Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.04 MB, 92 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ XUÂN HÙNG

THANH TRA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ XUÂN HÙNG

THANH TRA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
TỪ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH YÊN BÁI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số



: 60 38 01 07

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hữu Chí

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Xuân Hùng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA

5


LAO ĐỘNG

1.1. Khái quát về thanh tra và thanh tra pháp luật lao động

5

1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về Thanh tra lao động

15

1.3. Thanh tra lao động theo quan niệm của Tổ chức lao động quốc tế

26

(ILO) và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới
Chương 2: THỰC TRẠNG THANH TRA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG

32

TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TẠI TỈNH YÊN BÁI

2.1. Khái quát về tình hình kinh tế, xã hội tỉnh Yên Bái

32

2.2. Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động tại Yên Bái

34

2.3. Thực trạng chấp hành pháp luật lao động trong các đơn vị, doanh


40

nghiệp tại tỉnh Yên Bái thông qua hoạt động thanh tra
2.4

Nguyên nhân vi phạm pháp luật lao động tại các đơn vị, doanh

56

nghiệp ở tỉnh Yên Bái
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THANH TRA PHÁP

61

LUẬT LAO ĐỘNG Ở TỈNH YÊN BÁI

3.1. Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật

61

3.2. Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện

67

3.3

Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Thanh tra lao

70


động tại tỉnh Yên Bái
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

75


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật
chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Vì vậy, các quy định về
lao động - trong đó có pháp luật lao động - có ý nghĩa hết sức quan trọng trong đời
sống xã hội.
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và của
người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử dụng và quản lý
lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất, vì vậy có vị trí quan trọng trong hệ thống
pháp luật của quốc gia.
Hệ thống pháp luật lao động nước ta ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, tuy
nhiên để đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống một cách sâu rộng đòi hỏi Thanh tra
lao động phải đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng ý thức về công bằng và gắn
kết xã hội. Trong quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động
sự yếu thế thuộc về người lao động; Người sử dụng lao động vì lợi ích kinh tế, luôn
muốn tiết giảm chi phí, xâm phạm đến quyền và lợi ích chính đáng của người lao
động. Một thực tế hiện nay khi quyền và nghĩa vụ của cả hai bên ngày càng được
mở rộng thì những dấu hiệu vi phạm lại có chiều hướng gia tăng dẫn đến tình trạng
tranh chấp lao động, đình công, ngừng việc tập thể, tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp có diễn biến phức tạp.
Với nhiệm vụ thực hiện toàn bộ các hoạt động thanh tra trong cả nước; với
khoảng 365.000 doanh nghiệp đang hoạt động (Đề án nâng cao năng lực thanh tra
ngành Lao động - Thương binh và Xã hội đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 2155/QĐ-TTg ngày 11/11/2013), năm 2016 toàn
quốc xảy ra 6.695 vụ tai nạn lao động, làm 6.887 người bị nạn, số người chết là 672
người, 1.506 người bị thương nặng, gây thiệt hại về vật chất là hơn 71 tỷ đồng, thiệt
hại về tài sản là 6,27 tỷ đồng, tổng số ngày nghỉ do tai nạn lao động là 153.658
ngày; năm 2013 toàn quốc cũng để xảy ra gần 2.700 vụ cháy nổ, làm chết trên 100
người, bị thương gần 200 người, thiệt hại tài sản gần 1.700 tỷ đồng là những con số
biết nói làm bất cứ ai trong chúng ta cũng phải xót xa, suy nghĩ.


2

Với chức năng giúp Giám đốc Sở thực hiện quản lý nhà nước về công tác
thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động. Thời gian qua, Thanh tra Sở Lao động Thương binh Xã hội tỉnh Yên Bái đã n lực, tích cực tham mưu, giúp Thủ trưởng cơ
quan c ng cấp thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước. Hàng năm, thanh tra đã
phát hiện, kiến nghị hàng ngàn hành vi sai phạm, xử lý hàng trăm hành vi vi phạm
pháp luật thu về cho ngân sách nhà nước gần trăm tỷ đồng, đề xuất sửa đổi, bổ sung
nhiều quy phạm pháp luật liên quan đến cơ chế, chính sách đảm bảo ph hợp với
thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước của ngành.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định, song từ hoạt động thực tiễn cho
thấy công tác thanh tra pháp luật lao động của ngành Lao động - Thương binh và
Xã hội Yên Bái đã và đang bộc lộ những hạn chế, bất cập trước xu thế phát triển
nhanh chóng của đời sống kinh tế - xã hội và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đặc
biệt là trước yêu cầu của nhiệm vụ chính trị được giao trong thời gian trước mắt
cũng như lâu dài, mục đích và kết quả đạt được còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu
trong tình hình hiện nay. Vì vậy câu hỏi đặt ra cho chúng ta là "Tại sao?" và phải
"Làm gì?"

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước trước sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt trước đòi hỏi của cơ chế thị trường
và hội nhập quốc tế, Thanh tra lao động Yên Bái nói riêng và hệ thống cơ quan
Thanh tra lao động toàn quốc nói chung cần phải được nghiên cứu một cách toàn
diện, có hệ thống, trong đó việc hoàn thiện pháp luật lao động và củng cố tổ chức
làm công tác thanh tra pháp luật lao động là vấn đề đặt ra cấp thiết trong giai đoạn
hiện nay.
Vì vậy, nhằm góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong
lĩnh vực lao động, tôi xin chọn đề tài: "Thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động
từ thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên Bái" làm luận văn nghiên cứu của mình, đây là
nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, nhưng có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, công
trình nghiên cứu, đề tài khoa học và bài viết liên quan đến thanh tra ngành Lao động Thương binh và Xã hội, trong đó đáng lưu ý là một số công trình sau: "Hoàn thiện
pháp luật thanh tra trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ Luật học của Nguyễn


3

Thị Thương Huyền (2009); "Tổ chức và hoạt động của Thanh tra Lao động Thương binh và Xã hội, thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ Luật học của
Nguyễn Thị Hồng Diệp (2009); "Thanh tra lao động theo pháp luật lao động Việt
Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của Đ Thị Thu Hiền (2011); "Các điều kiện và
giải pháp để chuyển phương thức thanh tra theo đoàn sang Thanh tra viên phụ
trách vùng", Đề tài cấp Bộ của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội do TS. B i Sĩ
Lợi chủ nhiệm (2003); "Nâng cao năng lực hệ thống thanh tra ngành Lao động Thương binh và Xã hội", Đề án của Thanh tra ngành Lao động-Thương binh và Xã
hội (2005); "Vai trò của Thanh tra lao động trong việc thúc đẩy trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp", TS B i Sĩ Lợi (2006), Tạp chí Lao động và Xã hội và đặc biệt
là "Đề án nâng cao năng lực thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
đến năm 2020" của Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2155/QĐ-TTg ngày 11/11/2013…

Ngoài ra còn nhiều bài viết trên các báo, tạp chí và trang website cũng phản ánh về
vấn đề này…
Tính đến nay, có thể khẳng định rằng, ở Việt Nam chưa có nhiều công trình
đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống về Thanh tra việc thực
hiện pháp luật lao động. Trên cơ sở tiếp thu và kế thừa những kết quả đã đạt được
của các công trình trước đó, luận văn này sẽ làm sâu sắc thêm những lý luận cơ bản
nhất về thanh tra, Thanh tra lao động, thương binh, xã hội và thực trạng hoạt động
của Thanh tra lao động tại tỉnh Yên Bái, từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp
luật lao động, hoạt động Thanh tra lao động nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước về lao động trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là từ hoạt động thực tiễn trong công tác Thanh tra
lao động tại tỉnh Yên Bái để đánh giá, góp phần xây dựng những vấn đề lý luận
pháp lý về Thanh tra lao động, đưa ra những đề xuất, giải pháp nhằm nâng cao hiệu
lực hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước đối với thanh tra pháp luật lao động
trong các doanh nghiệp.
Luận văn có nhiệm vụ tìm hiểu những quan điểm, quan niệm, quy định của
pháp luật Việt Nam về Thanh tra lao động, soi vào thực tiễn hoạt động của Thanh
tra lao động tại tỉnh Yên Bái; tìm hiểu những khó khăn, vướng mắc; đề xuất kiến


4

nghị hoàn thiện hệ thống Thanh tra lao động, về pháp luật lao động và nâng cao hơn
nữa hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao động hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử mácxít; quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa.
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như

phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp, so sánh đối chiếu và khảo sát thực tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thanh tra và Thanh tra lao động.
Chương 2: Thực trạng thanh tra pháp luật lao động trong các doanh nghiệp
tại tỉnh Yên Bái.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thanh tra pháp luật lao động ở tỉnh
Yên Bái.


5

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THANH TRA VÀ THANH TRA LAO ĐỘNG
1.1. Khái quát về thanh tra và thanh tra pháp luật lao động
1.1.1. Khái quát về thanh tra
1.1.1.1. Khái niệm thanh tra
Theo Từ điển tiếng Việt: Thanh tra (người thuộc cơ quan có thẩm quyền)
kiểm tra, xem xét tại ch việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp) với nghĩa
này, thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm "xem xét và phát hiện, ngăn chặn
những gì trái với quy định". Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định:
"Người làm nhiệm vụ thanh tra", "Đoàn thanh tra" và "đặt trong phạm vi quyền
hành của một chủ thể nhất định" [22, tr. 504].
Hiện nay, cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện "thanh tra" với mức
độ khác nhau qua mô hình các cơ quan nhà nước và các quy định của Hiến pháp và
pháp luật:
Thời kỳ sau 2/9/1945:
Sau khi giành độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, ngày
23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban Thanh tra

đặc biệt, thuật ngữ "thanh tra" xuất hiện, quyền thanh tra được xác định và chính
thức giao cho Chính phủ.
Hiến pháp 1946 chưa sử dụng thuật ngữ "thanh tra", hoạt động thanh tra,
kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chuyên trách nào, quyền kiểm soát đối
với Chính phủ được giao cho Ban thường vụ của Nghị viện.
Hiến pháp 1959 đã đề cập đến một số nội dung về kiểm tra việc thi hành
các quyết định quản lý nhà nước.
Hiến pháp 1980 sử dụng thuật ngữ "thanh tra" với nội dung là một chức
năng của cơ quan quản lý nhà nước.
Hiến pháp 1992: Khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn tại các
điều 112, 115, 116 và 124; Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có nhiệm vụ: "Tổ
chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra,
kiểm tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước; công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân".


6

1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra
- Thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước, với tư cách là một chức năng, là
một giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước, thanh tra gắn liền với quản lý nhà
nước; tất cả các giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước đều phải thông qua thanh
tra, kiểm tra để có thông tin đầy đủ, chính xác.
- Thanh tra luôn mang tính quyền lực nhà nước, là một chức năng của quản
lý nhà nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền
lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Thanh tra là một hoạt động luôn
luôn mang tính quyền lực nhà nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan
nhà nước. Thanh tra luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá trình
tiến hành hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền năng đó.
- Thanh tra có tính độc lập tương đối, đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ

bản chất của thanh tra, đặc điểm này phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan
chức năng khác của bộ máy quản lý nhà nước.
-Thanh tra lao động có chức năng: thanh tra chuyên ngành đối với các cơ quan,
tổ chức, cá nhân trong việc thực hiện pháp luật lao động nhằm phục vụ cho quản lý,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể lao động và tổ chức cá nhân khác.
1.1.1.3. Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
Gồm: Cơ quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành.
Tại Điều 3 Luật thanh tra 2010, quy định:
- Thanh tra nhà nước.
Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
- Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành
Là cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực, bao
gồm tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành.
Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chỉ thực hiện hoạt động thanh tra
hành chính, còn các cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực thì vừa thực hiện thanh
tra hành chính, vừa thực hiện thanh tra chuyên ngành.


7

Như vậy, bộ máy thanh tra là hệ thống các cơ quan thanh tra từ trung ương
đến địa phương, có mối liên hệ với nhau trong công tác thanh tra, chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan quản lý c ng cấp, đồng thời chịu sự lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất của Tổng Thanh tra về tổ chức và hoạt động thanh tra.
1.1.1.4. Vị trí, vai trò của thanh tra

Nói tới vai trò của thanh tra là nói tới những tác động, ảnh hưởng của thanh
tra đối với quản lý nhà nước, đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động của
mình; đối với xã hội thông qua việc thực hiện chức năng thanh tra. Vai trò của
thanh tra thể hiện trên những điểm sau:
Thứ nhất, thanh tra có vai trò trong việc hoàn thiện cơ chế quản lý, chính
sách, pháp luật.
Hoạt động thanh tra, theo quy định của Luật Thanh tra, nhằm phòng ngừa,
phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Các thông tin cung cấp cho chủ
thể quản lý qua hoạt động thanh tra càng chính xác, đúng đắn thì các chủ thể quản
lý nhà nước càng sửa chữa các khuyết điểm trong việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, trong tổ chức thực hiện pháp luật chính xác và có chất lượng. Chính vì
vậy, thanh tra cũng làm cho chu trình quản lý nhà nước khép kín, từ hoạt động ban
hành, tổ chức thực hiện đến kiểm tra việc thực hiện các quyết định quản lý và phục
vụ cho yêu cầu quản lý nhà nước.
Thứ hai, thanh tra là phương thức đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ
luật nhà nước
Pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc quản lý nhà nước rất quan trọng,
thiếu nó quản lý nhà nước sẽ rơi vào tình trạng rối loạn. Pháp chế còn được hiểu là
chế độ hoạt động của Nhà nước mà trong đó mọi quy định của pháp luật đều được
mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và công dân thực hiện nghiêm túc. Việc bảo đảm
pháp chế sẽ không có ý nghĩa nếu kỷ luật nhà nước không được tuân thủ một cách
nghiêm minh. Thông qua công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng, cơ quan thanh tra kịp thời phát hiện, kết luận và kiến nghị xử lý


8


cơ quan hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật. Qua đó tạo ra cơ chế kiểm
soát thực hiện quyền lực nhà nước trong hoạt động hành chính, khắc phục tình trạng
thiếu trật tự, kỷ cương nhằm ngăn chặn và xử lý nghiêm minh mọi hành vi trái pháp
luật của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, nâng cao trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức.
Thứ ba, thanh tra góp phần phát huy dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức và công dân.
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là một chức năng quan
trọng của Nhà nước pháp quyền, một trong những tiêu chí đánh giá mức độ dân
chủ. Trong sự nghiệp đổi mới, Nhà nước đảm bảo duy trì trật tự kỷ cương trong
quản lý nhà nước, tạo điều kiện quan trọng để thực hiện đầy đủ quyền con người,
quyền công dân mà Hiến pháp ghi nhận thông qua hoạt động thanh tra thực hiện
quyền lực nhà nước, trong hệ thống hành chính của cơ quan, cán bộ, công chức,
viên chức; thông qua hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và thanh tra việc thực
hiện pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hoạt động thanh tra góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính trong điều kiện
phát triển nền kinh tế thị trường với sự b ng nổ về số lượng doanh nghiệp và quy
luật cạnh tranh gay gắt của cơ chế thị trường. Luật Thanh tra đã quy định nguyên
tắc "không làm cản trở hoạt động bình thường, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật".
1.1.1.5. Mục đích thanh tra, nguyên tắc hoạt động thanh tra
- Mục đích thanh tra
Mục đích thanh tra là nội dung quan trọng đã được pháp luật thanh tra trước
đây đề cập, song từ yêu cầu công tác quản lý cho nên trong m i giai đoạn cụ thể
mục đích của thanh tra có sự thay đổi nhất định. Nếu như Luật thanh tra năm 2004
đề cao mục đích thanh tra là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật thì Luật thanh tra năm 2010 đã thể hiện rõ hơn mục đích thanh tra theo tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Thanh tra là tai mắt của trên, là bạn của dưới".
Hơn nữa, với vai trò là công cụ của quản lý nhà nước, mục đích chủ yếu của hoạt

động thanh tra là giúp chủ thể quản lý nhà nước kiểm soát và bảo đảm cho các đối
tượng quản lý chấp hành đúng chính sách, pháp luật, chứ không chỉ là tìm ra vi
phạm để xử lý, cho nên Luật thanh tra năm 2010 đã xác định hoạt động thanh tra


9

ngoài việc phát hiện, xử lý những sai phạm; kiến nghị việc khắc phục, hoàn thiện cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật còn có mục đích là giúp cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện đúng các quy định của pháp luật, nhất là các doanh nghiệp, hộ kinh
doanh. Đây cũng là xu hướng chung của hoạt động thanh tra trên thế giới hiện nay.
- Nguyên tắc hoạt động thanh tra
Nguyên tắc hoạt động thanh tra là cơ sở và tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt
trong quá trình thực hiện hoạt động của các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra
nhà nước. Chính vì vậy pháp Luật thanh tra đã quy định nguyên tắc hoạt động thanh
tra là: Tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan trung thực, công khai,
dân chủ, kịp thời; không tr ng lắp về phạm vi, đối tượng nội dung, thời gian thanh
tra giữa các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra; không làm cản trở hoạt động
bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
1.1.2. Khái quát về thanh tra pháp luật lao động
1.1.2.1. Khái niệm Thanh tra lao động
Thanh tra lao động đóng vai trò thiết yếu trong quản lý nhà nước về lao động.
Với mục đích của Thanh tra lao động là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật lao động; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách pháp
luật để kiến nghị nhà nước biện pháp khắc phục, phát huy nhân tố tích cực góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về lao động.
* Phân biệt giữa thanh tra và kiểm tra: Theo Từ điển Tiếng Việt thì "kiểm
tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét". Có thể nói giữa hoạt động
thanh tra và kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ, gần gũi và có nhiều điểm giao thoa
nhau. Bởi vì thanh ra và kiểm tra đều là những công cụ quan trọng, một chức năng

chung của quản lý nhà nước, là hoạt động mang tính chất phản hồi của "chu trình
quản lý". Qua kiểm tra, thanh tra, các cơ quan quản lý nhà nước có thể phân tích,
đánh giá, theo dõi quá trình thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Đây là
mối quan hệ đan chéo nhau. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thanh tra là một loại hình
đặc biệt của kiểm tra, ngược lại nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thanh tra lại bao hàm cả
kiểm tra. Các hoạt động thao tác nghiệp vụ trong một cuộc thanh tra như việc kiểm
tra sổ sách, tài liệu của đối tượng thanh tra; so sánh đối chiếu, đánh giá tài liệu,
chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra… đó là kiểm tra. Chính vì vậy
trong thực tiễn, nhiều người trong đó có cả một số doanh nghiệp thường hay nhầm


10

lẫn, đồng nhất kiểm tra với thanh tra. Tuy nhiên với tư cách là một hoạt động độc
lập, kiểm tra có nhiều điểm khác biệt với thanh tra:
Một là, về chủ thể tiến hành: Giữa kiểm tra và thanh tra có một mảng giao
thoa về chủ thể, đó là Nhà nước. Nhà nước tiến hành cả hoạt động thanh tra và kiểm
tra. Tuy nhiên, chủ thể của kiểm tra rộng hơn của thanh tra rất nhiều. Trong khi chủ
thể tiến hành thanh tra phải là Nhà nước, thì chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là
Nhà nước hoặc có thể là chủ thể phi nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra
của một tổ chức chính trị, tổ chức chính trị- xã hội (Đảng, Công đoàn, Mặt trận,
Đoàn thanh niên...), hay như hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp.
Hai là, về mục đích thực hiện: Mục đích của thanh tra bao giờ cũng rộng
hơn, sâu hơn đối với các hoạt động kiểm tra. Đặc biệt, đối với các cuộc thanh tra để
giải quyết khiếu nại, tố cáo thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa giữa hoạt động
thanh tra và kiểm tra càng rõ hơn nhiều, bởi: thông thường khiếu nại, tố cáo phản
ánh sự bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc mà nhân dân cho là quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm cho nên mục đích của hoạt động thanh tra
không còn chỉ là xem xét, đánh giá một cách bình thường nữa.
Ba là, về phương pháp tiến hành: Với mục đích rõ ràng hơn, rộng hơn, khi

tiến hành thanh tra, Đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp vụ sâu
hơn, đi vào thực chất đến tận c ng của vấn đề như: xác minh, thu thập chứng cứ,
đối thoại, chất vấn, giám định... Đặc biệt, trong quá trình thanh tra, các Đoàn thanh
tra còn có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để phục vụ thanh tra theo quy định
của pháp luật về thanh tra để tác động lên đối tượng bị quản lý.
Bốn là, về trình độ nghiệp vụ: Hoạt động thanh tra đòi hỏi thanh tra viên tra
phải có nghiệp vụ giỏi, am hiểu về kinh tế - xã hội, có khả năng chuyên sâu vào lĩnh
vực thanh tra hướng đến. Do nội dung hoạt động kiểm tra ít phức tạp hơn thanh tra và
chủ thể của kiểm tra bao gồm lực lượng rộng lớn có tính quần chúng phổ biến nên nói
chung, trình độ nghiệp vụ kiểm tra không nhất thiết đòi hỏi như nghiệp vụ thanh tra.
Năm là, về phạm vi hoạt động: Phạm vi hoạt động kiểm tra thường theo bề
rộng, diễn ra liên tục, ở khắp nơi với nhiều hình thức phong phú, mang tính quần
chúng. Phạm vi hoạt động của thanh tra thường hẹp hơn hoạt động kiểm tra.
Sáu là, về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra thường có nhiều
vấn đề phải xác minh, đối chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ cần được làm rõ,
cho nên phải sử dụng thời gian nhiều hơn so với kiểm tra.


11

Thanh tra và kiểm tra tuy có sự phân biệt nhưng chỉ là tương đối. Khi tiến
hành một cuộc thanh tra, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp vụ đó thực
chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra để làm rõ vụ việc, lại lựa
chọn được nội dung thanh tra. Kiểm tra và thanh tra là hai khái niệm khác nhau
nhưng có liên hệ qua lại, gắn bó. Do vậy, khi nói đến một khái niệm người ta
thường nhắc đến cả cặp với tên gọi là thanh tra, kiểm tra hay kiểm tra, thanh tra.
* Phân biệt giữa thanh tra và giám sát
Trong Từ điển Tiếng Việt, "giám sát" được hiểu là "theo dõi và kiểm tra
xem có thực hiện đúng những điều đã quy định không".
Như vậy, có thể nói: ở mức độ ý nghĩa chung nhất, giám sát và thanh tra

đều được tiến hành trên cơ sở các quyền và nghĩa vụ của chủ thể được thanh tra,
giám sát và đối tượng chịu sự thanh tra, giám sát. Tuy nhiên, chúng vẫn có điểm
khác nhau cơ bản là: trong khi thanh tra luôn luôn gắn liền với quản lý nhà nước,
mang tính quyền lực nhà nước thì giám sát có thể mang tính quyền lực nhà nước
hoặc không mang tính quyền lực nhà nước.
+ Giám sát mang tính quyền lực nhà nước được tiến hành bởi chủ thể là các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với một hay một số hệ thống cơ quan nhà
nước khác, chẳng hạn như: hoạt động giám sát của Quốc hội đối với Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao; hoạt động giám sát của
Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan nhà nước ở địa phương.
+ Giám sát không mang tính quyền lực nhà nước: Là loại hình giám sát được
tiến hành bởi các chủ thể phi Nhà nước như hoạt động giám sát của Mặt trận tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên của mặt trận đối với bộ máy nhà nước và đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước; hay đơn giản chỉ là giám sát thi công một công trình.
1.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về Thanh tra lao động
Tìm hiểu đặc điểm của hệ thống văn bản pháp luật về Thanh tra lao động có
ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về thanh tra nói chung và
pháp luật lao động nói riêng. Những đặc điểm này không chỉ giúp chúng ta nhận
diện đúng đắn về vị trí của Thanh tra lao động mà còn là cơ sở lý luận khoa học để
đánh giá thực trạng pháp luật, từ đó có định hướng rõ ràng cho những giải pháp
hoàn thiện pháp luật về Thanh tra lao động, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật
lao động nói riêng, pháp luật quốc gia nói chung.


12

Thứ nhất: Pháp luật lao động là pháp luật chuyên ngành, do đó các quy định
về Thanh tra lao động vừa đảm bảo tính chuyên môn vừa phải ph hợp với các quy
định của pháp luật về thanh tra.
Thanh tra lao động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra trong phạm vi

quản lý nhà nước của cơ quan quản lý nhà nước c ng cấp. Đối tượng Thanh tra lao
động cũng là đối tượng quản lý, nội dung thanh tra phụ thuộc vào nội dung quản lý
của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Giám đốc Sở Lao động Thương binh và Xã hội. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động vừa đảm bảo
thực hiện đúng các quy định của pháp luật thanh tra, vừa đảm bảo tuân thủ các quy
định của pháp luật chuyên ngành.
Thứ hai: Nội dung thanh tra chính là các nội dung được quy định trong Bộ
luật Lao động năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động (các
quy định về tuyển dụng, đào tạo, hợp đồng lao động, tiền công, tiền lương, thời giờ
làm việc nghỉ ngơi, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động...).
Thứ ba: Pháp luật về Thanh tra lao động mang tính thủ tục chặt chẽ.
Thanh tra nói chung và Thanh tra lao động nói riêng là hoạt động được thực
hiện theo một trình tự, thủ tục rất chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả của hoạt động một
cách chính xác, khách quan. Để tiến hành một cuộc Thanh tra lao động, pháp luật
lao động quy định thủ tục hết sức chặt chẽ từ khâu ra quyết định thanh tra đến việc
chỉ đạo, báo cáo ra kết luận và xử lý kết luận thanh tra.
Thứ tư: Pháp luật về Thanh tra lao động gắn liền với pháp luật khiếu nại, tố
cáo và pháp luật phòng chống tham nhũng.
Ngoài nhiệm vụ thanh tra, Thanh tra lao động có nhiệm vụ rất quan trọng là
giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động.
1.1.2.3. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động
Tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động được khái quát như sau:
Thứ nhất, Thanh tra lao động trước năm 2004 (1945 - 2004).
- Giai đoạn 1945 - 1954:
Nhận thức sâu sắc vai trò của công tác thanh tra đối với hoạt động quản lý
nhà nước, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban thanh tra đặc biệt. Trên
cơ sở đó, Bộ Lao động đã thành lập Ban Thanh tra lao động (Nha Thanh tra lao
động), có nhiệm vụ giúp Bộ Lao động nghiên cứu xây dựng chính sách, hướng dẫn


13


chỉ đạo thực hiện đồng thời tổ chức thanh tra, kiểm tra việc thi hành các chính sách,
luật lệ lao động, việc sử dụng lao động và chính sách người lao động.
Ngày 12/3/1947, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh 29-SL trong đó có quy định về thành
lập ngạch thanh tra và kiểm soát lao động trong Bộ luật Lao động, Sắc lệnh số 95-SL
ngày 13/8/1949 chính thức đặt hai ngạch thanh tra và kiểm soát lao động, Sắc lệnh
còn quy định rõ quyền và trách nhiệm của Thanh tra lao động, kiểm soát lao động.
- Giai đoạn 1955 - 1975:
Thanh tra được tổ chức thành các phòng thanh tra, pháp chế, bảo hộ lao
động và phòng lao tư. Năm 1964, Thanh tra kỹ thuật an toàn chính thức được thành
lập với nhiệm vụ giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh
vực an toàn lao động theo Nghị định số 187-CP ngày 18/12/1964.
- Giai đoạn 1976 - 2004:
Bộ Lao động và Bộ Thương binh - Xã hội sáp nhập thành Bộ Lao động Thương binh và Xã hội. Ban Thanh tra lao động và Xã hội được thành lập trên cơ
sở sáp nhập Ban Thanh tra lao động và Ban thanh tra Thương binh và Xã hội của
Bộ Lao động và Bộ Thương binh - Xã hội. Ngày 01/4/1991, Pháp lệnh thanh tra ra
đời quy định rõ thanh tra của các Bộ, ngành nằm trong hệ thống Thanh tra nhà
nước, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ, ngành. Đây là
văn bản mở đầu một giai đoạn phát triển mới của ngành thanh tra. Giai đoạn này
Thanh tra Bộ tách thành hai đơn vị độc lập là Thanh tra chính sách lao động - xã hội
và Thanh tra kỹ thuật an toàn và bảo hộ lao động. Đến năm 2003, khi Nghị định số
29/CP ngày 31/3/2003 được ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
tổ chức bộ máy Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì Thanh tra Bộ mới trở
thành một tổ chức thanh tra duy nhất gọi là Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội với chức năng do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định tại
Quyết định số 1118/2003/QĐ-BLĐTBXH ngày 10/9/2003 của Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Thanh tra Bộ.
Thứ hai, Thanh tra lao động từ năm 2004 đến 2010.
Luật Thanh tra 2004 được ban hành với tinh thần nhằm đổi mới tổ chức và

hoạt động thanh tra, là công cụ pháp lý để kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ quan thanh tra, góp phần quan trọng vào việc đảm bảo thực thi


14

pháp luật trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, đặc biệt là công cuộc phòng chống
tham nhũng. Các quy định cơ bản về mục đích thanh tra, nguyên tắc thanh tra, hình
thức thanh tra, phương thức thanh tra, trình tự, thủ tục thanh tra, nhiệm vụ, quyền
hạn của cơ quan thanh tra, Thanh tra viên, cộng tác viên… đã được ghi nhận, là cơ
sở pháp lý quan trọng cho hoạt động thanh tra. Trên cơ sở Luật Thanh tra 2004,
Nghị định số 31/2006/NĐ-CP ngày 29/3/2006 của Chính phủ quy định về tổ chức
hoạt động của Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội được ban hành. Đây
được coi là Nghị định về thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và Xã
hội; Quyết định số 148/2008/QĐ-LĐTBXH ngày 22/01/2008 về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Bộ; Quyết định số
599/QĐ-BLĐTBXH ngày 29/4/2008 của Bộ trưởng về việc bổ nhiệm Chánh Thanh
tra Bộ, Quyết định số 02/2006 ngày 16/02/2006 ban hành quy chế hoạt động Thanh
tra Nhà nước về lao động theo phương thức Thanh tra viên phụ trách v ng; Quyết
định số 01/2006 ngày 16/02/2006 ban hành quy chế sử dụng phiếu tự kiểm tra thực
hiện pháp luật lao động…
Thứ ba, Thanh tra lao động từ năm 2010 đến nay.
Luật thanh tra năm 2004 đã góp một phần rất quan trọng trong công tác
quản lý nhà nước, tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã bộc lộ một số nhược điểm
như chưa luật hóa chức năng đấu tranh phòng chống tham nhũng, tổ chức bộ máy
chưa khoa học, còn chồng chéo; mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong hoạt
động thanh tra chưa được quy định rõ... Để đáp ứng tốt nhiệm vụ thanh tra trong
thời kỳ mới, ngày 15/11/2010 tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
Thanh tra 2010 trong đó có quy định: về thanh tra viên, cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành; người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra

chuyên ngành; hai khái niệm cơ bản là "thanh tra hành chính" và "thanh tra chuyên
ngành" cũng được sửa đổi, bổ sung nhằm phân biệt rõ hai loại hoạt động này. Hoạt
động thanh tra chuyên ngành có những đặc điểm đó là do các cơ quan có chức năng
quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực tiến hành (như Bộ, Sở, Thanh tra bộ, Thanh tra
sở), cơ quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục
thuộc bộ, Chi cục thuộc sở); Đối tượng thanh tra chuyên ngành là mọi cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành; Nội dung của thanh
tra chuyên ngành là xem xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy


15

định về chuyên môn, kỹ thuật, qui tắc quản lý của ngành. Khi xem xét, các cơ quan
tiến hành có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm.
Trên cơ sở Luật Thanh tra 2010, Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày
22/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra;
Nghị định số 106/2012/NĐ-CP ngày 20/12/2012 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội;
Nghị định số 39/2013/NĐ-CP ngày 24/4/2013 của Chính phủ quy định về tổ chức
hoạt động của Thanh tra ngành Lao động - Thương binh và Xã hội được ban hành.
Thanh tra lao động là một loại của thanh tra ngành Lao động - Thương binh
và Xã hội, một nội dung thanh tra chuyên sâu vào lĩnh vực lao động, bao gồm thanh
tra về lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn lao động, vệ sinh lao
động. Do đó, Thanh tra lao động hoạt động không nằm ngoài mục đích thanh tra
của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội, không vượt quá chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội và hoạt động
nhằm phát huy vai trò của thanh tra nói chung và Thanh tra lao động nói riêng.
1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về Thanh tra lao động
1.2.1. Các quy định cơ bản của pháp luật Thanh tra lao động
Thanh tra lao động là thanh tra chuyên ngành Lao động - Thương binh và

Xã hội; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy
định pháp luật về lao động; điều tra tai nạn lao động và những vi phạm an toàn lao
động, vệ sinh lao động; tham gia hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn
kỹ thuật về điều kiện lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động; giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về lao động theo quy định của pháp luật.
Để thực hiện quản lý nhà nước về lao động, bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích
chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ lao động, Bộ luật Lao động 1994 dành
một chương (Chương XVI) quy định về Thanh tra nhà nước về lao động, xử phạt vi
phạm pháp luật lao động với 07 điều quy định về Thanh tra lao động. Một số quy định
về Thanh tra lao động được sửa đổi, bổ sung trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Bộ luật Lao động năm 2002, các quy định này bao gồm: quy định chức năng của
Thanh tra nhà nước về lao động (Điều 186), nhiệm vụ chủ yếu của Thanh tra nhà nước
về lao động (Điều 187), quyền của Thanh tra viên (Điều 187), những việc Thanh tra
viên không được làm (Điều 188 Bộ luật Lao động), cơ chế phối hợp thanh tra,…


16

Bộ luật Lao động 2012 cũng dành một chương (Chương XVI) quy định về
nhiệm vụ thanh tra nhà nước về lao động (Điều 237 Bộ luật Lao động); Xử lý vi
phạm trong lĩnh vực lao động (Điều 239 Bộ luật Lao động)
Tóm lại, pháp luật lao động đã trao cho Thanh tra viên lao động những
quyền năng rất lớn trong hoạt động thanh tra nhằm thực thi pháp luật lao động có
hiệu quả (như: quyền thanh tra không phải báo trước, quy định quyết định của thanh
tra viên lao động có hiệu lực bắt buộc thi hành…);
Nghị định 39/2013/NĐ-CP là sự cụ thể hóa quy định của pháp luật về
Thanh tra lao động, trong đó quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan thực
hiện chức năng Thanh tra lao động; thanh tra viên, công chức thanh tra, cộng tác
viên Thanh tra lao động; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động Thanh tra lao động.

- Tổ chức của Thanh tra lao động, gồm có các cơ quan thanh tra nhà nước
từ trung ương đến địa phương: Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở Lao động - Thương binh
và Xã hội các tỉnh, tỉnh; các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành là Tổng cục Dạy nghề, Cục Quản lý Lao động ngoài nước.
- Các nhiệm vụ của Thanh tra nhà nước về lao động được giao cho Thanh
tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và
xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các cơ quan được giao nhiệm
vụ thanh tra chuyên ngành về lao động.
Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan thuộc Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, giúp Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng,
chống tham nhũng; thực hiện thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành; giải
quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng thuộc lĩnh vực lao động,
thương binh và xã hội trong phạm vi cả nước.
- Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Chánh thanh tra, Phó
chánh thanh tra, Thanh tra viện và các công chức khác.
Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
có nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của bộ; thanh tra đối
với doanh nghiệp nhà nước do Bộ trưởng quyết định thành lập;


17

+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật lao động, quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm
vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực do bộ phụ trách;
+ Thanh tra vụ việc khác do Bộ trưởng giao;
+ Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử
lý sau thanh tra của thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra

chuyên ngành thuộc bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với vụ việc thuộc
ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ khi cần thiết.
- Thanh tra Sở Lao động - Thương binh và xã hội là cơ quan thuộc Sở Lao
động - Thương binh và Xã hội, giúp Giám đốc Sở Lao động - Thương binh và Xã
hội thực hiện thanh tra hành chính, thanh tra chuyên ngành; phòng, chống tham
nhũng và giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. Thanh tra Sở Lao
Động - Thương binh và Xã hội có Chánh thanh tra, Phó chánh thanh tra, Thanh tra
viên và các công chức khác. Trong hoạt động thanh tra, Thanh tra Sở Lao động Thương binh và xã hội có những nhiệm vụ, quyền hạn:
+ Thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên
môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc
phạm vi quản lý của sở; Thanh tra vụ việc khác do Giám đốc sở giao;
+ Hướng dẫn, kiểm tra cơ quan, đơn vị thuộc sở thực hiện quy định của
pháp luật về thanh tra;
+ Yêu cầu Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành thuộc sở báo cáo về công tác thanh tra; tổng hợp, báo cáo kết quả về
công tác thanh tra thuộc phạm vi quản lý của sở;
+ Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện kết luận, kiến nghị, quyết định
xử lý về thanh tra của Giám đốc sở, Thanh tra sở;
+ Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử
lý sau thanh tra của Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành thuộc sở đối với vụ việc thuộc ngành, lĩnh vực quản lý nhà nước của
sở khi cần thiết.
Việc thanh tra an toàn lao động, vệ sinh lao động trong các lĩnh vực: phóng
xạ, thăm dò, khai thác dầu khí, các phương tiện vận tải đường sắt, đường thủy,
đường bộ, đường hàng không và các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang do các cơ


18

quan quản lý nhà nước về lĩnh vực đó thực hiện sự phối hợp của thanh tra chuyên

ngành về lao động.
Nghị định 39/2013/NĐ-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Bộ,
Thanh tra Sở, Cục Dạy nghề, Cục quản lý lao động ngoài nước và nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của các Chánh thanh tra, Tổng cục trưởng (tại các điều từ 8 đến 16).
- Quy định về thanh tra viên, công chức thanh tra chuyên ngành, cộng tác
viên thanh tra:
Về cơ bản, các quy định trong Nghị định này tuân thủ quy định của Luật
thanh tra, tuy vậy cũng có những quy định mang tính chất đặc th của ngành (từ
Điều 16 đến Điều 19);
- Quy định về hoạt động thanh tra chuyên ngành lao động: là việc thực hiện
các quy định pháp luật lao động về báo cáo định kỳ; tuyển dụng và đào tạo lao
động; hợp đồng lao động; thỏa ước lao động tập thể; thời giờ làm việc và nghỉ ngơi;
tiền công và trả công lao động; an toàn lao động, vệ sinh lao động; việc thực hiện
các quy định đối với lao động nữ, lao động là người cao tuổi, lao động là người tàn
tật, lao động chưa thành niên; việc thực hiện các quy định đối với lao động là người
nước ngoài; kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất; việc thực hiện các quy định khác
của pháp luật lao động;
Các hoạt động trên được thực hiện dưới hình thức thanh tra theo chương
trình, kế hoạch và thanh tra đột xuất.
- Ngoài ra quy định về trang phục, ph hiệu, cấp hiệu, biển hiệu, phương
tiện và kinh phí hoạt động: quy định tại Thông tư số 18/2011/TT-LĐTBXH hướng
dẫn về chất liệu, màu sắc, kiểu dáng, quản lý, sử dụng trang phục, cấp hiệu và biển
hiệu của thanh tra viên, cán bộ các cơ quan, đơn vị thanh tra thuộc ngành Lao động Thương binh và Xã hội.
- Quy định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm trong lĩnh vực lao động:
Nghị định số 47/2004/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi vi phạm pháp luật lao động qua nhiều năm đã bộc lộ nhiều hạn chế, ngày
22/8/2013 Chính phủ đã ban hành Nghị định 95/2013/NĐ-CP thay thế nghị định
trên và đã từng bước khắc phục những hạn chế như mức xử phạt, các hành vi vi
phạm trước đây chưa đưa vào nghị định xử phạt…



19

1.2.2. Một số nhận xét pháp luật về Thanh tra lao động
Pháp luật về Thanh tra lao động được xây dựng xuất phát từ yêu cầu quản
lý nhà nước về lao động, đồng thời được xây dựng trên nền tảng cơ bản là pháp luật
về thanh tra nói chung. Nội dung hoạt động của Thanh tra lao động là những nội
dung được quy định trong pháp luật lao động mà đặc trưng là Bộ luật Lao động, vì
thế khi nhìn nhận, đánh giá những ưu, nhược điểm của pháp luật về Thanh tra lao
động phải đặt nó trong mối liên hệ với pháp luật thanh tra nói chung và pháp luật
lao động. Cũng như thanh tra các ngành, lĩnh vực khác, Thanh tra lao động là thanh
tra chuyên ngành trong lĩnh vực lao động. Trên cơ sở hệ thống hóa và phân tích các
quy định của pháp luật lao động về Thanh tra lao động, các văn bản pháp luật có
liên quan, có thể nhận thấy pháp luật về Thanh tra lao động của Việt Nam có những
ưu điểm và hạn chế sau đây.
1.2.2.1. Những ưu điểm của pháp luật về Thanh tra lao động hiện nay
Một là, quy định của pháp luật về Thanh tra lao động đã điều chỉnh tương
đối toàn diện các lĩnh vực của quản lý nhà nước về lao động.
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về lao động; giải quyết tranh chấp lao động là một trong những nội dung của
quản lý nhà nước về lao động theo quy định tại Khoản 5 Điều 235 Bộ luật Lao
động năm 2012. Sau khi Luật Thanh tra được ban hành, các văn bản pháp luật quy
định tổ chức và hoạt động của Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội cũng
được ban hành, mặc d với số lượng không nhiều nhưng các văn bản này là sự cụ
thể hóa các quy định về tổ chức, hoạt động của thanh tra chuyên ngành trong lĩnh
vực quản lý nhà nước về lao động và phần nào phản ánh được sự đầy đủ của pháp
luật lao động về Thanh tra lao động, phục vụ kịp thời yêu cầu quản lý nhà nước
trong lĩnh vực này.
Hai là, pháp luật lao động đã phân định rõ hoạt động thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành ph hợp với nguyên tắc tổ chức bộ máy hành chính hiện

nay là kết hợp quản lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn
nhằm tăng cường công tác thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội và Ủy ban nhân dân các cấp. Pháp luật lao động quy
định rõ chức năng của Thanh tra nhà nước về lao động; nhiệm vụ chủ yếu của
Thanh tra nhà nước về lao động; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra lao


20

động - Thương binh và Xã hội; nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh Thanh tra lao động Thương binh và Xã hội, quyền, nghĩa vụ của Thanh tra viên, cộng tác viên, quy
định về trang phục, ph hiệu, cấp hiệu, biển hiệu, phương tiện và kinh phí hoạt
động, nhằm tránh lạm quyền, gây khó khăn, phiền hà và làm cản trở hoạt động bình
thường của đối tượng thanh tra.
Ba là, pháp luật lao động quy định bổ sung các quy định về nhiệm vụ,
quyền hạn trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng ngừa, chống tham
nhũng của cơ quan Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội nhằm đảm bảo sự
thống nhất với các quy định trong các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng.
Bốn là, pháp luật về Thanh tra lao động đã đáp ứng yêu cầu cơ bản của hội
nhập quốc tế
Việt Nam đã phê chuẩn nhiều Điều ước quốc tế về lao động, trong đó có
Công ước số 81 về Thanh tra lao động trong công nghiệp và thương mại và đã phần
nào nội luật hóa các quy định của Công ước trên thông qua các quy định về Thanh
tra nói chung và Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội nói riêng.
Năm là, đã kịp thời bổ sung các văn bản đáp ứng yêu cầu của thực tiễn như
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng; Thông tư số 02/2010/TT-TTCP ngày 02/3/2010 quy định quy trình
tiến hành một cuộc thanh tra.
1.2.2.2. Hạn chế của pháp luật về Thanh tra lao động hiện nay

Một là, hạn chế trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực lao động.
Nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã thay thế Nghị định số 47/2010/NĐ-CP
ngày 06/5/2010 quy định về xử phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật lao
động. Theo đó, mức phạt cao nhất trong Nghị định số 47/NĐ-CP là 30.000.000
đồng nay được quy định là 37.500.000 đồng. Tuy nhiên, nhiều điều khoản trong Bộ
luật Lao động 2012 không được quy định trong Nghị định số 95/2013/NĐ-CP, dẫn đến
việc nếu một bên trong quan hệ lao động vi phạm thì lại không có chế tài xử phạt.


21

Điều 37 Nghị định này quy định về thẩm quyền xử phạt của Trưởng đoàn
Thanh tra lao động cấp Sở, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành của cơ quan quản
lý nhà nước được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền phạt
cảnh cáo, phạt tiền đến 37.500.000 đồng đối với hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội và đến 50.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng. Nhưng nghị định lại không quy định về việc sử dụng con dấu của
trưởng đoàn thanh tra, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành; trường hợp quyết định
xử phạt của trưởng đoàn, trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành bị khiếu nại thì cơ
quan nào giải quyết trong khi cuộc thanh tra đã tự giải thể sau khi thanh tra kết thúc.
Hai là, về thẩm quyền ra kết luận thanh tra.
Thanh tra lao động nói riêng và Thanh tra lao động - Thương binh và Xã
hội nói chung tuân thủ các quy định của pháp luật Thanh tra về thẩm quyển ra quyết
định thanh tra. Theo quy định, Trưởng đoàn thanh tra không được quyền ra bản kết
luật thanh tra, mà việc ra văn bản kết luận thanh tra thuộc phạm vi, nhiệm vụ, quyền
hạn của người ra quyết định thanh tra là thủ trưởng cơ quan thanh tra (Điều 36,

Điều 43 Luật Thanh tra). Quy định này không ph hợp trên thực tế. Vì, Trưởng
đoàn thanh tra và Thanh tra viên trong đoàn là người trực tiếp tiến hành thanh tra,
trực tiếp tiếp xúc và làm việc với đối tượng thanh tra, là người thu thập tài liệu,
chứng cứ, lập hồ sơ thanh tra, nắm rõ diễn biến vụ việc. Tuy nhiên, Trưởng Đoàn
thanh tra không được ra kết luận thanh tra - một văn bản quan trọng phản ánh diễn
biến, tình tiết của vụ việc, nó đề xuất biện pháp xử lý và đưa ra kiến nghị. Điều đó đồng
nghĩa với việc Trưởng đoàn thanh tra không phải chịu trách nhiệm về kết luận thanh
tra. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc nảy sinh tình trạng xử lý nội bộ, kiểm điểm, phê
bình từ phía lãnh đạo cơ quan thanh tra; dẫn đến tình trạng thanh tra hời hợt, thiếu
trách nhiệm từ phía Trưởng đoàn thanh tra và Thanh tra viên. Tuy nhiên, Luật
Thanh tra 2010 vẫn giữ nguyên quy định này, và bổ sung quy định về xử lý hành vi
vi phạm của người ra quyết định thanh tra, Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên...
Ba là, về thời hạn ban hành quyết định thanh tra (Khoản 1 Điều 43 Luật
Thanh tra).
"Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra,
người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra". Đối với các cuộc
thanh tra chuyên ngành thì đây là quy định khó thực hiện, đặc biệt khi thanh tra ở


×