,


6

BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ TAI NẠN
LAO ĐỘNG, BỆNH NGHỀ NGHIỆP

1.1. Khái quát chung về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

6

1.2. Nội dung pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

10

Chương 2:

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,

34

BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
TỈNH YÊN BÁI

2.1. Thực trạng pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

34

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

53


tại tỉnh Yên Bái
Chương 3:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU

64

QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
TỈNH YÊN BÁI

3.1. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tai nạn

64

lao động, bệnh nghề nghiệp
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tai nạn lao động, bệnh

66

nghề nghiệp
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO
PHỤ LỤC

74


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


ATLĐ

: An toàn lao động

ASXH

: An sinh xã hội

ATVSLĐ : An toàn, vệ sinh lao động
BHXH

: Bảo hiểm xã hội

BLLĐ

: Bộ luật lao động

BNN

: Bệnh nghề nghiệp

HĐLĐ

: Hợp đồng lao động

ILO

: Tổ chức Lao động quốc tế


NLĐ

: Người lao động

NSDLĐ

: Người sử dụng lao động

TNLĐ

: Tai nạn lao động

VSLĐ

: Vệ sinh lao động


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng
2.1

Tình hình tai nạn lao động tại tỉnh Yên Bái giai đoạn 2012 - 2016

2.2


Tình hình bệnh nghề nghiệp tại tỉnh Yên Bái giai đoạn 2012 - 2016

2.3

Công tác tuyên truyền, tập huấn an toàn, vệ sinh lao động tại
tỉnh Yên Bái giai đoạn 2011-2015

2.4

Tổng số cơ sở lao động đã được đo kiểm tra môi trường lao
động tại tỉnh Yên Bái giai đoạn 2011-2015

2.5

Tình hình khám sức khỏe cho người lao động tại tỉnh Yên Bái
giai đoạn 2011-2015

2.6

Tình hình khám bệnh nghề nghiệp tại tỉnh Yên Bái giai đoạn
2011-2015

2.7

Số người được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp tính đến năm 2016

Trang



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là những rủi ro xảy ra đối với người lao
động trong quá trình lao động. Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp có thể xảy ra ở mọi
ngành nghề và ở mọi quốc gia. Tổ chức Lao động quốc tế đã ban hành nhiều Công ước
để bảo vệ người lao động trong lĩnh vực tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, các nước
thành viên của Tổ chức Lao động quốc tế phê chuẩn công ước có nghĩa vụ xây dựng
pháp luật quốc gia phù hợp với nội dung Công ước đã phê chuẩn. Mục đích của pháp
luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là nhằm bảo vệ người lao động trước những
nguy cơ gây ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và hỗ trợ, giúp đỡ họ vượt qua khó
khăn trong cuộc sống nếu tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra.
Với mục tiêu đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển
kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại1, nước ta đang đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Cùng với sự phát triển của ngành công
nghiệp tạo ra nhiều việc làm cho người lao động thì bên cạnh đó tình hình tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp cũng tăng theo. Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp gây
ra tổn thất lớn lao cho người lao động, thân nhân người lao động, người sử dụng lao
động, Nhà nước và xã hội. Đối với người lao động và thân nhân của họ là tổn thất
về sức khỏe, giảm sút thu nhập và nỗi đau tinh thần, đối với người sử dụng lao động
là tổn thất về kinh tế, đình trệ sản xuất, đối với Nhà nước là những vấn đề như gánh
nặng y tế, bất ổn xã hội, đối với xã hội là sự tổn thất nguồn nhân lực lao động trực
tiếp tạo ra của cải vật chất…. vì vậy, việc bảo vệ người lao động trước những nguy
cơ gây ra tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là rất quan trọng và cấp thiết, đây cũng
là xu hướng chung của các quốc gia phát triển trên thế giới, hướng tới đảm bảo cho
người lao động được làm việc trong điều kiện lao động thực sự an toàn, vệ sinh.
Tuy nhiên, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp vẫn có thể xảy ra cho dù có áp dụng
mọi biện pháp phòng ngừa chặt chẽ đến đâu, vì vậy, khi tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp xảy ra Nhà nước cần có những chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ người lao động.
1

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, tại địa chỉ: ngày truy cập 01/7/2017.


2

Để bảo vệ người lao động trong quá trình lao động và hỗ trợ, giúp đỡ họ khi
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp xảy ra Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy
phạm pháp luật như Luật bảo hiểm xã hội năm 2006, Bộ luật lao động năm 2012 và
các văn bản hướng dẫn thi hành, những văn bản quy phạm pháp luật này đã phát
huy được vai trò bảo vệ người lao động khi được thi hành trên thực tế. Tuy nhiên,
bên cạnh những mặt tích cực đạt được vẫn còn một số quy định còn tồn tại, hạn chế
trong quá trình áp dụng. Để khắc phục những tồn tại, hạn chế đó Quốc hội đã ban
hành Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, đa số quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm
2014 có hiệu lực từ ngày 01/01/2016 và Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 để hướng đến mục đích bảo vệ người lao động
được tốt hơn trong quá trình lao động, sản xuất và hỗ trợ, giúp đỡ họ được tốt hơn khi
rủi ro nghề nghiệp xảy ra. Từ những thay đổi và yêu cầu hiện tại, việc tìm hiểu pháp
luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là hết sức cần thiết. Vì vậy, tác giả đã chọn
đề tài: "Pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và thực tiễn thi hành tại
tỉnh Yên Bái" làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình. Qua đó, tác giả muốn nghiên cứu
pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành
thông qua thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái nhằm đánh giá thực trạng pháp luật về tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có một số luận án, luận văn về đề tài tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp cơ bản được công bố như:

- Hoàng Bích Hồng (2011), Hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao
động và bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học
Kinh tế Quốc dân.
- Trần Trọng Đào (2013), Pháp luật về an toàn lao động ở Việt Nam, Luận
án Tiến sĩ Luật học, khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà nội.
- Cần Thùy Dung (2013), An toàn lao động và vệ sinh lao động theo pháp
luật lao động Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật, Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội.
- Bùi Thị Chuyên (2013), Pháp luật quốc tế, pháp luật nước ngoài và pháp
luật Việt Nam về an toàn vệ sinh lao động, Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.


3

- Vũ Tuấn Đạt (2014), Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Lục Thị Thu Hòe (2015), Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ
thực tiễn thi hành tại Bắc Giang, Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật, Trường
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Ngoài một số luận án, luận văn nêu trên còn có một số công trình nghiên cứu
khoa học về đề tài tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đăng trên các tạp chí và trang
mạng cơ bản như:
- Đỗ Thị Dung (2011), Về trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc bảo đảm
an toàn, vệ sinh lao động và bảo vệ sức khỏe người lao động, Tạp chí Luật học số
12/2011, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Lê Kim Dung (2011), Tiêu chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao động,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật.
- Lê Thị Hoài Thu (2014), Thực trạng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam

và phương hướng hoàn thiện, Nhà nước và pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật.
- Bùi Sỹ Lợi (2015), Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về an toàn, vệ sinh lao
động từ kinh nghiệm quốc tế, tại địa chỉ: />ThongTin_ChiTiet.aspx?MaTT=161201554018531737&MaMT=26 ngày truy cập 01/7/2017.
Những công trình khoa học trên đã nghiên cứu pháp luật về tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp dưới nhiều góc độ khác nhau và đã có nhiều đóng góp để hoàn
thiện pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, Luật
bảo hiểm xã hội năm 2014 và Luật an toàn, vệ sinh lao động năm 2015 ra đời cùng
với những quy định mới về pháp luật tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho nên
một số công trình khoa học đã không còn tính cập nhật.
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các công trình khoa học nêu trên,
Luận văn nghiên cứu pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định
của Bộ luật lao động năm 2012, Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, đặc biệt là Luật an
toàn, vệ sinh lao động năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luận văn
thông qua việc phân tích số liệu về tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại
tỉnh Yên Bái giai đoạn 2012-2016, trình bày công tác thi hành pháp luật về tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp tại tỉnh Yên Bái qua công tác an toàn, vệ sinh lao động
giai đoạn 2015-2016 và công tác y tế lao động giai đoạn 2011-2016 để đánh giá


4

thực trạng từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật về tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp Việt Nam hiện hành.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định trong Luật an toàn, vệ
sinh lao động năm 2015 và một số quy định được dẫn chiếu trong Luật bảo hiểm xã
hội năm 2014 và Bộ luật lao động năm 2012. Trong quá trình nghiên cứu, Luận văn
có tham khảo quy định của Tổ chức Lao động quốc tế và kinh nghiệm của một số

nước phát triển trên thế giới trong lĩnh vực tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
Luận văn dựa trên số liệu tình hình tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp tại tỉnh Yên
Bái giai đoạn 2012-2016 và thực tiễn thi hành pháp luật về tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp tại tỉnh Yên Bái qua công tác an toàn, vệ sinh lao động giai đoạn 20152016 và công tác y tế lao động giai đoạn 2011-2016 để nêu lên thực trạng từ đó đưa
ra một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, Luận văn
không nghiên cứu về thanh tra và xử lý giải quyết tranh chấp, vi phạm liên quan đến
chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu: mục tiêu của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận
pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, đánh giá thực trạng pháp luật về tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái, từ đó đưa ra
một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục tiêu nghiên cứu như trên, luận văn
có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất: nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về pháp luật tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp như khái niệm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; pháp
luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; nội dung pháp luật về tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp.
Thứ hai: phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp, những thành tựu, hạn chế và các nguyên nhân của nó.


5

Thứ ba: từ thực trạng pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái, Luận văn đưa ra một số giải pháp và kiến nghị
nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, trong
đó có một số giải pháp cụ thể cho tỉnh Yên Bái.

5. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Trên cơ sở thế giới quan triết học Mác - Lênin, Luận văn sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
Phương pháp phân tích và tổng hợp: Luận văn sử dụng phương pháp phân
tích để phân tích các quy định của pháp luật hiện hành, nội dung các công trình
khoa học tham khảo, số liệu thu thập và tổng hợp kết quả đã phân tích để có cái
nhìn khách quan, toàn diện về pháp luật tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp hiện
hành. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các chương của luận văn.
Phương pháp thống kê và so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp thống
kê số liệu thu thập và phương pháp so sánh số liệu để phản ánh thực trạng pháp luật
về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái. Phương
pháp này được sử dụng chủ yếu trong chương 2.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa khoa học: Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận pháp luật về tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp qua việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái để đưa ra một số giải pháp và kiến nghị có cơ sở
khoa học.
Ý nghĩa thực tiễn: từ thực tiễn thi hành pháp luật về tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp tại tỉnh Yên Bái, Luận văn tổng hợp và đưa ra một số giải pháp và kiến
nghị, tác giả Luận văn hy vọng đó sẽ là những ý kiến có chất lượng và được tham
khảo trong việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật hiện hành.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và
pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và
thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Yên Bái.



6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ TAI NẠN LAO ĐỘNG,
BỆNH NGHỀ NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động
Để tồn tại con người phải lao động sản xuất ra của cải vật chất nuôi sống bản
thân mình, trong quá trình lao động sản xuất con người tác động trực tiếp hoặc gián
tiếp thông qua công cụ lao động thô sơ hay hiện đại vào thế giới vật chất để sản xuất
ra tư liệu tiêu dùng phục vụ cho cuộc sống.
Quá trình lao động sản xuất luôn tiềm ẩn những nguy cơ gây ra tai nạn cho
con người, tức người lao động (NLĐ), vì vậy, tai nạn lao động (TNLĐ) xuất hiện
gắn liền với quá trình lao động và có thể xảy ra ở mọi ngành nghề, mọi quốc gia.
TNLĐ không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống, sức khỏe, thu nhập của NLĐ mà còn
ảnh hưởng đến thân nhân của NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ), Nhà nước
và xã hội. Trong các văn bản luật quốc tế hiện nay không nêu ra khái niệm TNLĐ.
Điều 7 Công ước số 121 về trợ cấp TNLĐ năm 1964 (Công ước số 121) của Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) quy định: mỗi nước thành viên phải đưa ra định nghĩa
về "tai nạn lao động" trong đó nêu các điều kiện để tai nạn giao thông được coi là
TNLĐ và chỉ rõ các điều khoản trong định nghĩa…2
Có nhiều khái niệm về TNLĐ do các tài liệu khoa học đưa ra:
- Tai nạn lao động là tai nạn bất ngờ xảy ra do lao động hay trong quá trình
lao động, có thể gây tử vong hoặc gây cho cơ thể một tổn thương hoặc một rối loạn
chức năng vĩnh viễn hay tạm thời3.
- Tai nạn lao động là tai nạn xảy ra gây tác hại đến cơ thể NLĐ do tác động

của yếu tố nguy hiểm và có hại trong sản xuất4.
2

Tổ chức Lao động quốc tế (1964), Công ước số 121 về trợ cấp tai nạn lao động, Hà Nội.
Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2000), Từ điển Bách khoa Việt Nam, Hà Nội, trích trong
tài liệu: "Hoàng Bích Hồng (2011), Hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 23".
3


7

- Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng
nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho NLĐ, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền
với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động5.
Mặc dù có nhiều khái niệm về TNLĐ nhưng các khái niệm về TNLĐ đều có
điểm chung đó là tai nạn được xem là TNLĐ khi thỏa mãn ba điều kiện: thứ nhất, là
tai nạn xảy ra bất ngờ; thứ hai, TNLĐ xảy ra gắn với quá trình làm việc của NLĐ,
gắn với việc thực hiện nhiệm vụ lao động; thứ ba, tai nạn phải để lại hậu quả hoặc
làm chết người hoặc làm tổn thương, hoặc hủy hoại chức năng hoạt động bình
thường của một bộ phận nào đó của cơ thể6.
Điểm quan trọng nhất để phân biệt TNLĐ với tai nạn rủi ro là ở chỗ tai
nạn đó gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ của NLĐ (bị tai nạn) hay
không. Chỉ được coi là TNLĐ khi tai nạn đó xảy ra trong quá trình NLĐ thực
hiện các nghĩa vụ lao động được pháp luật quy định, nội quy, quy chế của đơn vị
sử dụng lao động quy định hoặc theo sự thỏa thuận của hai bên trong thỏa ước
lao động tập thể, hợp đồng lao động (HĐLĐ)… những trường hợp khác đều
được coi là tai nạn rủi ro và áp dụng chế độ bảo hiểm ốm đau để giải quyết
quyền lợi của NLĐ7.
Tuy có nhiều khái niệm về TNLĐ, nhưng theo Luận văn có thể đưa ra khái

niệm về TNLĐ như sau: TNLĐ là tai nạn xảy ra bất ngờ trong quá trình lao động,
gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ lao động, gây ra tổn thương cơ thể hoặc tử
vong cho NLĐ.
1.1.1.2. Khái niệm bệnh nghề nghiệp
Cũng giống như TNLĐ, bệnh nghề nghiệp (BNN) cũng xuất hiện gắn liền
với quá trình lao động của con người. Trong quá trình lao động NLĐ có thể phải
tiếp xúc với những yếu tố có hại của môi trường làm việc, dần dần gây ảnh hưởng
đến sức khỏe của NLĐ, có nhiều khái niệm về BNN do các tài liệu khoa học
đưa ra:
4

Trường Đại học Lao động - Xã hội (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Hà Nội, tr. 371, trích trong tài liệu:
"Lục Thị Thu Hòe (2015), Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thi hành tại Bắc Giang,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 6".
5
Quốc hội (2012), Bộ luật lao động, khoản 1 Điều 142, Hà Nội.
6
Hoàng Bích Hồng (2011), Hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở Việt
Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, tr. 23.
7
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 165.


8

- Bệnh nghề nghiệp là những bệnh lý mang đặc trưng của nghề nghiệp hoặc
liên quan đến nghề nghiệp, nguyên nhân của BNN là do tác hại thường xuyên và lâu
dài của điều kiện lao động không tốt8.
- Bệnh nghề nghiệp là một hiện trạng bệnh lý mang tính chất đặc trưng nghề
nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp mà nguyên nhân gây bệnh do tác động

thường xuyên và kéo dài của điều kiện lao động xấu9.
- Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện lao động có hại của nghề
nghiệp tác động đối với NLĐ10.
Cũng tương tự như TNLĐ, dấu hiệu "gắn liền với công việc, nhiệm vụ lao
động" chính là dấu hiệu quan trọng để phân biệt giữa BNN và bệnh thông thường.
Điều kiện lao động có hại của nghề nghiệp có thể là hệ quả của các yếu tố vật lý
như nhiệt độ, độ ẩm, tiếng ồn, rung động, các bức xạ có hại… do các yếu tố hóa học
như các chất độc các chất phóng xạ… do các yếu tố sinh hóa như sinh vật, vi sinh
vật, các loại vi khuẩn, siêu vi khuẩn, côn trùng… hoặc các yếu tố về tư thế lao
động, độ tiện nghi về không gian nơi làm việc, mất vệ sinh, các yếu tố tâm lý không
thuận lợi… điều kiện có hại của nghề nghiệp tác động dần dần, phá hủy các bộ
phận, chức năng của NLĐ và sinh ra bệnh11.
Việc xác định BNN phụ thuộc vào khả năng xác định yếu tố độc hại của môi
trường lao động và trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Tuy có nhiều
khái niệm về BNN, nhưng theo luận văn có thể đưa ra khái niệm BNN như sau:
BNN là bệnh mà NLĐ mắc phải do làm việc thường xuyên trong thời gian dài ở môi
trường có yếu tố độc hại.
Tai nạn lao động, BNN đều làm suy giảm sức khỏe gây ảnh hưởng đến khả
năng lao động hoặc có thể gây ra tử vong cho NLĐ, tuy nhiên TNLĐ, BNN có điểm
khác nhau căn bản là TNLĐ xảy ra bất ngờ, phát sinh trong khoảng thời gian ngắn
còn BNN xảy ra từ từ, phát sinh trong khoảng thời gian dài.
8

ngày truy cập
02/7/2017.
9
Trường Đại học Lao động - Xã hội (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, Hà Nội, tr. 374, trích trong tài liệu:
"Lục Thị Thu Hòe (2015), Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp từ thực tiễn thi hành tại Bắc Giang,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, khoa Luật, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr. 8".
10

Quốc hội (2012), Bộ luật Lao động, khoản 1 Điều 143, Hà Nội.
11
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật an sinh xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 166.


9

1.1.2. Khái niệm và vai trò của pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Nhà nước xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật để thực hiện chức năng
quản lý xã hội. Pháp luật có đặc trưng là: do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận; có
giá trị bắt buộc phải thực hiện đối với mọi cá nhân, tổ chức khi cá nhân, tổ chức đó
ở vào những hoàn cảnh, tình huống mà pháp luật dự liệu; pháp luật được Nhà nước
đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế12. NLĐ là chủ thể trực tiếp tham gia
quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần trong xã
hội, tuy nhiên, trong quá trình lao động sản xuất lại tiềm ẩn những nguy cơ gây ra
TNLĐ, BNN cho NLĐ. Để bảo vệ NLĐ Nhà nước phải xây dựng, tổ chức thực hiện
những quy định pháp luật trong lĩnh vực TNLĐ, BNN.
Có thể đưa ra khái niệm pháp luật về TNLĐ, BNN như sau: Pháp luật về
TNLĐ, BNN là những quy định mang tính bắt buộc của Nhà nước đối với các chủ
thể liên quan trong công tác ATVSLĐ, các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH) NLĐ
được hưởng khi TNLĐ, BNN xảy ra và các biện pháp tổ chức thực hiện.
Nội dung pháp luật về TNLĐ, BNN bao gồm các quy định về các nguyên tắc
cơ bản; trách nhiệm của các chủ thể trong lĩnh vực TNLĐ, BNN; tiêu chuẩn an toàn
lao động (ATLĐ), vệ sinh lao động (VSLĐ) và các biện pháp phòng ngừa TNLĐ,
BNN; trách nhiệm của NSDLĐ khi TNLĐ, BNN xảy ra; các chế độ từ quỹ BHXH
NLĐ được hưởng khi bị TNLĐ, BNN.
1.1.2.2. Vai trò của pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Vai trò của pháp luật về TNLĐ, BNN có thể được hiểu là tác dụng của pháp
luật về TNLĐ, BNN đối với các chủ thể liên quan như Nhà nước, NSDLĐ, NLĐ và

xã hội được thể hiện như sau:
Đối với Nhà nước: pháp luật về TNLĐ, BNN do Nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Nội dung pháp luật về TNLĐ, BNN bao
gồm những quy phạm thể chế hóa chính sách của Nhà nước về lĩnh vực TNLĐ,
BNN, là khung pháp lý mà các chủ thể liên quan bắt buộc phải thực hiện. Vì vậy,
pháp luật về TNLĐ, BNN là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện được chức
năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực TNLĐ, BNN nhằm bảo vệ NLĐ trước những
rủi ro nghề nghiệp cũng như phân phối lại tổng sản phẩm quốc gia thông qua công
12

Nguyễn Văn Động (2014), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, tr. 281-283.


10

cụ BHXH khi TNLĐ, BNN xảy ra nhằm hỗ trợ, giúp đỡ NLĐ, qua đó Nhà nước
thực hiện được chính sách an sinh xã hội (ASXH).
Đối với NSDLĐ: pháp luật về TNLĐ, BNN là căn cứ pháp lý để NSDLĐ
thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong lĩnh vực TNLĐ, BNN. Qua
việc tuân thủ pháp luật về TNLĐ, BNN, NSDLĐ hạn chế được rủi ro gây ra TNLĐ,
BNN đối với NLĐ qua đó giữ được sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng như giảm thiểu được những chi phí khắc phục hậu quả do TNLĐ, BNN gây ra.
Tạo được niềm tin, uy tín cho đơn vị, tạo tâm lý yên tâm cho NLĐ trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, giúp cho quan hệ lao động giữ được sự ổn định, hài hòa, NLĐ
hăng say lao động sản xuất, từ đó lợi nhuận của NSDLĐ được tăng cao.
Đối với NLĐ: pháp luật về TNLĐ, BNN là căn cứ pháp lý để NLĐ được
hưởng quyền bảo vệ trước những rủi ro nghề nghiệp từ phía Nhà nước, NSDLĐ và
các chủ thể có trách nhiệm khác. Khi TNLĐ, BNN xảy ra NLĐ được hỗ trợ, giúp
đỡ khắc phục khó khăn thông qua hệ thống BHXH. Với việc tổ chức thực hiện pháp

luật về TNLĐ, BNN hiệu quả trong thực tế, NLĐ có niềm tin vào vai trò quản lý và
chính sách ASXH của Nhà nước cũng như niềm tin đối với NSDLĐ, qua đó NLĐ
sẽ cố gắng khắc phục, vượt qua khó khăn trong cuộc sống, hăng say lao động khi
phục hồi sức khỏe và trở lại làm việc.
Đối với xã hội: mỗi NLĐ là một thành viên trong xã hội, khi pháp luật về
TNLĐ, BNN được xây dựng, tổ chức thực hiện hiệu quả trong thực tế sẽ bảo vệ
được NLĐ trước những rủi ro nghề nghiệp. Hỗ trợ, giúp đỡ NLĐ và thân nhân của
họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống khi TNLĐ, BNN xảy ra, làm giảm bớt gánh
nặng không đáng có cho xã hội. Qua đó, góp phần thực hiện công bằng, tiến bộ xã
hội, giúp cho xã hội phát triển ổn định, bền vững.
1.2. Nội dung pháp luật về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.2.1. Các nguyên tắc cơ bản
1.2.1.1.Các nguyên tắc chung về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Thứ nhất, Nhà nước thống nhất quản lý về ATVSLĐ
ATVSLĐ có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa TNLĐ, BNN bảo đảm
an toàn tính mạng, sức khỏe cho NLĐ. Nó là yếu tố góp phần duy trì sự phát triển
bền vững của hoạt động sản xuất. Trong xã hội, lực lượng lao động luôn chiếm số
lượng đông đảo, phân bố rộng khắp trên lãnh thổ quốc gia, vì vậy, không một tổ
chức nào ngoài Nhà nước với chức năng quản lý xã hội bằng sức mạnh cưỡng chế


11

và hệ thống các cơ quan nhà nước được tổ chức từ trung ương đến địa phương mới
có thể quản lý lực lượng lao động nói chung cũng như ATVSLĐ trong hoạt động
lao động nói riêng. Nhà nước thống nhất quản lý về ATVSLĐ thể hiện qua việc xây
dựng và tổ chức thực hiện các quy định về ATVSLĐ.
Các quốc gia trên thế giới đều quy định việc Nhà nước thống nhất quản lý
ATVSLĐ thông qua công cụ pháp luật. Luật môi trường làm việc của Thụy Điển
quy định Chính phủ thống nhất quản lý môi trường làm việc thông qua việc ban

hành các quy định đảm bảo ATVSLĐ và giám sát việc tuân thủ đạo luật thông qua
cơ quan môi trường làm việc13. Luật môi trường làm việc của Na Uy cũng quy định
Chính phủ thống nhất quản lý môi trường làm việc thông qua Bộ lao động, việc
giám sát tuân thủ đạo luật thuộc cơ quan kiểm tra lao động14.
Thứ hai, thực hiện ATVSLĐ là nghĩa vụ bắt buộc đối với các bên trong quan
hệ lao động
Hoạt động ATVSLĐ mang tính xã hội, thiếu sự tham gia của các chủ thể
chịu sự điều chỉnh của pháp luật về ATVSLĐ thì ATVSLĐ không thể triển khai
được trong thực tế. Đặc biệt là sự tham gia của các bên trong quan hệ lao động, việc
tuân thủ nghĩa vụ về ATVSLĐ của NSDLĐ và NLĐ là điều kiện tiên quyết bảo
đảm hiệu quả thực thi pháp luật ATVSLĐ trong thực tế. Vì vậy, để nâng cao tính
khả thi của pháp luật Nhà nước quy định nguyên tắc thực hiện ATVSLĐ là nghĩa vụ
bắt buộc đối với các bên trong quan hệ lao động.
Các quốc gia trên thế giới đều quy định việc thực hiện ATVSLĐ là nghĩa vụ
bắt buộc đối với các bên trong quan hệ lao động. Luật môi trường làm việc của
Thụy Điển quy định nghĩa vụ thực hiện ATVSLĐ của NSDLĐ và NLĐ ở chương 3
của đạo luật15. Luật môi trường làm việc của Na Uy quy định nghĩa vụ thực hiện
ATVSLĐ của NSDLĐ và NLĐ ở Chương 2 của đạo luật16.
Thứ ba, tham vấn ý kiến của tổ chức đại diện NSDLĐ và tổ chức đại diện
NLĐ trong xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSLĐ
13

Luật môi trường làm việc Thụy Điển, tại địa chỉ: />lagar-och-regler-om-arbetsmiljo/arbetsmiljolagen/#3 ngày truy cập 02/7/2017.
14
Luật môi trường làm việc Na Uy, tại địa chỉ: />download2.php?tid=92156 ngày truy cập 02/7/2017.
15
Chương 3 Luật Môi trường làm việc Thụy Điển, tại địa chỉ: ngày truy cập 02/7/2017.
16
Chương 2 Luật môi trường làm việc Na Uy, tại địa chỉ: />download2.php?tid=92156ngày truy cập 02/7/2017.



12

Trong quan hệ lao động, mục đích của NSDLĐ là dùng (mua) sức lao động
của NLĐ để tạo ra sản phẩm qua đó thu được lợi nhuận, còn mục đích của NLĐ là
mức tiền công tương xứng với mức tiêu hao (bán) sức lao động trong quá trình sản
xuất. Tuy nhiên, trong quan hệ lao động, NLĐ với tư cách cá nhân thường bị bất lợi
trong mối quan hệ kinh tế so với NSDLĐ, vì vậy, nhu cầu tất yếu khách quan là
những NLĐ có xu hướng tập trung lại thành một tổ chức để đảm bảo quyền lợi, lợi
ích trong quan hệ kinh tế đối với NSDLĐ, tổ chức này là Công đoàn.
Nhà nước tham vấn ý kiến của tổ chức Công đoàn nhằm lắng nghe những
tâm tư, nguyện vọng của tập thể NLĐ qua đó Nhà nước xây dựng, ban hành chính
sách, pháp luật về ATVSLĐ được khách quan, phù hợp với thực tiễn. Để xây dựng,
thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSLĐ được khách quan và việc thực thi hiệu
quả hơn nữa, Nhà nước tham vấn ý kiến của NSDLĐ thông qua tổ chức đại diện
NSDLĐ, qua đó, Nhà nước lựa chọn được phương án xây dựng chính sách, pháp
luật về ATVSLĐ tối ưu nhất, không những bảo vệ được NLĐ mà còn tạo điều kiện
để các cơ sở sản xuất kinh doanh được hiệu quả, từ đó NSDLĐ sẽ chủ động tuân thủ
thực hiện pháp luật ATVSLĐ hơn và NLĐ sẽ được bảo vệ trước những nguy cơ gây
ra TNLĐ, BNN.
ILO quy định các chính sách về ATVSLĐ cơ bản nằm trong ba Công ước
chính là Công ước số 155 về ATLĐ, VSLĐ và môi trường làm việc, 1981 (Công
ước số 155)17. Công ước số 161 về dịch vụ y tế lao động, 1985 (Công ước số 161) 18.
Công ước số 187 về cơ chế tăng cường công tác ATVSLĐ, 2006 (Công ước số
187)19. Các Công ước này đều quy định các nước thành viên tham khảo ý kiến các
tổ chức đại diện nhất của NSDLĐ và NLĐ để thực hiện chính sách quốc gia về
ATVSLĐ. Các nước trên thế giới tùy thuộc vào chế độ chính trị, điều kiện kinh tế xã hội mà việc tham khảo ý kiến của các tổ chức đại diện NSDLĐ và NLĐ trong
việc xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật về ATVSLĐ là khác nhau.
1.2.1.2. Các nguyên tắc riêng về chế độ tại nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Thứ nhất, nguyên tắc đảm bảo sự công bằng giữa các chủ thể tham gia

Để thực hiện chính sách ASXH nhiều quốc gia đã thành lập quỹ bảo hiểm
TNLĐ, BNN trong hệ thống BHXH để nhằm hỗ trợ, giúp đỡ cho NLĐ khi họ gặp
17

Tổ chức Lao động Quốc tế (1981), Công ước số 155 Công ước về An toàn lao động, vệ sinh lao động và
môi trường làm việc, Hà Nội.
18
Tổ chức Lao động Quốc tế (1985), Công ước số 161 Công ước về dịch vụ y tế lao động, Hà Nội.
19
Tổ chức Lao động Quốc tế (2006), Công ước về cơ chế tăng cường công tác an toàn, vệ sinh lao động, Hà Nội.


13

rủi ro nghề nghiệp. NLĐ không phân biệt làm việc trong ngành nghề, lĩnh vực,
thành phần kinh tế nào khi bị TNLĐ, BNN thì đều được hưởng các chế độ theo quy
định. Diện bao phủ của chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN tùy thuộc vào quy định của
từng quốc gia, nhưng chủ yếu là bao phủ hết đối tượng NLĐ tham gia quan hệ lao
động theo hợp đồng, công chức, viên chức nhà nước, vì vậy, chế độ bảo hiểm
TNLĐ, BNN mang ý nghĩa xã hội và nhân văn sâu sắc.
Tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ
phát triển mà đối tượng tham gia chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN mức hưởng các chế
độ… có những quy định khác nhau. Khi nền kinh tế của quốc gia phát triển thì
chính sách ASXH nói chung và chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng luôn được
chú trọng và mở rộng, việc mở rộng đối tượng tham gia và nâng cao mức hưởng các
chế độ trong chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN luôn phải đảm bảo sự công bằng giữa
các đối tượng tham gia.
Thứ hai, thực hiện chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN trên cơ sở kết hợp hài hòa
giữa nguyên tắc "hưởng thụ theo đóng góp" và nguyên tắc "lấy số đông bù số ít"
Nguyên tắc "hưởng thụ theo đóng góp" và nguyên tắc "lấy số đông bù số ít" kết hợp

hài hòa, bổ sung và không loại trừ nhau. Đây là đặc trưng của hệ thống BHXH nói
chung và chế độ TNLĐ, BNN nói riêng. Với nguyên tắc "hưởng thụ theo đóng góp",
sự đóng góp của NLĐ thông qua mức tiền lương, thời gian đóng góp cho quỹ bảo hiểm
TNLĐ, BNN để từ đó xác định mức trợ cấp và thời gian hưởng trợ cấp phù hợp với
mức đóng góp của NLĐ và nhằm bảo toàn quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN. Nguyên tắc
"hưởng thụ theo đóng góp" có quan hệ chặt chẽ với nguyên tắc "lấy số đông bù số ít",
khi một NLĐ bị TNLĐ, BNN sẽ nhận được sự chia sẻ từ sự đóng góp trong quỹ bảo
hiểm TNLĐ, BNN của những NLĐ khác để đảm bảo NLĐ gặp rủi ro nghề nghiệp
sẽ được bù đắp một phần thu nhập giúp họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống, thể
hiện sự tương trợ, giúp đỡ nhau và mang đậm tính nhân văn.
Thứ ba, Nhà nước thống nhất quản lý chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN
BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà là chính sách ASXH của
Nhà nước nhằm hỗ trợ NLĐ bị TNLĐ, BNN và gia đình họ trước những khó khăn
trong cuộc sống. BHXH nói chung và chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng có độ
bao phủ rộng khắp trên lãnh thổ quốc gia, vì vậy, chỉ có Nhà nước với chức năng
quản lý xã hội mới có thể quản lý và đảm bảo thực hiện chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN
một cách thống nhất và hiệu quả nhằm giúp cho xã hội phát triển ổn định, bền vững.


14

Thứ tư, thực hiện chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN phải đơn giản, dễ dàng,
thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của NLĐ
Khi NLĐ bị TNLĐ, BNN thì sức khỏe và tinh thần của họ sẽ bị ảnh hưởng,
nỗi đau thể chất cộng hưởng với nỗi đau tinh thần. Hơn bao giờ hết, họ cần sự hỗ
trợ kịp thời cả về vật chất lẫn tinh thần để họ và những người thân trong gia đình
vượt qua những khó khăn trước mắt cũng như lâu dài. Vì vậy, việc thực hiện chi trả
chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN phải bảo đảm sự thuận tiện, kịp thời và đầy đủ cho
NLĐ, có như vậy mới phát huy được ý nghĩa xã hội của BHXH nói chung và chế độ
bảo hiểm TNLĐ, BNN nói riêng đối với NLĐ và thân nhân của họ.

1.2.2. Trách nhiệm của các chủ thể trong lĩnh vực tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp
1.2.2.1 Trách nhiệm của Nhà nước
Trách nhiệm của Nhà nước trong lĩnh vực TNLĐ, BNN phát sinh từ chức
năng quản lý lao động của Nhà nước. Nhà nước thể hiện trách nhiệm của mình thông
qua việc xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật trong lĩnh vực TNLĐ, BNN nhằm
hướng tới đảm bảo cho NLĐ được làm việc trong điều kiện lao động an toàn và vệ
sinh. Trường hợp NLĐ bị TNLĐ, BNN Nhà nước có những quy định nhằm giúp đỡ,
hỗ trợ NLĐ khắc phục hậu quả, giúp họ vượt qua những khó khăn trong cuộc sống.
Để đảm bảo pháp luật về TNLĐ, BNN được thực thi hiệu quả trên thực tế, thông
qua các cơ quan nhà nước chuyên môn được tổ chức từ trung ương đến địa phương
Nhà nước giám sát việc thực hiện pháp luật của các chủ thể chịu sự điều chỉnh. Qua
đó, pháp luật về TNLĐ, BNN được thi hành nghiêm chỉnh và đi vào cuộc sống.
Các quốc gia đều thể hiện trách nhiệm của mình trong lĩnh vực TNLĐ, BNN,
ví dụ như nước Anh có Luật sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc, trong đạo luật này
trách nhiệm của Nhà nước được thể hiện qua việc Nhà nước quy định về các biện pháp
bảo vệ NLĐ khỏi những nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe hoặc an toàn trong hoạt
động lao động; quy định trách nhiệm của các nhà sản xuất máy móc, hóa chất; về
quyền hạn của cơ quan thanh tra; các dịch vụ y tế lao động…20.
1.2.2.2. Trách nhiệm của người sử dụng lao động
NSDLĐ là người đầu tư kinh phí để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh,
có quyền quản lý lao động, vì vậy, NSDLĐ phải thực hiện ATVSLĐ theo quy định
20

Luật sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc nước Anh, tại địa chỉ: />1974/37/contents ngày truy cập 02/7/2017.


15

của pháp luật trong cơ sở sản xuất để bảo vệ NLĐ trước những rủi ro nghề nghiệp.

Tuy nhiên, với việc thực hiện quy định về ATVSLĐ thì các chi phí đầu vào của quá
trình sản xuất cũng tăng lên, dẫn đến làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị
trường và làm giảm lợi nhuận của NSDLĐ. Điều này dẫn đến NSDLĐ thường
không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm chỉnh các quy định về ATVSLĐ và
hậu quả tất yếu xảy ra là NLĐ bị TNLĐ, BNN trong trường hợp này NSDLĐ phải
có trách nhiệm khắc phục hậu quả do TNLĐ, BNN gây ra đối với NLĐ.
Các quốc gia đều quy định trách nhiệm của NSDLĐ trong lĩnh vực TNLĐ,
BNN, ví dụ Luật môi trường làm việc của Thụy Điển quy định trách nhiệm của
NSDLĐ về ATVSLĐ như: phải áp dụng mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn NLĐ
khỏi bị tiếp xúc với bệnh tật hoặc tai nạn; có trách nhiệm lập kế hoạch, chỉ đạo hoạt
động và kiểm soát môi trường làm việc đáp ứng yêu cầu cho một môi trường làm
việc tốt, trách nhiệm điều tra TNLĐ…21.
1.2.2.3. Trách nhiệm của người lao động
NLĐ là chủ thể trực tiếp tham gia quá trình sản xuất, TNLĐ, BNN xảy ra
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của chính NLĐ nhưng do nhận thức về
vấn đề ATVSLĐ chưa nghiêm túc, chưa lường hết được hậu quả của TNLĐ, BNN
nên NLĐ thường không tự giác thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm chỉnh các
quy định ATVSLĐ. Để ngăn ngừa nguy cơ gây TNLĐ, BNN cho bản thân, NLĐ có
trách nhiệm tuân thủ pháp luật về ATVSLĐ của Nhà nước, tuân thủ nội quy, quy
định về ATLĐ, VSLĐ do NSDLĐ ban hành tại cơ sở sản xuất và phải thực hiện
nghiêm chỉnh trong quá trình lao động.
Các quốc gia đều quy định trách nhiệm của NLĐ trong lĩnh vực TNLĐ,
BNN, ví dụ Luật môi trường làm việc của Thụy Điển quy định trách nhiệm của
NLĐ về ATVSLĐ như: NLĐ tham gia vào việc thực hiện các biện pháp cần thiết để
đạt được một môi trường làm việc tốt. NLĐ phải làm theo hướng dẫn sử dụng các
thiết bị an toàn và thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết khác để ngăn ngừa
bệnh tật và tai nạn…22.
21

2 §, 2a § chương 3 Luật môi trường làm việc Thụy Điển, tại địa chỉ: ngày truy cập 02/7/2017.

22
4 § chương 3 Luật môi trường làm việc Thụy Điển, tại địa chỉ: ngày truy cập 02/7/2017.


16

1.2.2.4. Trách nhiệm của Công đoàn
Với tư cách là tổ chức đại diện cho tập thể NLĐ, Công đoàn có trách nhiệm
bảo vệ các thành viên của mình trong lĩnh vực lao động nói chung. Trong lĩnh vực
TNLĐ, BNN Nhà nước quy định cụ thể trách nhiệm cho Công đoàn, căn cứ vào
trách nhiệm pháp lý được Nhà nước quy định cùng với hệ thống Công đoàn được tổ
chức ở cấp trung ương và cấp cơ sở, Công đoàn có thể thực hiện trách nhiệm của
mình, bảo vệ được NLĐ trước những nguy cơ gây ra TNLĐ, BNN.
1.2.2.5. Trách nhiệm của các chủ thể khác
Nhà nước quy định trách nhiệm của Công đoàn trong lĩnh vực TNLĐ, BNN
tuy nhiên, Công đoàn chỉ đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích cho tập thể NLĐ làm công
ăn lương mà TNLĐ, BNN có thể xảy ra ở bất cứ ngành nghề, lĩnh vực nào. Vì vậy,
Nhà nước quy định trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp trong lĩnh vực TNLĐ, BNN. Các tổ chức này có
các thành viên là những NLĐ khác và có trách nhiệm bảo vệ, quyền, lợi ích chính
đáng cho các thành viên của mình, qua đó bảo vệ được đa số những NLĐ còn lại
trong xã hội trước nguy cơ gây ra TNLĐ, BNN.
1.2.3. Tiêu chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh lao động và các biện pháp
phòng ngừa tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
1.2.3.1. Tiêu chuẩn về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Trong quá trình sản xuất NLĐ sử dụng sức lao động kết hợp với tư liệu sản
xuất và tạo ra sản phẩm. Quá trình sản xuất bao giờ cũng phải thực hiện trong một
điều kiện lao động nhất định.
Điều kiện lao động là tổng thể các yếu tố về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật, kinh
tế, tổ chức thể hiện qua quy trình công nghệ, công cụ lao động, đối tượng lao động,

môi trường lao động, con người lao động và sự tác động qua lại giữa chúng tạo điều
kiện cần thiết cho hoạt động của con người trong quá trình sản xuất. Điều kiện lao
động có ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng con người23.
Trong một điều kiện lao động cụ thể luôn tiềm ẩn những yếu tố nguy hiểm,
có hại là những yếu tố vật chất gây ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng NLĐ như:
các yếu tố vật lý, các yếu tố hóa học, các yếu tố sinh vật, vi sinh vật, các yếu tố bất
23

Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng (2007), Giáo trình an toàn lao động (dùng cho sinh viên khoa cơ khí),
Đà Nẵng, tr. 1, tại địa chỉ:
:805/document.aspx?loc=0&id=86163008978838442171264125596931886725,
ngày truy cập 02/7/2017.


17

lợi về tư thế lao động, nhà xưởng chật hẹp, mất vệ sinh… những yếu tố nguy hiểm,
có hại tiềm ẩn nguy cơ gây ra TNLĐ, BNN như trên cần phải có những nghiên cứu
mang tính khoa học - kỹ thuật để xác định giới hạn an toàn khi NLĐ tiếp xúc trong
quá trình lao động. Trách nhiệm này thuộc về Nhà nước, Nhà nước thông qua các
cơ quan chuyên môn, có đủ điều kiện về khoa học - kỹ thuật để nghiên cứu, xây
dựng và ban hành những tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ.
Căn cứ vào tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ NSDLĐ xây dựng hệ thống tiêu chuẩn
phù hợp để thực hiện trong cơ sở sản xuất. Có hai loại tiêu chuẩn là tiêu chuẩn cấp
nhà nước (áp dụng đối với mọi đơn vị sử dụng lao động) và tiêu chuẩn cấp ngành
(áp dụng trong phạm vi mỗi ngành kinh tế kỹ thuật do đặc thù riêng của ngành đó
chi phối). Tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ là loại quy phạm pháp luật đặc biệt. Về hình
thức nó cũng có đầy đủ các bộ phận cấu thành như quy phạm pháp luật thông thường,
nhưng xét về mặt nội dung, nó chứa đựng những yêu cầu kỹ thuật hay y tế nghiêm
ngặt, là kết quả của những nghiên cứu khoa học về ATLĐ, VSLĐ được pháp điển hóa

thành các quy phạm pháp luật. Việc thực hiện các quy định này trong quá trình lao
động đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt, không thể thỏa thuận hay thay đổi. Đây là
quy phạm vừa mang tính pháp lý, vừa mang tính khoa học - kỹ thuật24.
Những chính sách về ATVSLĐ của ILO thể hiện cơ bản trong Công ước số
155, Công ước số 161 và Công ước số 187. Các quy định trong các Công ước này
đưa ra những chính sách và mô tả cách thức thực hiện chính sách nhằm thúc đẩy
công tác ATVSLĐ và môi trường làm việc để nhằm phòng ngừa TNLĐ, BNN chứ
không đưa ra những quy định cụ thể về tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ.
Các nước trên thế giới đều ban hành những tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ
nhằm bảo vệ NLĐ trước những rủi ro nghề nghiệp. Tuy nhiên, trong các đạo luật
về ATVSLĐ của các nước thường không quy định cụ thể các tiêu chuẩn ATLĐ,
VSLĐ mà các tiêu chuẩn này được quy định ở những văn bản quy phạm pháp
luật khác. Tùy vào điều kiện kinh tế - xã hội, trình độ khoa học - kỹ thuật mà các
quốc gia có quy định khác nhau về tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ. Các nước phát
triển với nền khoa học - kỹ thuật tiên tiến thường quy định các tiêu chuẩn về
ATLĐ, VSLĐ nghiêm ngặt, chặt chẽ hơn so với các nước đang phát triển và các
nước kém phát triển.
24

Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình Luật lao động Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 429-430.


18

1.2.3.2. Các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại cho
người lao động
Các biện pháp phòng, chống các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại cho NLĐ
có thể được hiểu là các biện pháp nhằm loại trừ, giảm thiểu các yếu tố nguy hiểm,
yếu tố có hại trong điều kiện làm việc của NLĐ, bao gồm:

Thứ nhất, thông tin, tuyên truyền, giáo dục về ATVSLĐ.
Trong quá trình lao động NLĐ có thể phải tiếp xúc với các yếu tố nguy hiểm,
yếu tố có hại có nguy cơ gây ra TNLĐ, BNN vì vậy, các chủ thể có trách nhiệm
phải thông tin cho NLĐ về những nguy cơ và các biện pháp bảo đảm ATVSLĐ khi
NLĐ tiếp xúc với các yếu tố đó trong quá trình sản xuất, qua đó, NLĐ nhận thức
được các mối nguy hiểm tiềm tàng có thể gây ra TNLĐ, BNN đối với họ, từ đó
NLĐ chủ động áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn để bảo vệ bản thân trước các
mối nguy hiểm gây ra TNLĐ, BNN.
Thứ hai, nội quy, quy trình bảo đảm ATVSLĐ.
Trong quá trình sản xuất không phải NLĐ nào cũng tự giác thực hiện các biện
pháp bảo đảm ATVSLĐ để bảo vệ bản thân trước những nguy cơ gây ra TNLĐ,
BNN. Để NLĐ có trách nhiệm tuân thủ các biện pháp bảo đảm ATVSLĐ, NSDLĐ
căn cứ vào quy định của pháp luật, quy định về tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ xây dựng
thành nội quy và ban hành trong cơ sở sản xuất để NLĐ phải tuân thủ thực hiện.
Thứ ba, kiểm soát các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại nơi làm việc.
Để NLĐ được làm việc trong điều kiện lao động an toàn thì tất yếu NSDLĐ
phải kiểm soát được các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại cơ sở sản xuất. Bên
cạnh quyền quản lý lao động, NSDLĐ có trách nhiệm phải đảm bảo các yếu tố nguy
hiểm, yếu tố có hại trong điều kiện làm việc của NLĐ nằm trong sự kiểm soát, trong
giới hạn cho phép theo tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ. NSDLĐ phải thường xuyên kiểm
tra, đánh giá các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại tại cơ sở sản xuất, nếu các yếu tố
này không đáp ứng được theo tiêu chuẩn ATLĐ, VSLĐ thì phải có các biện pháp
khắc phục nhằm đảm bảo ATVSLĐ, hạn chế nguy cơ gây ra TNLĐ, BNN.
Thứ tư, biện pháp xử lý sự cố kỹ thuật gây mất ATVSLĐ nghiêm trọng và
ứng cứu khẩn cấp.
Các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất trong quá trình vận hành, sử dụng luôn
tiềm ẩn nguy cơ xảy ra sự cố gây mất ATVSLĐ cho dù trong quá trình lao động


19


NLĐ đã thực hiện đúng quy trình. Vì vậy, để đảm bảo an toàn cho NLĐ, NSDLĐ
phải có phương án dự phòng, xử lý khi sự cố kỹ thuật gây mất ATVSLĐ xảy ra và
tổ chức diễn tập định kỳ phương án xử lý sự cố kỹ thuật cho NLĐ để NLĐ có thể
xử lý tình huống xảy ra trong thực tế. Bên cạnh đó NSDLĐ cũng phải trang bị
phương tiện, thiết bị sơ, cấp cứu y tế gần những nơi có nguy cơ cao xảy ra sự cố kỹ
thuật gây mất ATVSLĐ và hướng dẫn cách sử dụng cho NLĐ để trong trường hợp
sự cố kỹ thuật xảy ra gây thiệt hại về người thì NLĐ có thể kịp thời sơ, cấp cứu nạn
nhân nhằm hạn chế thấp nhất thiệt hại.
Thứ năm, lập phương án bảo đảm ATVSLĐ khi xây dựng mới, mở rộng
hoặc cải tạo công trình, cơ sở để sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ máy, thiết bị,
vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ.
Để đảm bảo ATVSLĐ tại cơ sở sản xuất và hạn chế ảnh sự hưởng đến môi
trường, khi NSDLĐ xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo công trình, cơ sở để sản
xuất, sử dụng, bảo quản, lưu giữ máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt
về ATVSLĐ, Nhà nước quy định NSDLĐ phải có phương án bảo đảm ATVSLĐ và
môi trường, trong đó nêu ra các biện pháp cụ thể nhằm loại trừ, giảm thiểu các yếu
tố nguy hiểm, yếu tố có hại đối với NLĐ, có phương án xử lý sự cố kỹ thuật gây
mất ATVSLĐ nghiêm trọng và phương án ứng cứu khẩn cấp. Qua đó, Nhà nước có
thể quản lý, giám sát việc thực hiện các biện pháp đảm bảo ATVSLĐ của NSDLĐ
và những tác động đến môi trường, nếu NSDLĐ đáp ứng được các yêu cầu theo quy
định thì Nhà nước mới cho phép NSDLĐ thực hiện các hoạt động nói trên.
Thứ sáu, sử dụng máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về
ATVSLĐ.
Các loại máy, thiết bị, vật tư, chất có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ luôn
cần sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Nhà nước trong quá trình đưa vào sử dụng
cũng như thải bỏ, bởi chúng luôn tiềm ẩn nguy cơ rất cao gây ra TNLĐ, BNN. Vì
vậy, Nhà nước quy định khi đưa vào sử dụng các loại máy, thiết bị, vật tư, chất có
yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ trong quá trình sản xuất hoặc khi thải bỏ,
NSDLĐ phải thông báo với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để các cơ quan

này quản lý, giám sát việc thực hiện. Trong quá trình sử dụng máy, thiết bị, vật tư,
chất có yêu cầu nghiêm ngặt về ATVSLĐ, NSDLĐ có trách nhiệm định kỳ kiểm
tra, bảo dưỡng, lập hồ sơ theo dõi theo quy định.


×