Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại và thực tiễn thi hành tại ngân hàng thương mại cổ phần quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

ĐỖ THỊ THU TRANG

PHÁP LUẬT VỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

ĐỖ THỊ THU TRANG

PHÁP LUẬT VỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:PGS. TS Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Thu Trang


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

là phiên bản thứ hai của Hiệp ước Basel, trong đó đưa ra
các nguyên tắc chung và các luật ngân hàng của ủy ban
Basel về giám sát ngân hàng. Hiệp ước về vốn Basel II
được trình bày như một tập hợp các quy định được đề xuất
mà có thể sẽ mang đến một loạt các thách thức về tuân thủ
cho các ngân hàng trên thế giới.
MB
Ngân hàng TMCP Quân Đội
NHTM
Ngân hàng thương mại cổ phần
NHNN

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
TCTD
Tổ chức tín dụng
TPDN
Trái phiếu doanh nghiệp
TTCK
Thị trường chứng khoán
UBCKNN Ủy Ban Chứng khoán Nhà Nước
USD
Đồng đô la Mỹ
VND
Đồng Việt Nam
Basel II


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 01. Kết quả các đợt phát hành trái phiếu MB năm 2010

37

Bảng 02. So sánh ưu, nhược điểm của các phương thức huy động

40

vốn nhằm tăng vốn tự có tại MB năm 2017
Bảng 03. Quy mô phát hành trái phiếu doanh nghiệp tại Việt Nam
trong giai đoạn 2012-2014

43



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1.1 Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................... 1
1.2Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
1.3 Mục tiêu nghiên cứu .................................................................................... 3
1.4 Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài ................................ 4
1.5 Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 4
1.6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài......................................................... 4
1.7 Bố cục của luận văn ..................................................................................... 5
Chƣơng 1.KHÁI QUÁTVỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU
CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ................................................................ 6
1.1

Khái quát về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ................. 6

1.1.1 Khái niệm phát hành trái phiếu của NHTM .......................................... 6
1.1.2 Đặc điểm của phát hành trái phiếu của NHTM .................................... 7
1.1.3 Phương thức phát hành trái phiếu NHTM............................................. 8
1.2 Khái quát về pháp luật điều chỉnh phát hành trái phiếu của ngân hàng
thương mại ....................................................................................................... 12
1.2.1 Khái niệm pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương
mại ................................................................................................................. 12
1.2.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động phát
hành trái phiếu của ngân hàng thương mại ................................................. 13
1.2.3 Vài nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật về phát hành trái
phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam .............................................. 15
Chƣơng 2.THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ PHÁT HÀNH TRÁI
PHIẾU TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI ......... 36

2.1. Kết quả thực thi pháp luật về phát hành trái phiếu tại tại Ngân hàng
TMCP Quân Đội (MB) .................................................................................... 36


2.1.1. Trong giai đoạn 2006-2016, MB đã phát hành thành công 04 đợt phát
hành trái phiếu với tổng số tiền huy động vốn đạt 5750 tỷ đồng ................. 36
2.1.2. MB đã áp dụng linh hoạt và đa dạng các hình thức và loại hình phát
hành trái phiếu phụ thuộc vào mục đích và nhu cầu phát hành trái phiếu
từng thời kỳ ................................................................................................... 38
2.2. Một số bất cập trong thực thi pháp luật về phát hành trái phiếu tại MB .. 39
2.2.1. Phát hành trái phiếu tại MB chưa được thực hiện thường xuyên, liên
tục và chưa được xem xét như kênh huy động vốn chính để phục vụ hoạt
động kinh doanh ngân hàng.......................................................................... 39
2.2.2. Trái phiếu được phát hành chủ yếu theo phương thức phát hành riêng
lẻ với đối tượng mua trái phiếu là cổ đông hiện hữu hoặc các nhà đầu tư
chuyên nghiệp ............................................................................................... 42
2.2.3 Trái phiếu của MB chủ yếu được giao dịch trên thị trường sơ cấp .... 44
2.3 Một số nguyên nhân dẫn đến các bất cập trong thực thi pháp luật về phát
hành trái phiếu tại MB ..................................................................................... 45
2.3.1. Một số nguyên nhân chủ quan từ MB ................................................. 45
2.3.2. Một số bất cập của pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM .... 47
2.3.3 Thị trường giao dịch trái phiếu chưa hoàn thiện và đang ở giai đoạn
sơ khai ........................................................................................................... 52
Chƣơng 3.GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU ... 55
3.1 Kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phát hành trái phiếu
của NHTM ....................................................................................................... 55
3.1.1 Cần sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật chứng khoán năm 2006
nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc hoàn thiện thị trường chứng khoán
(trong đó có thị trường trái phiếu doanh nghiệp) ........................................ 56

3.1.2 Cần sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 90/2011/NĐ-CP nhằm
hoàn thiện pháp luật điều chỉnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp bao gồm


cả hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM, phù hợp với định hướng phát
triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và thông lệ quốc tế ...................... 58
3.1.3 Cần xây dựng mới và hoàn thiện các quy phạm pháp luật nhằm tạo
nền tảng pháp lý đầy đủ hình thành và phát triển thị trường trái phiếu doanh
nghiệp ............................................................................................................ 61
3.2 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phát hành trái
phiếu doanh nghiệp, bao gồm cả trái phiếu NHTM ........................................ 62
3.2.1 Ổn định nền kinh tế vĩ mô và lãi suất. ................................................. 62
3.2.2 Xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở và hệ thống thông tin trái phiếu hiện
đại và thống nhất nhằm thực hiện các giao dịch trái phiếu điện tử ............. 64
3.2.3 Cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, địa phương, Hiệp
hội đầu tư trái phiếu, các nhà tạo lập thị trường nhằm đa dạng hóa nhà đầu
tư ................................................................................................................... 65
3.2.4 Tăng cường công tác đào tạo, phổ biến pháp luật về trái phiếu cho các
nhà đầu tư ..................................................................................................... 65
3.3 Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phát hành trái
phiếu tại Ngân hàng TMCP Quân Đội............................................................. 66
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, phát triển nền kinh tế thị

trường theo định hướng XHCN, hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì
vai trò của các ngân hàng thương mại là vô cùng quan trọng, quyết định sự phát
triển ổn định, bền vững của nền kinh tế. Do vậy, hoạt động của ngành ngân hàng
nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng luôn là một trong các lĩnh vực
đi đầu trong việc áp dụng các chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao năng lực tổ
chức và hoạt động kinh doanh.
Trong thời gian gần đây, NHNN đã lựa chọn 10 ngân hàng để triển khai
thí điểm xây dựng và áp dung các chuẩn mực của Basel II trong hoạt động kinh
doanh. Cùng với áp lực phải tăng vốn tự có nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn của
Basel II, các ngân hàng thường mại, đặc biệt các ngân hàng thương mại thuộc
danh sách được lựa chọn thí điểm xây dựng và áp dụng các chuẩn mực của
Basel II đã liên tục phát hành trái phiếu. Thông qua hoạt động phát hành trái
phiếu, các ngân hàng thương mại không chỉ đa dạng các loại hình huy động vốn
mà còn có thể huy động hàng nghìn tỷ đồng vốn trung và dài hạn.Bằng các hoạt
động cấp tín dụng, dòng vốn từ trái phiếu được sử dụng để phục vụ nhu cầu sản
xuất, kinh doanh của nền kinh tế.Nói cách khác, hoạt động phát hành trái phiếu
của NHTM không chỉ tác động trực tiếp đến hoạt động của NHTM mà còn tác
động lớn đến nền kinh tế. Do vậy, hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM
cần được điều chỉnh chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Tuy vậy, hàng lang
pháp lý điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM có thể là chất xúc
tác thúc đẩy hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM, nhưng cũng có thể là
rào cản khiến các NHTM sử dụng các phương thức huy động vốn khác dễ dàng
và “truyền thống” hơn thay vì phát hành trái phiếu.
Nếu như pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM đã bắt đầu hình
thành và phát triển trên thế giới hàng trăm năm thì pháp luật về phát hành trái
phiếu của NHTM tại Việt Nam hình thành và phát triển trong khoảng hơn hai
mươi năm trở lại đây. Do vậy, bên cạnh nhiều thành tựu đạt được thì pháp luật
về phát hành trái phiếu của NHTM tại Việt Nam hiện này còn bộc lộ nhiều bất
cấp cản trở hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM. Bên cạnh đó, hành



2

langpháp lý chưa đầy đủ để có tạo cơ sở pháp lý cho sự hình thành và phát triển
thị trường trái phiếu doanh nghiệp, hạn chế tính thanh khoản của trái phiếu
NHTM.
Trong bối cảnh trên và trước yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế sâu
rộng, việc nghiên cứu đề tài “Pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng
thương mại và thực tiễn thi hành tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân
Đội”có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần đánh giá thực trạng và hoàn thiện
pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM.
1.2Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về huy động vốn của NHTM hay pháp luật về phát hành trái
phiếu của doanh nghiệp là những đề tài đã được nghiên cứu bởi nhiều công trình
khoa học và được đăng tải nhiều tạp chí chuyên ngành như tạp chí ngân hàng,
tạp chí luật học, trang điện tử…Một số công trình khoa học và bài nghiên cứu
đáng chú ý liên như sau:
- Luận án “Các giao dịch thương mại chủ yếu của NHTM trong điều kiện
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” năm 2004 của tác giả Nguyễn Văn Tuyến;
- Luân văn thạc sỹ “Pháp luật về hoạt động huy động vốn của ngân hàng
thương mại từ các tổ chức tín dụng và Ngân hàng Nhà nước - Thực trạng và giải
pháp hoàn thiện” của tác giả Vũ Thị Huyền Trang;
- Luận văn Thạc sĩ: "Pháp luật về huy động vốn của tổ chức tín dụng ở
Việt Nam, thực trạng và giải pháp" của tác giả Đào Ánh Tuyết năm 2013;
- Luận văn thạc sỹ: “Hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của ngân;
hàng thương mại cổ phần Việt Nam” của tác giả Hoàng Tuyết Mai năm 2010;
- Luận văn thạc sỹ: “Pháp luật về phát hành trái phiếu của công ty cổ phần
đại chúng tại Việt Nam” của tác giả Trần Thanh Ngọc năm 2015;
- Bài nghiên cứu: “Bàn về giao dịch phát hành giấy tờ có giá của tổ chức
tín dụng” của tác giả Nguyễn Văn Tuyến đăng trên tạp chí Ngân hàng số

9/2008;


3

- Bài nghiên cứu: “Ứng dụng chứng khoán hóa trong huy động vốn của
các doanh nghiệp Việt Nam” của tác giả Nguyễn Mai đăng trên tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 07/2010
Như vậy, điểm qua một số công trình khoa học và bài nghiên cứu trên cho
thấy, các nghiên cứu này mới chỉ xem xét, đánh giá một trong các khía cạnh của
pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM như là một trong các nghiệp vụ
huy động vốn của NHTM hay phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Các công trình
nghiên cứu hay bài nghiên cứu chưa đi sâu, đánh giá toàn diện pháp luật về phát
hành trái phiếu của NHTM dưới góc độ pháp lý là nghiệp vụ huy động vốn của
tổ chức tín dụng và nghiệp vụ phát hành chứng khoán.
Tới thời điểm hiện tại, nghiên cứu tổng thể nhất về pháp luật phát hành
trái phiếu của NHTM được nghiên cứu tại luận văn thạc sỹ luật học của tác giả
Nguyễn Thị Huế năm 2013 với đề tài “pháp luật phát hành trái phiếu của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam”. Luận văn thạc sỹ này đã nêu ra một số khái niệm
và khái quát thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động trái phiếu của NHTM tại
thời điểm đó (2013). Tuy vậy, luận văn thạc sỹ này chưa khái quát các thành tựu
cũng như tồn tại của pháp luật điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu của
NHTM và nhiều thực trạng pháp luật được đề cập tại luận văn đã không còn cập
nhật và phù hợp trong giai đoạn hiện nay.
Bên cạnh đó, hiện nay, chưa có bất kỳ nghiên cứu nào đánh giá việc thực
thi pháp luật về trái phiếu tại Ngân hàng TMCP Quân Đội.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
* Mục tiêu tổng quát: Hoàn thiện khung pháp luật về phát hành trái phiếu
của NHTM nhằm tạo môi trường pháp lý ổn định và tiên tiến thúc đẩy hoạt động
phát hành trái phiếu của NHTM phát triển ổn định và bền vững

*Mục tiêu cụ thể: Trên nền tảng phân tích một số vấn đề lý luận về pháp
luật phát hành trái phiếu của NHTM, luận văn sẽ đánh giá thực trạng pháp luật
về phát hành trái phiếu của NHTM ở Việt Nam gắn với việc thực thi pháp luật
về phát hành trái phiếu của Ngân hàng TMCP Quân Đội nhằm tìm ra các tồn tại
của hệ thống pháp luật cũng như những vướng mắc trong việc thực thi pháp luật
về phát hành trái phiếu trên thực tế. Qua đó, luận văn cố gắng tìm ra các giải


4

pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM và nâng cao
hiệu quả việc thực thi mảng pháp luật này trong thực tiễn.
1.4 Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Các bất cập trong quá trình thực thi
pháp luật về phát hành trái phiếu tại MB trên cơ sở đánh giá thực trạng thi hành
pháp luật, thực trạng pháp luật;các nguyên nhân chủ quan (từ chính tổ chức phát
hành), các nguyên nhân từ bất cập của pháp luật và của thị trường trái phiếu
trong giai đoạn hiện nay; Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và hình thành và
phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp năng động, hiện đại cũng như một
số giải pháp nhằm tăng cường thực thi pháp luật về phát hành trái phiếu tại MB.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài: pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động
phát hành trái phiếu của NHTM và việc thực thi pháp luật này tại Ngân hàng
TMCP Quân Đội.
1.5 Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Quá trình nghiên cứu đề tài tác giả
đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể, như: Phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, diễn giải, suy diễn lô
gíc... trong suốt quá trình nghiên cứu và trình bày đề tài.
1.6 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

* Ý nghĩa lý luận: luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu đề cập
toàn diện và hệ thống các vấn đề lý luận về pháp luật phát hành trái phiếu của
NHTM
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật tại
một ngân hàng thương mại uy tín hàng đầu Việt Nam là MB nhằm so sánh, đối
chiếu với thực trạng pháp luật và tìm ra các tồn tại, bất cập của pháp luật cũng
như việc thực thi pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM hiện nay. Qua đó,
tác giả kiến nghị các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phát hành trái
phiếu và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phát hành trái phiếu của
NHTM tại nước ta trong thời gian tới.


5

1.7 Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
bao gồm 03 chương như sau:
- Chương 1: Khái quát về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại
và pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại.
- Chương 2: Thực tiễn thi hành pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân
hàng thương mại tại Ngân hàng TMCP Quân Đội
- Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phát hành trái phiếu
của ngân hàng thương mại và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phát hành
trái phiếu của ngân hàng thương mại.


6

Chƣơng 1
KHÁI QUÁTVỀ PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG

THƢƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU CỦA
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1 Khái quát về phát hành trái phiếu của ngân hàng thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm phát hành trái phiếu của NHTM
Ngân hàng thương mại là một trong những định chế tài chính quan trọng
nhất của hệ thống tài chính quốc gia. Nếu đối với sự vận hành của nền kinh tế
quốc gia, nguồn vốn được xem như là máu trong một cơ thể sống thì hệ thống
các ngân hàng thương mại là các mao mạch chính. Hoạt động của các ngân hàng
thương mại là những thể hiện sâu sắc nhất những diễn biến của thị trường tiền tệ
nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Ngoài ra, nhìn vào hoạt động của hệ
thống các ngân hàng thương mại, chúng ta có thể nhìn thấy sự vận hành của
chính sách tiền tệ của mỗi quốc gia trong từng thời kì cũng như sự hưng thịnh
hay trên đà suy vong của nền kinh tế kinh tế quốc gia đó. Tại Việt Nam, NHTM
được quy định tại Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12 được Quốc hội
khoá XII thông qua ngày 16/6/2010. Theo đó, NHTM được định nghĩa “là loại
hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận” và
“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây: a) Nhận tiền gửi; b) Cấp tín dụng; c) Cung ứng
dịch vụ thanh toán qua tài khoản.” 1 Ngoài ra, hoạt động ngân hàng của Ngân
hàng thương mại còn được liệt kê tại Điều 98 Luật các Tổ chức tín dụng năm
2010.
Trái phiếu là một loại chứng khoán nợ theo đó tổ chức phát hành cam kết
sẽ hoàn trả người sở hữu trái phiếu (trái chủ) số tiền vay gồm cả gốc và lãi trong
khoảng thời gian xác định. Nói cách khác, trái phiếu chính là bằng chứng xác
nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành với trái chủ trong một thời gian nhất
định và với điều kiện trả lãi và điều kiện khác. Đối với NHTM, theo quy định tại
Điều 98 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 thì phát hành trái phiếu để huy
động vốn được liệt kê như một trong các hoạt động ngân hàng của ngân hàng
1


Luật các Tổ chức tín dụng Số 47/2010/QH12 được Quốc hội khoá XII thông qua ngày 16/6/2010, Điều 4


7

thương mại. Theo đó, bằng việc phát hành trái phiếu, NHTM sẽ huy động được
một khoản tiền nhàn rỗi từ tổ chức, cá nhân và sẽ phải có trách nhiệm hoàn trả
gốc kèm theo một khoản lãi tại ngày đáo hạn theo các điều kiện, điều khoản đã
cam kết. Số vốn huy động từ phát hành trái phiếu sẽ được sử dụng vào hoạt
động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác của NHTM và được hạch toán là
tài sản nợ của NHTM cùng với các tài sản nợ khác như tiền gửi có kỳ hạn,
không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, các khoản vay từ ngân hàng Nhà nước, các tổ
chức tín dụng, tổ chức tài chính…
Như vậy, phát hành trái phiếu của NHTM vừa là một trong những hoạt động
ngân hàng của NHTM vừa là hoạt động chào bán chứng khoán của tổ chức phát
hành là NHTM nhưng đều chung mục đích là nhằm huy động vốn phục vụ hoạt
động kinh doanh tiền tệ và cung ứng dịch vụ tài chính. Tham gia hoạt động phát
hành trái phiếu của NHTM có thể bao gồm rất nhiều chủ thể không chỉ NHTM
như nhà đầu tư, các nhà tư vấn, đại lý lưu ký và thanh toán…với các vai trò, đáp
ứng các điều kiện và có các quyền và nghĩa vụ khác nhau.Tuy vậy, các chủ thể
này đều là các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán và đều chịu sự điều
chỉnh chung của pháp luật chứng khoán. Do vậy, trong phạm vi đề tài này tác
giả sẽ chỉ giới hạn nghiên cứu hoạt động phát hành trái phiếu được thực hiện bởi
chủ thể chính là tổ chức phát hành (NHTM). Theo đó, phát hành trái phiếu của
NHTM là hành vi chào bán chứng khoán của NHTM nhằm huy động vốn từ tổ
chức, cá nhân (trừ tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và công ty
con của tổ chức tín dụng)2để đáp ứng hoạt động kinh doanh tiền tệ và trung
gian thanh toán theo điều kiện, trình tự, thủ tục chặt chẽ.
1.1.2 Đặc điểm của phát hành trái phiếu của NHTM

Phát hành trái phiếu của NHTM không chỉ là hoạt động chào bán chứng
khoán của chủ thể phát hành mà còn là một trong nghiệp vụ ngân hàng quan
trọng của NHTM.Với sự kết hợp đồng thời các nghiệp vụ chào bán chứng khoán
và nghiệp vụ huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá, hoạt động phát hành
trái phiếu của NHTM có những đặc điểm riêng biệt so với các hoạt động chào
bán chứng khoán của các doanh nghiệp khác. Cụ thể:

2

Thông tư quy định về phát hành kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu trong nước của tổ chức tín
dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài số 34/VBHN-NHNN ngày 08/97/2016, Điều 5


8

Một là, hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM là một trong các hoạt
động ngân hàng cơ bản: Với chức năng là tổ chức kinh doanh tiền tệ thì để thực
hiện các hoạt động cấp tín dụng, các hoạt động ngân hàng, NHTM phải song
song, liên tục thực hiện các nghiệp vụ huy động vốn như nhận tiền gửi, phát
hành giấy tờ có giá trong đó có phát hành trái phiếu. Như vậy, hoạt động phát
hành trái phiếu là một trong các nghiệp vụ cơ bản, cốt lõi của NHTM nhằm huy
động vốn phục vụ các hoạt động cấp tín dụng, trung gian tài chính...
Hai là, về mục đích phát hành trái phiếu của NHTM: cũng như doanh
nghiệp khác khi phát hành trái phiếu, mục đích phát hành trái phiếu của NHTM
là nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các tổ chức, cá nhân để phục vụ hoạt
động kinh doanh của mình. Với chức năng là tổ chức kinh doanh tiền tệ thì số
tiền thu được từ phát hành trái phiếu sẽ được NHTM sử dụng chủ yếu vào hoạt
động cho vay các tổ chức, cá nhân phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.
Do vậy, việc phát hành trái phiếu của NHTM có ý nghĩa rất quan trọng không
chỉ đối với tổ chức phát hành là NHTM mà còn có vai trò quan trọng trong việc

điều tiết dòng vốn và đảm bảo lưu thông huyết mạch của nền kinh tế.
Ba là, hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM tuân thủ điều kiện, trình
tự, thủ tục chặt chẽ.Hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM vừa là hoạt động
phát hành chứng khoán, vừa là hoạt động ngân hàng cơ bản. Do vậy, hoạt động
phát hành trái phiếu của NHTM phải tuân thủ điều kiện, trình tự, thủ tục của
pháp luật chứng khoán về phát hành trái phiếu. Đồng thời, khi thực hiện phát
hành trái phiếu, NHTM còn phải tuân thủ các điều kiện, thủ tục quy định bởi
pháp luật điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng.Không những thế, hoạt
động phát hành trái phiếu của NHTM chịu sự quản lý và giám sát không chỉ cơ
quan quản lý Nhà nước về chứng khoán (Bộ Tài chính) mà còn cả Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN).
1.1.3 Phương thức phát hành trái phiếu NHTM
Cũng giống như các loại chứng khoán thông thường, trái phiếu doanh
nghiệp, trái phiếu NHTM, nếu định nghĩa phương thức phân loại trái phiếu là
phương pháp và hình thức thực hiện việc phát hành trái phiếu thì, trái phiếu
NHTM có thể được phát hành dưới hai phương thức: phát hành trái phiếu riêng
lẻ (private placement) và phát hành trái phiếu ra công chúng (public offerring).


9

Khi phát hành trái phiếu, NHTM cần hiểu rõ các ưu, nhược điểm của từng
phương thức phát hành để có thể lựa chọn phương thức phát hành phù hợp với
mục tiêu phát hành cũng như tình hình sức khỏe tài chính của chính NHTM.
Phát hành trái phiếu ra công chúng là hoạt động của tổ chức phát hành
nhằm chào bán trái phiếu với khối lượng lớn ra phạm vi rộng nhằm thu hút số
lượng đông đảo các nhà đầu tư theo trình tự, thủ tục luật định. Cũng giống như
hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng, phát hành trái phiếu ra công
chúng của NHTM thường có các đặc trưng như:
Thứ nhất, việc phát hành trái phiếu ra công chúng chỉ được thực hiện sau

khi đã được chấp thuận của cơ quan quản lý Nhà nước bao gồm cơ quan quản lý
Nhà nước về thị trường chứng khoán (Ủy ban chứng khoán Nhà nước) và cơ
quan quản lý Nhà nước về hoạt động ngân hàng (Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam).Nói cách khác, để phát hành trái phiếu ra công chúng, tổ chức phát hành
là NHTM phải đáp ứng đầy đủ điều kiện luật định, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ phát
hành trái phiếu.Hồ sơ phát hành trái phiếu của tổ chức phát hành sẽ được thẩm
định kỹ và phê duyệt bởi cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.Hoạt động quản lý
chặt chẽ của cơ quan quản lý Nhà nước đối với phương án phát hành trái phiếu
ra công chúng không chỉ nhằm phát hiện và ngăn chặn các phương án phát hành
trái phiếu không đủ điều kiện luật định, bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu
tư mà còn nhằm ổn định thị trường trái phiếu.
Thứ hai, phát hành trái phiếu ra công chúng thường được thực hiện thông
qua các tổ chức trung gian là công ty bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành
chứng khoán. Với số lượng nhà đầu tư tham gia lớn, hơn 100 nhà đầu tư, thậm
chí hàng nghìn, hàng triệu nhà đầu tư, thì việc các tổ chức phát hành thuê tổ
chức trung gian làm đại lý phát hành chứng khoán sẽ giúp phương án phát hành
trái phiếu được diễn ra chuyên nghiệp, minh bạch.
Thứ ba, việc phát hành trái phiếu ra công chúng được thực hiện trên phạm
vi rộng và thu hút đông đảo các nhà đầu tư tham gia và thường bao gồm cả nhà
đầu tư tổ chức, nhà đầu tư là cá nhân, không phân biệt nhà đầu tư chuyên nghiệp
và các nhà đầu tư nghiệp dư.


10

Thứ tư, phát hành trái phiếu ra công chúng thường được phát hành với
khối lượng lớn nhằm huy động nguồn vốn nhàn rỗi lớn từ dân cư.
Từ những đặc trưng nêu trên, có thể nhận thấy phát hành trái phiếu ra
công chúng có những ưu thế và bất lợi như sau:
Về ưu thế, trước hết, việc phát hành trái phiếu ra công chúng cho phép tổ

chức phát hành huy động lượng vốn lớn với sự tham gia đông đảo các nhà đầu
tư. Thêm nữa, để được phát hành trái phiếu ra công chúng, tổ chức phát hành là
NHTM phải đáp ứng điều kiện và trình tự, thủ tục chặt chẽ cũng như cần phải
được sự chấp thuận của các cơ quan quản lý Nhà nước. Nói cách khác, để được
phát hành trái phiếu ra công chúng, NHTM phải trải qua sự “sát hạch” từ cơ
quan quản lý Nhà nước và thể hiện năng lực tài chính, quản trị, điều hành của
mình. Do vậy, việc phát hành trái phiếu ra công chúng cũng gián tiếp làm tăng
uy tín của tổ chức phát hành với các nhà đầu tư và cả với khách hàng của chính
mình.
Về nhược điểm, hoạt động phát hành trái phiếu ra công chúng có chi phí
phát hành cao do tổ chức phát hành phải sử dụng các dịch vụ như tư vấn pháp
lý, các tổ chức trung gian…Để thu hút đông đảo các nhà đầu tư tham gia đầu tư
vào trái phiếu, khi phát hành trái phiếu ra công chúng, NHTM thường sẽ phải
thuê các tổ chức tư vấn: tư vấn pháp lý, tư vấn phát hành nhằm đưa ra các ý kiến
đánh giá khách quan về phương án phát hành và trợ giúp NHTM hướng dẫn và
xây dựng phương án phát hành trái phiếu chi tiết nhằm đáp ứng các điều kiện,
trình tự, thủ tục luật định. Ngoài ra, do số lượng nhà đầu tư lớn nên đa phần các
NHTM sẽ phải thuê tổ chức đủ điều kiện luật định làm đại lý lưu ký và thanh
toán.Tổng các chí phí này thường giao động từ 1%-3% tổng khối lượng trái
phiếu phát hành.
Ngoài ra, khi phát hành trái phiếu ra công chúng, cũng giống như các tổ
chức phát hành khác, NHTM phải thực hiện chế độ công bố thông tin nghiêm
ngặt và chặt chẽ. Để phát hành trái phiếu ra công chúng, tại thời điểm phát hành,
NHTM phải công bố và chịu trách nhiệm trước các nhà đầu tư về các nội dung
công bố tại Bản Công bố thông tin trái phiếu (gọi tắt là “OC”). Sau khi phát
hành, định kỳ hoặc đột xuất, NHTM sẽ phải công bố các thông tin quan trọng
liên quan đến tình hình hoạt động kinh doanh và quản trị nội bộ của NHTM theo


11


các quy định chặt chẽ bởi cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán và NHNN.
Tuy vậy, các NHTM tại Việt Nam hiện nay đa phần được quản trị theo mô hình
công ty đại chúng nên hoạt động công bố thông tin doanh nghiệp đã được thực
hiện thường xuyên và chặt chẽ. Do vậy, đây không phải là rào cản quá lớn đối
với NHTM khi phát hành trái phiếu ra công chúng.
Những phân tích nêu trên cho thấy, việc phát hành trái phiếu ra công
chúng đòi hỏi tổ chức phát hành là NHTM cần nghiên cứu và chuẩn bị phương
án phát hành chi tiết và thận trọng trên cơ sở đánh giá tình hình hoạt động, diễn
biến thị trường và nhu cầu vốn trong dài hạn nhằm đề ra chiến lược và sách lược
sử dụng vốn huy động hiệu quả.
Phát hành trái phiếu riêng lẻ là hoạt động phát hành trái phiếu của tổ
chức phát hành cho một số đối nhà đầu tư đặc biệt với số lượng hạn chế theo
quy định của pháp luật (ví dụ dưới 100 nhà đầu tư như quy định của pháp luật
Việt Nam), thường là các nhà đầu chuyên nghiệp (các NHTM, công ty bảo
hiểm, công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư…). Phát hành trái phiếu riêng lẻ có
một số ưu thế và bất lợi như sau:
Về ưu thế, phát hành trái phiếu riêng lẻ phù hợp mục tiêu huy động vốn
với quy mô phát hành không lớn.Ngoài ra, khác với phát hành trái phiếu ra công
chúng, phát hành trái phiếu riêng lẻ thường có thủ tục đơn giản hơn. Theo đó,
NHTM chỉ cần đáp ứng các điều kiện phát hành theo quy định của pháp luật và
thông báo với cơ quan quản lý Nhà nước về chứng khoán là đã được phát hành
trái phiếu (trừ trái phiếu chuyển đổi). Do quy mô nhỏ, chủ yếu phát hành cho
nhà đầu tư chuyên nghiệp và thủ tục đơn giản nên NHTM không phải bỏ nhiều
chi phí để thuê các tổ chức tư vấn, đại lý lưu ký và thanh toán.
Về nhược điểm, phát hành trái phiếu riêng lẻ thường được tiến hành ở
phạm vi hẹp, với số lượng nhà đầu tư hạn chế. Đồng thời, để có thể thu hút các
nhà đầu tư, chủ yếu là nhà đầu tư chuyên nghiệp, có kiến thức sâu rộng và có ý
định đầu tư lâu dài thì bản thân NHTM phải tạo được niềm tin với các nhà đầu
tư cũng như phương án phát hành phải thực sự hấp dẫn và cạnh tranh. Điều này

đòi hỏi, NHTM phải xây dựng thương hiệu, tạo lập niềm tin trong một thời gian
dài trên thị trường.


12

Việc phân định rõ hai phương thức phát hành trái phiếu nêu trên, một mặt
sẽ tăng cường khả năng bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường, mặt khác, chính các tổ
chức phát hành cũng có thể sử dụng linh hoạt và phù hợp từng phương thức phát
hành để lựa chọn phương thức phù hợp nhất với nhu cầu vốn, khả năng huy
động của mình cũng như tình hình thị trường vốn từng thời kỳ.
1.2 Khái quát về pháp luật điều chỉnh phát hành trái phiếu của ngân
hàng thƣơng mại
1.2.1 Khái niệm pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng
thương mại
Về pháp luật điều chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu, tại hầu hết các
nước thì hoạt động phát hành trái phiếu được điều chỉnh bởi các văn bản quy
phạm pháp luật, các tập quán thương mại.Tại Việt Nam, hoạt động phát hành
trái phiếu của NHTM chịu sự điều chỉnh văn bản quy phạm phạm pháp luật gồm
Hiến pháp, các luật (chủ yếu luật chứng khoán và luật các tổ chức tín dụng) và
các văn bản dưới luật.
Như trên đã trình bày, phát hành trái phiếu của NHTM là một trong những
nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng thương mại nhưng được thực hiện theo
phương thức phát hành chứng khoán nhằm huy động vốn nhàn rỗi để phục vụ
hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Với cách tiếp cận này thì pháp luật về phát
hành trái phiếu của NHTM là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh hành vi phát hành trái phiếu của NHTM để huy động vốn
phục vụ các hoạt động ngân hàng.
Với định nghĩa này, pháp luật về phát hành trái phiếu của ngân hàng
thương mại có một số đặc điểm như sau:

Một là, ề ngành luật điều chỉnh, hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM
chịu sự điều chỉnh trực tiếp bởi pháp luật về chứng khoán và pháp luật điều chỉnh
hoạt động của các tổ chức tín dụng. Theo đó, việc phát hành trái phiếu của
NHTM chịu sự điều chỉnh và phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật
chứng khoán về phát hành trái phiếu, đặc biệt là trình tự, thủ tục phát hành trái
phiếu ra công chúng. Đồng thời, là hoạt động ngân hàng cơ bản, việc phát hành
trái phiếu của NHTM được coi là một trong các hoạt động phát hành giấy tờ có
giá để huy động vốn của tổ chức tín dụng. Do vậy, hoạt động này còn chịu sự điều


13

chỉnh chặt chẽ hơn của pháp luật điều chỉnh hoạt động của các tổ chức tín dụng về
điều kiện đáp ứng các tỷ lệ an toàn vốn khi phát hành, thủ tục phát hành, chế độ
báo cáo và giám sát.
Hai là, về phạm vi điều chỉnh, pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM
điều chỉnh hành vi phát hành trái phiếu của NHTM. Về pháp lý, đây là hành vi
phát hành chứng khoán của NHTM, nhưng đồng thời là hành vi thực hiện hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
Ba là, về đối tượng tác động chính của pháp luật về phát hành trái phiếu
của NHTM là các NHTM có hoạt động kinh doanh chính là kinh doanh, cung ứng
thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ ngân hàng như nhận tiền gửi, cấp tín
dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản..(gọi chung là hoạt động ngân
hàng)
Bốn là, nội dung của pháp luật về phát hành trái phiếu của NHTM thường
quy định các nội dung chủ yếu sau:
- Nguyên tắc phát hành trái phiếu của NHTM
- Điều kiện và các phương thức phát hành trái phiếu của NHTM
- Trình tự, thủ tục phát hành trái phiếu của NHTM
- Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia hoạt động phát hành trái phiếu

của NHTM
1.2.2 Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động
phát hành trái phiếu của ngân hàng thương mại
Hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM không chỉ là hoạt động phát
hành chứng khoán nhằm huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM.
Mà thực hiện các hoạt động ngân hàng, vốn huy động từ phát hành trái phiếu sẽ
được “dẫn” trở lại nền kinh tế, phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu
dùng của tổ chức, cá nhân có nhu cầu. Do vậy, hoạt động phát hành trái phiếu
của NHTM không chỉ có ý nghĩa to lớn với chính NHTM mà còn với cả nền
kinh tế
Trước hết, đối với NHTM, việc phát hành trái phiếu là một trong các
nghiệp vụ huy động vốn, phục vụ trực tiếp hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Theo đó, ý nghĩa của hoạt động phát hành trái phiếu đối với NHTM được thể
hiện ở một số khía cạnh như sau:


14

Thứ nhất, là nghiệp vụ chào bán chứng khoán, so với loại chứng khoán
khác để huy động vốn như phát hành thêm cổ phiếu thì phát hành trái phiếu sẽ
giúp NHTM huy động được lượng vốn lớn với chi phí sử dụng vốn thấp hơn và
giới hạn trách nhiệm của NHTM với trái chủ.Khác với cổ tức phải trả cho cổ
đông, thì lãi suất trái phiếu mà NHTM phải trả cho trái chủ được tính vào chi phí
được khấu trừ thuế của NHTM. Ngoài ra, đối với NHTM thì nguồn vốn thông
qua phát hành trái phiếu có tính ổn định cao và ngân hàng ở vị thế chủ động khi
huy động vốn: chủ động về thời gian, quy mô vốn, kỳ hạn…Qua đó, NHTM
cũng “chủ động” chịu trách nhiệm trước các trái chủ trong thời hạn trái phiếu mà
không phải chịu ràng buộc trong suốt quá trình tồn tại của NHTM như đối với
các cổ đông.
Thứ hai, so với các nghiệp vụ huy động vốn khác như nhận tiền gửi, phát

hành chứng chỉ tiền gửi…thì nguồn vốn từ phát hành trái phiếu là nguồn vốn
vay trung và dài hạn, có tính ổn định cao. Do vậy, từ nguồn vốn từ phát hành trái
phiếu, NHTM có thể tăng vốn cấp 2 và vốn tự có3và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu4 do NHNN ban hành.
Đối với nền kinh tế nói chung việc phát hành trái phiếu của NHTM giúp
NHTM có thể tập hợp lượng vốn nhàn rỗi lớn trong dân cư, của các nhà đầu tư
chứng khoán chuyên nghiệp. Dòng vốn huy động này sẽ được “dẫn” đến các
doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp thông qua
nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTM. Do vậy, nguồn vốn từ hoạt động phát hành
trái phiếu của NHTM trực tiếp điều tiết nguồn vốn của nền kinh tế, đảm bảo nền
kinh tế phát triển ổn định. Ngoài ra, với tính rủi ro thấp so cổ phiếu, bằng việc
3

Thông tư số 41/2016/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 30/12/2016 quy định tỷ lệ an toàn
vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài
4

. Tỷ lệ an toàn vốn (CAR) tính theo đơn vị phần trăm (%) được xác định bằng công thức:

CAR 

C
100 % Trong đó:
RWA 12,5 (K OR  K MR )

- C: Vốn tự có;
- RWA: Tổng tài sản tính theo rủi ro tín dụng;
- KOR: Vốn yêu cầu cho rủi ro hoạt động;
- KMR: Vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường



15

phát hành trái phiếu, NHTM không chỉ bổ sung nguồn sản phẩm chứng khoán
trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, góp phần phát triển thị trường
chứng khoán.
Như vậy, hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM không chỉ có ý nghĩa
quan trọng với NHTM, nền kinh tế mà đó còn là một trong các hoạt động ngân
hàng thường xuyên và cơ bản. Do vậy, cần có các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động này để thống nhất và chuẩn hóa nghiệp vụ huy động vốn của tổ
chức tín dụng.
Ngoài ra, hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM là hoạt động huy
động vốn (thường với khối lượng lớn) từ tổ chức, cá nhân. Do vậy, các quy
phạm pháp luật cần được đặt ra để điều chỉnh nguyên tắc phát hành trái phiếu
của NHTM, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư khi mua trái
phiếu NHTM. Cũng giống như các hoạt động đầu tư chứng khoán khác, việc đầu
tư trái phiếu của NHTM cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Trong trường hợp NHTM sử
dụng vốn huy động nói chung và vốn huy động từ phát hành trái phiếu nói riêng
không hiệu quả, không đúng mục đích khiến NHTM mất khả năng thanh toán, bị
tuyên bố phá sản thì các nhà đầu tư có thể sẽ không thu hồi số tiền đầu tư. Đối
với nhiều nhà đầu tư, bị mất số tiền đầu tư lớn có thể dẫn tới khó khăn tài chính
cho chính nhà đầu tư, thậm chí có thể lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy, nếu
không có các nguyên tắc, điều kiện, trình tự, thủ tục phát hành chặt chẽ thì việc
huy động vốn từ phát hành trái phiếu của NHTM có thể dẫn đến việc mất khả
năng thanh toán cho chính NHTM, các nhà đầu tư và tạo ra tác động “dây
chuyền” tiêu cực đến nền kinh tế. Chính vì vậy, các quy phạm pháp luật về huy
động vốn nói chung và pháp luật về phát hành trái phiếu nói riêng của NHTM sẽ
là hành lang pháp lý quan trọng phòng ngừa các rủi ro, đảm bảo hoạt động an
toàn, ổn định cho NHTM, nhà đầu tư và cả nền kinh tế.
1.2.3 Vài nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật về phát hành

trái phiếu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam
Pháp luật về hoạt động phát hành trái phiếu của NHTM bắt đầu có những
quy phạm pháp luật định nghĩa và quy phạm pháp luật điều chỉnh đầu tiên, sơ
khai trên nền tảng là sự ra đời của các NHTM và sự ra đời của Luật Công ty trong
giai đoạn 1986 -1990 nhằm thực hiện chủ trương đổi mới toàn diện, sâu sắc và


16

triệt để theo Nghị quyết Đại hội Đảng VI, chuyển dịch nền kinh tế từ cơ chế kế
hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của
Nhà nước và từng bước hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong giai đoạn từ năm 1994 đến 2002, cùng với việc ban hành ban hành
Nghị định 120/1994/NĐ-CP ngày 17/9/1994 kèm theo quy chế tạm thời về việc
phát hành trái phiếu, cổ phiếu doanh nghiệp nhà nước ra thị trường đã đặt nền
tảng pháp lý gần như đầu tiên và sơ khai cho sự hình thành thị trường trái phiếu
doanh nghiệp. Quy chế này hướng dẫn các vấn đề có liên quan đến việc phát
hành, mua bán, chuyển nhượng, các hình thức thanh toán, lãi suất trái phiếu và
các vấn đề khác có liên quan. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng văn bản này vào
trong thực tế đã bộc lộ nhiều hạn chế như: phương thức phát hành chưa phù hợp
với thông lệ chung của thị trường trái phiếu (chưa quy định việc phát hành theo
phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành, chưa gắn việc phát hành với niêm
yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung); chưa bảo đảm nguyên tắc
công khai, minh bạch về thông tin khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Ngoài
ra, Nghị định này đưa ra những quy định về điều hành lãi suất còn mang nặng tính
hành chính, làm giảm tính chủ động của doanh nghiệp và chưa thực sự gắn với thị
trường. Điều kiện phát hành quá chặt chẽ, không khuyến khích doanh nghiệp thực
hiện huy động vốn trên thị trường như phải có lãi 03 năm trước khi phát hành, trái
phiếu bắt buộc phải có tổ chức bảo lãnh thanh toán. Vì vậy, việc phát hành trái
phiếu doanh nghiệp để huy động vốn cho các doanh nghiệp theo Nghị định này

vẫn còn rất hạn chế và chưa phổ biến. Cùng với Nghị định 120/1994/NĐ-CP,
trong năm 2004, Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) cũng đã ban hành
Quyết định 212/1994/QĐ/NH1 ngày 22/9/1994 về thể lệ phát hành trái phiếu
Ngân hàng thương mại, Ngân hàng đầu tư và hướng dẫn việc phát hành trái phiếu
của các tổ chức tín dụng. Để chuẩn bị cho sự ra đời của thị trường chứng khoán
(TTCK) ở nước ta, Chính phủ đã ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày
11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Nội dung của Nghị định
này hướng dẫn về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng
khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và TTCK.
Năm 1999, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa 10 đã thông qua Luật Doanh
nghiệp vào ngày 12/6/1999 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2000) để thay thế cho
Luật Công ty 1990. Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp 1999 thì việc phát


17

hành trái phiếu ra thị trường của các doanh nghiệp đã chính thức được điều
chỉnh theo Luật này thay cho Luật Công ty 1990.
Trong giai đoạn từ 2003 đến năm 2009, cùng với việc Luật doanh nghiệp
năm 1999 được thay thế bằng Luật doanh nghiệp năm 2005 và sự ra đời Luật
chứng khoán năm số 70/2006/QH11 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam
thông qua ngày 29/06/2006 và sự ra đời Nghị định 52/2006/NĐ-CP về phát hành
trái phiếu doanh nghiệp do Chính phủ ban hành ngày 19/5/2006 và các hướng
dẫn, quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dung liên tục sửa đổi, bổ
sung đã tạo nên một khung pháp lý tương đối với hoàn chỉnh cho hoạt động phát
hành trái phiếu doanh nghiệp nói chung và trái phiếu NHTM nói riêng. Theo đó,
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thời kỳ này đã không chỉ điều chỉnh quyền
và nghĩa vụ của các chủ thể phát hành trái phiếu mà còn quy định cụ thể nguyên
tắc, điều kiện, phương thức phát hành và loại hình trái phiếu, trình tự, thủ tục
phát hành trái phiếu của NHTM định hướng sự phát triển của hoạt động phát

hành trái phiếu của NHTM.
Trong giai đoạn từ năm 2010 đến nay, đáp ứng sự phát triển sôi động và
năng động của thị trường trái phiếu doanh nghiệp, các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động phát hành trái phiếu doanh nghiệp đã liên tục được sửa đổi, bổ
sung để phù hợp với sự phát triển của thị trường. Luật chứng khoán số
62/2010/QH12 được quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày
24/11/2010, Nghị định 90/2011/NĐ-CP về phát hành trái phiếu doanh nghiệp do
Chính Phủ ban hành 14/10/2011 thay thế Nghị định 52/2006/NĐ-CP, Nghị định
58/2012/NĐ-CP của Chính phủ ngày 20/07/2012 quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật chứng khoán, Nghị định 60/2016/NĐ-CP của Chính phủ ngày
26/6/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 58/2015/NĐ-CP…đã tạo
bước đầu xử lý kịp thời các vấn đề pháp lý phát sinh từng thời kỳ. Đối với phát
hành trái phiếu NHTM, NHNN liên tục ban hành sửa đổi, bổ sung quy định về
phát hành giấy tờ có giá vào các năm 2008 (Quyết định 07/2008/QĐ-NHNN
ngày 24/03/2008 của Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế phát hành giấy tờ
có giá trong nước của tổ chức tín dụng), 2009 (Thông tư số 16/2019/TT-NHNN
ngày 11/8/2009 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của quy
chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo
Quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008), 2013 (Thông tư số


×