Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Pháp luật về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.26 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỌ VÀ TÊN: NGUYỄN THỊ THU HUYỀN

ĐỀ TÀI
PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Lý luận, lịch sử nhà nƣớc và pháp luật

Mã số

: 60380101

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lê Văn Long

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,


đƣợc trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Huyền


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT
ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM ................................................................ 6
1.1. Khái niệm tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ........... 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân ............................................................. 9
1.3. Khái niệm, đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam ......... 20
1.4. Vai trò của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam ................ 26
1.5. Yêu cầu đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam ................ 30
1.6. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................... 34
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................. 38
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam ....................................... 38
2.2. Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam hiện nay................................................................ 43

2.3. Thực trạng thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay ................................................. 49


Chƣơng 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐÁP
ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM....
.............................................................................................................................. 69
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân .................................................................................... 69
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nƣớc pháp quyền là giá trị văn hóa pháp lý mà nhân loại đã và đang
tìm kiếm, xây dựng và phát triển trong quá trình đấu tranh không ngừng vì
nền dân chủ, vì lợi ích và tự do cơ bản của con ngƣời. Đó là mô hình tổ chức
nhà nƣớc chống lại sự lạm quyền, tùy tiện của công quyền để bảo vệ con
ngƣời. Quan điểm xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc thể hiện ngay trong
Hiến pháp năm 2013, đây là văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, có ý nghĩa
nhƣ một điều kiện tiên quyết cho việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nƣớc
cũng nhƣ xây dựng và thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội. Tƣ tƣởng
pháp quyền phải đƣợc thể hiện và thực thi trong mọi hoạt động kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Hiến pháp đã thể hiện

nhận thức đó trong từng chƣơng, từng điều, với tƣ cách là đạo luật cơ bản của
Nhà nƣớc.
Song song với việc xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, Đảng và Nhà nƣớc ta đang chủ
trƣơng cải cách tƣ pháp, để công tác tƣ pháp ngang tầm với những đòi hỏi của
Nhà nƣớc pháp quyền, đáp ứng kịp thời yêu cầu của quá trình đổi mới đất
nƣớc, xu thế hội nhập và hợp tác quốc tế. Từ khi có chủ trƣơng đẩy mạnh cải
cách tƣ pháp, giới khoa học pháp lý đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn
đề này. Tuy nhiên, thực tế cho thấy mặc dù vấn đề cải cách bộ máy nhà nƣớc
đã đƣợc đề cập từ lâu nhƣng so với cải cách trong lĩnh vực lập pháp, hành
pháp thì cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta diễn ra còn chậm.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc giao
lƣu, ảnh hƣởng giữa các nền kinh tế thế giới tất yếu dẫn đến sự ảnh hƣởng
đan xen lẫn nhau về văn hoá, chính trị, xã hội, trong đó có pháp luật. Trong
quá trình hội nhập, hệ thống pháp luật của mỗi nƣớc ít nhiều có ảnh hƣởng
đến hệ thống pháp luật của các nƣớc khác trên thế giới; và lẽ tất nhiên hệ


2

thống pháp luật của nƣớc ta phải tự hoàn thiện để dần phù hợp với hệ thống
pháp luật chung của thế giới.
Thời gian qua, các cơ quan tƣ pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân
nói riêng đã có nhiều cố gắng trong việc góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của
mỗi cơ quan. Hiện nay, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân đã đƣợc bổ sung và hoàn thiện, tuy nhiên vẫn còn một số quy định
thiếu đồng bộ, chƣa phù hợp, chƣa tƣơng thích trong điều kiện hội nhập.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà
nƣớc pháp quyền và xuất phát từ những yêu cầu của công cuộc xây dựng Nhà

nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nƣớc ta, việc nghiên cứu đề tài
“Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam” là cần thiết, có ý nghĩa cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình nghiên cứu về
cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân, điển hình nhƣ: Lê Minh Thông (chủ biên, 2001), Một số vấn đề về
hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Ngô Văn Đọn (chủ biên,
2004), Nâng cao chất lượng kiểm sát hoạt động tư pháp và thực hành quyền
công tố với vấn đề thông khâu và chuyên khâu trong các công tác kiểm sát
hình sự, Đề tài khoa học cấp Bộ, Hà Nội; Nguyễn Thái Phúc (2011), “Những
vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ
pháp trong Nhà nƣớc pháp quyền - kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang
Đức”, Kỷ yếu Hội thảo Viện Nhà nước và pháp luật; Ban cán sự Đảng, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (2014), Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân theo Kết luận 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ
chính trị, Hà Nội...


3

Trong hai năm gần đây, kể khi Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
2014 đƣợc ban hành mới đã có một số nghiên cứu liên quan đến pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhƣ bài viết trong các tạp
chí của Trần Đức Thuận (2017), “Bàn về thực hiện một số quy định mới về
nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí kiểm sát, (12/6); Thái Văn
Đoàn (2017), “Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng: Hai năm nhìn
lại”, Tạp chí kiểm sát online...

Các công trình khoa học này đã góp phần làm rõ hơn vấn đề lý luận và
thực tiễn về pháp luật tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Mỗi
công trình nghiên cứu, phân tích, đánh giá ở những mức độ khác nhau, dƣới
những khía cạnh cụ thể khác nhau. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề lý luận và
thực tiễn về pháp luật tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân vẫn
chƣa đƣợc giải quyết một cách có hệ thống trong bối cảnh xây dựng Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, để góp phần vào quá trình cải
cách tƣ pháp ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền,
đề tài pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân vẫn phải
tiếp tục đƣợc nghiên cứu dƣới những góc độ khác nhau nhằm giải quyết một
cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền ở Việt Nam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở
Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn phân tích, đánh giá khái quát pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay trƣớc
yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền nói chung và Nhà nƣớc pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Qua đó, luận văn đƣa ra một số giải


4

pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ những vấn đề liên quan đến pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân trong Nhà nƣớc pháp quyền, từ đó phân tích các

yêu cầu đối với pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
trong Nhà nƣớc pháp quyền; kết cấu, quy định của pháp luật về tổ chức, hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân để đáp ứng đƣợc các yêu cầu đó.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp luận: Chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện
chứng, phép biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin
- Các phƣơng pháp khác: Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp logic,
phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp đối chiếu,
phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp chứng minh…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Trong những năm gần đây, đã có nhiều nghiên cứu liên quan đến pháp
luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nhằm phân tích,
đánh giá ở những mức độ khác nhau những vấn đề liên quan đến pháp luật về
tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
tổng thể liên quan đến pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
vẫn còn nhiều vấn đề chƣa đƣợc giải quyết một cách có hệ thống trong việc
xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài xem xét, phân tích, đánh giá pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân, qua đó đƣa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng nhƣ sau:


5

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận của pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam

Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền ở Việt Nam


6

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG XÂY DỰNG
NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
1.1.1. Khái niệm tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân đƣợc thành lập ngày 26 tháng 7 năm 1960 trên
cơ sở Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Theo quy định của
Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Viện
kiểm sát nhân dân là hệ thống cơ quan nhà nƣớc độc lập trong cơ cấu tổ chức
bộ máy của các cơ quan Nhà nƣớc.
Viện kiểm sát nhân dân Việt Nam là một hệ thống độc lập và đƣợc tổ
chức ở 4 cấp gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng; Viện
kiểm sát nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong hệ thống
Viện kiểm sát nhân dân có các Viện kiểm sát quân sự gồm: Viện kiểm sát
quân sự Trung ƣơng; Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu, quân chủng, quân
đoàn...; Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Toàn bộ hệ thống Viện kiểm sát nhân dân, Viện kiểm sát quân sự các
cấp đặt dƣới sự quản lý, chỉ đạo và điều hành của Viện trƣởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao. Viện kiểm sát nhân dân do Viện trƣởng lãnh đạo. Viện

trƣởng Viện kiểm sát nhân dân cấp dƣới chịu sự lãnh đạo của Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân các địa
phƣơng, Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống
nhất của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đƣợc Quốc hội bầu trong số
các đại biểu Quốc hội theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc, chịu sự giám sát của
Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trƣớc Quốc hội; trong thời


7

gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trƣớc Uỷ
ban thƣờng vụ Quốc hội và Chủ tịch nƣớc; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu
của đại biểu Quốc hội. Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có nhiệm
kỳ cùng với nhiệm kỳ của Quốc hội là 05 năm. Một ngƣời chỉ đƣợc bầu làm
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không quá hai nhiệm kỳ. Viện
trƣởng Viện kiểm sát nhân dân địa phƣơng chịu sự giám sát của Hội đồng
nhân dân cùng cấp; chịu trách nhiệm báo cáo công tác trƣớc Hội đồng nhân
dân; trả lời chất vấn, kiến nghị, yêu cầu của đại biểu Hội đồng nhân dân.
Nhƣ vậy, có thể định nghĩa về tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân nhƣ
sau: Tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân là cách thức sắp xếp, bố trí, cơ cấu
về hệ thống cơ quan, bộ máy cũng nhƣ xác định thẩm quyền, nhân lực, mối
quan hệ giữa các thiết chế, đơn vị của Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện
các chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp.
1.1.2. Khái niệm hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân gồm hai lĩnh vực hoạt động: hoạt
động quản lý ngành (hoạt động tổ chức và quản lý hành chính nội bộ ngành)
và hoạt động chuyên môn nghiệp vụ. Trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ,
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố,
kiểm sát hoạt động tƣ pháp (khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013).

1.1.2.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
Quyền công tố cũng nhƣ các chế định khác là một phạm trù lịch sử, là
sản phẩm của xã hội loài ngƣời phát triển đến giai đoạn nhất định, nó xuất
hiện cùng với sự ra đời của Nhà nƣớc. Trên thế giới, do có sự khác biệt về thể
chế chính trị, điều kiện lịch sử, truyền thống văn hóa, tôn giáo… nên chế định
công tố cũng có sự khác biệt trong cơ chế vận hành, nhƣng quá trình diễn biến
của nó đều thể hiện rõ quy luật tất yếu chung của sự phát triển lịch sử. Đó là
quyền công tố luôn gắn liền với bản chất của nhà nƣớc, là một bộ phận cấu
thành và không tách rời khỏi công quyền.


8

“Công tố” theo Từ điển tiếng Việt, “công” có nghĩa là “thuộc về nhà
nƣớc, tập thể, trái với tƣ ”, còn tố có nghĩa là “nói về những sai phạm, tội lỗi
của ngƣời khác một cách công khai trƣớc ngƣời có thẩm quyền”, “công tố”
có nghĩa là “điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến
trƣớc Tòa án”; theo thuật ngữ pháp lý phổ thông là: Hoạt động của Kiểm sát
viên và những ngƣời khác theo quy định của pháp luật có nhiệm vụ vạch mặt
ngƣời phạm tội, xác định căn cứ để kết tội và áp dụng hình phạt đối với
ngƣời phạm tội.
Theo Từ điển Luật học giải thích: “Thực hành quyền công tố là việc sử
dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra,
truy tố và xét xử”.1
Nhƣ vậy, khái niệm thực hành quyền công tố đƣợc hiểu nhƣ sau: Thực
hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội, đƣợc
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.

1.1.2.2. Khái niệm kiểm sát hoạt động tư pháp
Ở Việt Nam, tố tụng là quá trình giải quyết vụ án, vụ việc, trong đó toàn
bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng,
ngƣời tham gia tố tụng và các cá nhân, cơ quan Nhà nƣớc, tổ chức xã hội
nhằm giải quyết vụ án, vụ việc một cách khách quan, toàn diện, nhanh chóng,
chính xác và đúng pháp luật. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, cơ quan
thi hành án dân sự, hình sự, cơ quan đƣợc giao tiến hành một số hoạt động
điều tra là những cơ quan có vai trò quan trọng trong việc giải quyết vụ án, vụ
việc. Hoạt động của cơ quan tố tụng đƣợc thực hiện thông qua hoạt động của
ngƣời tiến hành tố tụng. Ngƣời tiến hành tố tụng là những công chức nhà
nƣớc, đƣợc bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng nhƣ Thủ trƣởng, Phó thủ
1

Từ điển Luật học (2006), Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tƣ pháp, tr. 188.


9

trƣởng, Điều tra viên thuộc Cơ quan điều tra; Viện trƣởng, Phó viện trƣởng,
Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm
phán, Thƣ ký, Hội thẩm nhân dân thuộc Tòa án nhân dân. Những ngƣời này,
theo chức năng, nhiệm vụ đƣợc phân công có thẩm quyền thực hiện các hoạt
động tố tụng. Bên cạnh đó, ngƣời tham gia tố tụng và cá nhân, tổ chức khác
có liên quan đến việc giải quyết vụ án, vụ việc cũng là những chủ thể có vị trí,
vai trò tác động nhất định đến quá trình tố tụng. Để bảo đảm tất cả các chủ thể
này khi tiến hành hay tham gia tố tụng đều thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật
thì cần phải có sự giám sát thƣờng xuyên, kịp thời kiến nghị khắc phục khi có
vi phạm xảy ra.
Theo đó, khái niệm kiểm sát hoạt động tƣ pháp đƣợc hiểu nhƣ sau: Kiểm
sát hoạt động tƣ pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát

tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tƣ pháp, đƣợc thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tƣ pháp; các hoạt động tƣ pháp khác theo
quy định của pháp luật.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung của pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân
1.2.1.1. Khái niệm
Pháp luật là một hiện tƣợng xã hội mang tính khách quan, nó ra đời và
tồn tại cùng với Nhà nƣớc. Có nhiều quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp
luật. Từ điển Luật học ghi: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư


10

trong xã hội”.2 Có quan niệm lại cho rằng: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc
xử sự có tính bắt buộc chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện ý
chí nhà nước của giai cấp thống trị trên cơ sở ghi nhận các nhu cầu về lợi ích
của toàn xã hội, được đảm bảo thực hiện bằng Nhà nước nhằm điều chỉnh
những quan hệ xã hội với mục đích duy trì trật tự và ổn định xã hội vì sự phát
triển bền vững của xã hội”.3
Trên bình diện phổ biến, có thể định nghĩa về pháp luật nhƣ sau: “Pháp
luật là hệ thống quy tắc xử sự chung do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và
bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định

hướng của Nhà nước”.4
Từ năm 1960, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Viện kiểm sát nhân dân
ra đời. Theo đó, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã quy định
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân còn có
các nhiệm vụ và quyền hạn sau: Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và
truy tố trƣớc Toà án nhân dân những ngƣời phạm pháp về hình sự…
Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1981;
Hiến pháp năm 1992 và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1992;
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi) và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm
2002 tiếp tục quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Tuy nhiên, từ năm 2002, Viện kiểm sát thôi không thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, trên cơ sở Hiến pháp năm
2013 quy định cụ thể chức năng của Viện kiểm sát nhân dân là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tƣ pháp.

2

Từ điển Luật học (2006), Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb. Tƣ pháp, tr. 66.
Lê Minh Thông (chủ biên) (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 288.
4
Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm (chủ biên) (2016), Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp
luật, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ pháp, tr. 209.
3


11


Tuy hiện nay có một số thay đổi về tổ chức và cách thức hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân, song nhận thức về tổ chức và hoạt động của cơ quan
này thì cơ bản không có gì thay đổi so với các quan niệm truyền thống. Theo
đó, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân quy định về
tổ chức, bộ máy, cách thức hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân; chức trách,
nhiệm vụ cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân; trình tự tiến hành các biện pháp
thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân; mối quan hệ giữa Viện kiểm
sát nhân dân với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, ngƣời tiến hành tố tụng
và những ngƣời tham gia tố tụng…
Nhƣ vậy, có thể định nghĩa nhƣ sau: Pháp luật về tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc
ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình xác lập hệ
thống cơ cấu, tổ chức bộ máy cơ quan Viện kiểm sát nhân dân; xác lập quyền
năng pháp lý và điều chỉnh các quan hệ, sự phối hợp giữa các chủ thể trong
quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp.
1.2.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
có tính quyền lực nhà nƣớc.
Tính quyền lực nhà nƣớc là đặc điểm của pháp luật nói chung cũng nhƣ
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng. Để
thực hiện vai trò quan trọng trong việc bảo vệ công lý và trật tự chung trong
xã hội, với tính cách là những quy tắc xử sự, pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân chính là những yêu cầu, đòi hỏi hoặc cho
phép của Nhà nƣớc đối với hành vi ứng xử của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Nói
cách khác, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thể
hiện ý chí của Nhà nƣớc. Với quyền lực của mình, Viện kiểm sát nhân dân có
nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền



12

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật đƣợc
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân quy định nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức thực hiện pháp luật,
yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh.
Khi cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật pháp luật về tổ chức và hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị
xử lý kỷ luật, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
có tính quy phạm phổ biến.
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện pháp luật về tổ
chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân phải xử sự theo những quy
định của hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân. Căn cứ vào các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân, các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quá trình thực hiện
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân sẽ biết mình
đƣợc làm gì, không đƣợc làm gì, phải làm gì và làm nhƣ thế nào khi ở vào
một điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nào đó. Pháp luật tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân là khuôn mẫu ứng xử cho các cơ quan, tổ chức cá
nhân, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình xác lập hệ thống cơ
cấu, tổ chức bộ máy cơ quan Viện kiểm sát nhân dân; xác lập quyền năng
pháp lý và điều chỉnh các quan hệ, sự phối hợp giữa các chủ thể trong quá
trình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.
Thứ ba, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
có tính hệ thống.
Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc quy định trong

nhiều văn bản quy phạm pháp nhƣ Hiến pháp năm 2013, Luật Tố tụng hành
chính năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;


13

Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Tổ chức
cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm
2015, Luật Trách nhiệm bồi thƣờng của Nhà nƣớc năm 2017...
Mặc dù liên quan và áp dụng điều chỉnh ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhƣ
hành chính, dân sự, hình sự, song các quy định của pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân không tồn tại biệt lập mà giữa chúng
có mối liên hệ nội tại thống nhất với nhau, tạo nên một chỉnh thể thống nhất.
Thứ tư, pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân có
tính xác định về hình thức.
Pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc thể
hiện dƣới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật nhƣ Bộ luật, luật. Các
quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
đƣợc thể hiện một cách rõ ràng, cụ thể, không trừu tƣợng, chung chung, bảo
đảm có thể đƣợc hiểu và thực hiện thống nhất.
1.2.2. Nội dung của pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân
Để đảm bảo cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện tốt quyền năng của
mình, pháp luật quy định cho cơ quan này tổ chức bộ máy, hoạt động cụ thể,
độc lập, rõ ràng. Theo đó, nội dung pháp luật về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát có thể phân chia thành hai nhóm: Nhóm quy định cơ cấu, tổ
chức của Viện kiểm sát nhân dân và nhóm điều chỉnh các hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân.
1.2.2.1. Pháp luật quy định cơ cấu, tổ chức của Viện kiểm sát nhân dân
Tuỳ thuộc vào đặc thù của mỗi quốc gia mà Viện kiểm sát nhân dân ở

mỗi nƣớc lại có sự khác nhau nhất định. Mỗi quốc gia có cách thức tổ chức,
sắp xếp khác nhau về Viện kiểm sát nhân dân trong chỉnh thể Bộ máy nhà
nƣớc. Tuy nhiên, tính độc lập là yếu tố bắt buộc của cơ quan này, xuất phát từ
quyền năng đặc biệt của Nhà nƣớc về hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với ngƣời phạm tội. Vì vậy, cho dù trực thuộc cơ quan lập pháp, cơ quan


14

hành pháp hay cơ quan tƣ pháp nhƣng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
luôn luôn độc lập với tất cả các cơ quan nhà nƣớc khác. Hiện nay, ở Nƣớc ta
Viện kiểm sát nhân dân đƣợc tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất
trong Ngành, Viện kiểm sát nhân dân do Viện trƣởng lãnh đạo, Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp dƣới chịu sự lãnh đạo của Viện trƣởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp trên; Viện trƣởng các viện kiểm sát cấp dƣới chịu sự lãnh
đạo thống nhất của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trƣớc
Quốc hội (Điều 108, Điều 109 Hiến pháp năm 2013).
Về tổ chức, bộ máy, pháp luật thực định quy định hệ thống Viện kiểm
sát nhân dân bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng
(sau đây gọi là Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh); Viện kiểm sát nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tƣơng đƣơng (sau đây gọi là Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện); Viện kiểm sát quân sự các cấp.
Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có Ủy
ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các cục, vụ, viện và tƣơng đƣơng;
các cơ sở đào tạo, bồi dƣỡng, các cơ quan báo chí và các đơn vị sự nghiệp
công lập khác; Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng. Tổ chức bộ máy của Viện
kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các viện và
tƣơng đƣơng. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm

có Ủy ban kiểm sát; Văn phòng; các phòng và tƣơng đƣơng. Tổ chức bộ máy
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện gồm có Văn phòng và các phòng;
những nơi chƣa đủ điều kiện thành lập phòng thì có các bộ phận công tác và
bộ máy giúp việc.
Hệ thống Viện kiểm sát quân sự gồm Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng;
Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu và tƣơng đƣơng; Viện kiểm sát quân sự
khu vực. Tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng gồm có Ủy
ban kiểm sát; Văn phòng; Cơ quan điều tra; các phòng và tƣơng đƣơng. Tổ


15

chức bộ máy của Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu và tƣơng đƣơng gồm
có Ủy ban kiểm sát; các ban và bộ máy giúp việc. Tổ chức bộ máy của Viện
kiểm sát quân sự khu vực gồm các bộ phận công tác và bộ máy giúp việc.
Các chức danh tƣ pháp trong Viện kiểm sát nhân dân gồm có Viện
trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát các cấp, Kiểm sát viên. Tại Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự Trung ƣơng còn có chức danh
Thủ trƣởng, Phó thủ trƣởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên. Tại Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện còn có chức danh Kiểm tra viên.
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nƣớc. Nhiệm kỳ của Viện trƣởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Phó Viện trƣởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ
tịch nƣớc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát
nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện do Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức.

Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng là Phó Viện trƣởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nƣớc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức
theo đề nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống
nhất với Bộ trƣởng Bộ Quốc phòng. Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự
trung ƣơng; Viện trƣởng, Phó Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân
khu và tƣơng đƣơng, Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện kiểm sát nhân
dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trƣởng
Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng.
Kiểm sát viên gồm có 04 ngạch: Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp.


16

Số lƣợng Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao không quá 19 ngƣời
(khoản 1 Điều 93 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
Kiểm tra viên có 03 ngạch: Kiểm tra viên, Kiểm tra viên chính, Kiểm tra
viên cao cấp. Tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch Kiểm tra viên
do Ủy ban thƣờng vụ Quốc hội quy định theo đề nghị của Viện trƣởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp,
Điều tra viên các ngạch, Kiểm tra viên các ngạch của Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện do
Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Kiểm sát viên, Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự do Viện trƣởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị
của Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng.
Tiêu chuẩn bổ nhiệm, điều kiện nâng ngạch, các ngạch Điều tra viên và
các chức danh khác của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng do Luật định (khoản 1 Điều 92 Luật Tổ

chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội quyết định tổng biên chế, số lƣợng Kiểm sát
viên; cơ cấu tỷ lệ các ngạch Kiểm sát viên tại mỗi cấp Viện kiểm sát; số
lƣợng, cơ cấu tỷ lệ các ngạch Điều tra viên của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao theo đề nghị của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi có ý
kiến của Chính phủ (khoản 2 Điều 93 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân
năm 2014).5
Có thể nói, trƣớc yêu cầu về cải cách tƣ pháp và trƣớc tiến trình hội nhập
quốc tế, việc nghiên cứu, xác định đúng đắn, khoa học chức năng, vị trí, tổ
chức bộ máy của các cơ quan tƣ pháp nói chung và Viện kiểm sát nhân dân

5

Phạm Mạnh Hùng (2016), “Tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân theo Luật tổ chức viện kiểm
sát nhân dân 2014”, Bản tin Thông tin khoa học lập pháp, (02(25)).


17

nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc đổi mới, hoàn thiện bộ máy
Nhà nƣớc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc.
1.2.2.2. Pháp luật điều chỉnh các hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là thiết chế Hiến định trong bộ máy nhà nƣớc.
Theo Điều 107 Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Cụ thể hóa Điều 107 Hiến pháp
năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định:
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tƣ pháp của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố. Điều này có
nghĩa là Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan đƣợc giao thực hiện chức năng

thực hành quyền đƣa ngƣời phạm tội ra truy tố trƣớc pháp luật, thực hiện việc
buộc tội của Nhà nƣớc đối với ngƣời phạm tội. Hoạt động thực hành quyền
công tố của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc thực hiện ngay từ khi giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để phát hiện ngƣời phạm tội, thực
hiện việc xem xét quyết định khởi tố và đƣợc diễn ra trong suốt quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. Mục đích của hoạt động thực hành
quyền công tố là phát hiện, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử kịp thời, nghiêm
minh mọi tội phạm và ngƣời phạm tội không làm oan ngƣời vô tội, không để
lọt tội phạm và ngƣời phạm tội; không để ngƣời nào bị khởi tố, bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền con ngƣời, quyền công dân trái luật.
Khi nhân danh Nhà nƣớc, khi thực hiện chức năng thực hành quyền công
tố, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 1) Yêu cầu khởi
tố, hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án trái pháp luật, phê
chuẩn, không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra, cơ
quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trực tiếp khởi
tố vụ án, khởi tố bị can trong những trƣờng hợp do Bộ luật Tố tụng hình sự
quy định; 2) Quyết định, phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện
pháp hạn chế quyền con ngƣời, quyền công dân trong việc giải quyết tố giác,


18

tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra, truy tố
theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; 3) Hủy bỏ các quyết định tố tụng
trái pháp luật khác trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố và trong việc khởi tố, điều tra của Cơ quan điều tra, cơ quan đƣợc giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; 4) Khi cần thiết đề ra yêu cầu
điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thực hiện; 5) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu
quan cung cấp tài liệu để làm rõ tội phạm, ngƣời phạm tội; 6) Trực tiếp giải

quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; tiến hành một số hoạt
động điều tra để làm rõ căn cứ quyết định việc buộc tội đối với ngƣời phạm
tội; 7) Điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp, các tội phạm về
tham nhũng, chức vụ xảy ra trong hoạt động tƣ pháp theo quy định của luật;
8) Quyết định việc áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn điều tra, truy tố; 9)
Quyết định việc truy tố, buộc tội bị cáo tại phiên tòa; 10) Kháng nghị bản án,
quyết định của Tòa án trong trƣờng hợp Viện kiểm sát nhân dân phát hiện
oan, sai, bỏ lọt tội phạm, ngƣời phạm tội.
Viện kiểm sát nhân dân không chỉ là cơ quan thực hành quyền công tố
mà còn là cơ quan kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Các hoạt động tƣ pháp là đối
tƣợng của hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm hoạt động
tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và hoạt động thi hành án
hình sự, dân sự, hành chính. Hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện
kiểm sát nhân dân là hoạt động kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của Cơ quan điều tra, cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra, Tòa án, cơ quan thi hành án, ngƣời có thẩm quyền của các cơ
quan trên trong việc giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, xét xử,
thi hành án và các hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên
quan đến các hoạt động giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, xét
xử, thi hành án.


19

Hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân đƣợc
thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án
hình sự, thi hành án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc
dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động; việc thi hành
án dân sự, thi hành án hành chính, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt

động tƣ pháp; các hoạt động tƣ pháp khác theo quy định của pháp luật.
Hoạt động kiểm sát hoạt động tƣ pháp của Viện kiểm sát nhân dân nhằm
bảo đảm hoạt động của Cơ quan điều tra, cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra, Tòa án, ngƣời có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong các cơ quan trên, hoạt động của cơ quan thi hành án, ngƣời có
thẩm quyền thi hành án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác liên quan đến
các hoạt động giải quyết thông tin về tội phạm, khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án đƣợc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật; quyền con
ngƣời, quyền công dân không bị luật hạn chế phải đƣợc tôn trọng và bảo vệ;
mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tƣ pháp phải đƣợc phát hiện, xử lý kịp
thời, nghiêm minh.
Khi nhân danh Nhà nƣớc, khi thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động
tƣ pháp, Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 1) Yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tƣ pháp theo đúng quy định của
pháp luật; tự kiểm tra việc tiến hành hoạt động tƣ pháp thuộc thẩm quyền và
thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu để
Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
trong hoạt động tƣ pháp; 2) Trực tiếp kiểm sát; xác minh, thu thập tài liệu để
làm rõ vi phạm pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tƣ
pháp; 3) Xử lý vi phạm; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền khắc phục, xử lý nghiêm minh vi phạm pháp luật trong hoạt động tƣ
pháp; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa
vi phạm pháp luật và tội phạm; 4) Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án


20

có vi phạm pháp luật; kiến nghị hành vi, quyết định của Tòa án có vi phạm
pháp luật; kháng nghị hành vi, quyết định có vi phạm pháp luật của cơ quan,
ngƣời có thẩm quyền khác trong hoạt động tƣ pháp; 5) Kiểm sát việc giải

quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tƣ pháp; giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền.
Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp,
Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phối hợp với cơ quan Công an, Tòa
án, Thi hành án, Thanh tra, Kiểm toán, các cơ quan nhà nƣớc khác, Ủy
ban mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận để
phòng, chống tội phạm có hiệu quả; xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội
phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tƣ pháp; phổ biến, giáo dục pháp
luật; xây dựng pháp luật; đào tạo, bồi dƣỡng; nghiên cứu tội phạm và vi phạm
pháp luật (Điều 8 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
Các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành
các quyết định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
(khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014).
Nhƣ vậy, có thể thấy các hoạt động cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân đã
đƣợc quy định khá đầy đủ, chi tiết trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc
biệt là Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Quy định trên trong
các văn bản quy phạm pháp luật có ý nghĩa quan trọng đối với việc đổi mới
và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc nói chung
và của Viện kiểm sát nhân dân nói riêng, cũng nhƣ đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
1.3. Khái niệm, đặc trƣng của Nhà nƣớc pháp quyền ở Việt Nam
Nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc có cách thức tổ chức và hoạt động
hoàn toàn khác các nhà nƣớc độc tài, chuyên chế, nhà nƣớc cai trị. Nhà nƣớc
pháp quyền đƣợc tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, đó là hệ
thống pháp luật dân chủ, phản ánh công lý, phù hợp với quyền tự nhiên của
con ngƣời. Nhà nƣớc pháp quyền đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ


21


quyền nhân dân, có cơ chế phân công, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc nhằm
bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời, tự do cá nhân. Nhà nƣớc pháp quyền là
công cụ để phục vụ xã hội, phục vụ con ngƣời, mang lại lợi ích cho công dân,
bảo vệ tự do cá nhân và công bằng xã hội. Nhà nƣớc cũng nhƣ các chủ thể
khác trong xã hội đều luôn tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh. Tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận:
1. Nhà nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nƣớc pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất
cả quyền lực nhà nƣớc thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nƣớc là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm
soát giữa các cơ quan nhà nƣớc trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tƣ pháp.
Tóm lại, Nhà nƣớc pháp quyền là nhà nƣớc đề cao vai trò của pháp luật
trong đời sống nhà nƣớc và xã hội, đƣợc tổ chức, hoạt động trên cơ sở chủ
quyền nhân dân, phân công và kiểm soát quyền lực nhà nƣớc nhằm bảo đảm
quyền con ngƣời, tự do cá nhân cũng nhƣ công bằng, bình đẳng trong xã hội.6
Bên cạnh những đặc trƣng cơ bản của Nhà nƣớc pháp quyền nhƣ: nhà
nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ,
tiến bộ, phù hợp và khả thi; nhà nƣớc bảo đảm vị trí tối thƣợng của pháp luật
trong đời sống nhà nƣớc và đời sống xã hội; nhà nƣớc đƣợc tổ chức và hoạt
động trên cơ sở chủ quyền của nhân dân; nhà nƣớc thừa nhận, tôn trọng, bảo
đảm và bảo vệ các quyền con ngƣời, quyền công dân; nhà nƣớc đƣợc tổ chức
và hoạt động theo cơ chế bảo đảm sự phân công và kiểm soát quyền lực giữa
các cơ quan nhà nƣớc; nhà nƣớc gắn bó mật thiết với xã hội dân sự thì Nhà
nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng có các đặc trƣng riêng.
6

Nguyễn Minh Đoan, Nguyễn Văn Năm (chủ biên) (2016), Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp

luật, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Tƣ pháp, tr. 170.


×