Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về tuyển dụng công chức và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.63 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM TRÀ MI

ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM TRÀ MI

ĐỀ TÀI

PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN


TỈNH HƢNG YÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60380102

Ngƣời hƣớng dẫn khoc học: TS. NGUYÊN NGỌC BÍCH

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
đước trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

PHẠM TRÀ MI


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

UBND

Ủy ban nhân dân

BNV

Bộ Nội vụ

CTN

Chủ tịch nước

CBCC

Cán bộ, công chức

SL

Sắc lệnh

GS

Giáo sư

TS

Tiến sĩ


ThS

Thạc sĩ

NXB

Nhà xuất bản

CN

Công nguyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG I: PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC................ 7
1.1 Khái niệm công chức.............................................................................. 7
1.2. Tuyển dụng công chức ........................................................................ 15
1.2.1. Khái niệm về tuyển dụng công chức................................................. 15
1.2.2. Vai trò của tuyển dụng công chức.................................................... 17
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật công chức và tuyển
dụng công chức........................................................................................... 18
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG CÔNG
CHỨC VÀ THỰC TIỄN TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC TRÊN ĐỊA
BÀN TỈNH HƢNG YÊN .............................................................................. 27
2.1. Thực trạng pháp luật về tuyển dụng công chức .................................. 27
2.1.1. Nội dung quy định của pháp luật hiện hành .................................... 27
2.1.2. Đánh giá các quy định pháp luật về tuyển dụng .............................. 37
2.2. Thực tiễn tuyển dụng công chức trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ............ 41
2.2.1. Những thành tựu đạt được trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về

tuyển dụng công chức ở tỉnh Hưng Yên trong thời gian qua ..................... 42
2.2.2. Những tồn tại và hạn chế trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về
việc tuyển dụng công chức trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ............................ 48
2.2.3. Những nguyên nhân của những vướng mắc, bất cập trong việc tổ
chức thực hiện quy định của pháp luật về tuyển dụng công chức ở Tỉnh
Hưng Yên .................................................................................................... 53
CHƢƠNG III: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC .......................................................... 57
3.1. Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức ........ 57
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức ............ 61
3.3. Các giải pháp bảo đảm thực hiện có hiệu quả quy định của pháp luật
về tuyển dụng công chức trên địa bàn tỉnh Hưng yên ................................ 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 73


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong giai đoạn đổi mới hiện nay khi nền kinh tế nước ta có những
bước phát triển vượt bậc thì nền hành chính của nước nhà vẫn còn chuyển
biến chậm, chưa đuổi kịp hay nói đúng hơn là chưa ngang bằng với sự phát
triển của nền kinh tế. Công chức là đội ngũ tiên phong mang trọng trách lớn
trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước trong quản lý xã hội, đảm bảo việc tổ
chức và thực thi pháp luật, làm cho pháp luật đi vào cuộc sống của nhân
dân. Ở nước ta những thành tựu đạt được trong những năm thực hiện công
cuộc đổi mới có phần đóng góp quan trọng của đội ngũ cán bộ,công chức.
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu hướng hội nhập

quốc tế thì vấn đề cấp bách đặt ra là phải xây dựng và phát triển đội ngũ cán
bộ,công chức. Việc xây dựng một đội ngũ công chức bao gồm những người
có trình độ chuyên môn, có năng lực quản lý và có phẩm chất đạo đức tốt, làm
việc nghiêm túc vì trách nhiệm của mình trước công vụ là yêu cầu cấp thiết
trước tình hình đổi mới đất nước để xây dựng một nền hành chính trong sạch,
vững mạnh. Công tác tuyển dụng là bước đầu tiên để tuyển chọn được đội
ngũ công chức có chất lượng cao, nhưng trong thời gian qua do chưa được
quan tâm đúng mức nên chúng ta chưa phát hiện, tuyển chọn được những cán
bộ, công chức thực sự có đức, có tài. Tuyển dụng công chức là để giao giữ
một chức trách nhất định hay để bổ nhiệm vào một ngạch công chức nào đó,
để thi hành nhiệm vụ được nhà nước trao, do vậy việc tuyển dụng công chức
phải cẩn trọng. Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên trong chu trình quản
lý công chức, có tính quyết định cho sự phát triển một cơ quan, tổ chức, đơn
vị của nhà nước. Trong quá trình vận hành của nền công vụ, việc tuyển dụng


2

được những công chức giỏi thì nhất định nền công vụ sẽ hoạt động đạt kết quả
cao hơn vì công chức nhà nước là nhân tố quyết định đến sự vận hành của
một nền công vụ.
Để khắc phục những tồn tại hiện nay và đáp ứng được yêu cầu của
công cuộc đổi mới,vấn đề cấp bách là phải có chiến lược về con người, trong
đó việc tuyển dụng thực sự đã trở thành động lực cho sự phát triển của xã hội.
Trong điều kiện cải cách hành chính, hướng tới xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch và từng bước hiện đại hóa thì vấn đề tuyển dụng và xây
dựng đội ngũ công chức càng có ý nghĩa quyết định hơn bao giờ hết mà nó
cần được nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Đến nay đã có nhiều nghiên cứu về công tác tuyển dụng công chức
nhưng để nghiên cứu về công tác tuyển dụng công chức trên một địa bàn nhất

định như tỉnh Hưng Yên thì chưa có nghiên cứu nào cụ thể về vấn đề này.
Nhằm xây dựng đội ngũ công chức hành chính nhà nước ở tỉnh Hưng Yên
ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, tác giả đã chọn đề tài “Pháp luật về tuyển dụng
công chức và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong giai đoạn phát triển và hội nhập toàn diện ở Việt Nam hiện nay,
việc tuyển dụng công chức được rất nhiều người quan tâm tìm hiểu, nghiên
cứu. Trong những năm gần đây đã có nhiều các công trình nghiên cứu về
tuyển dụng công chức với những khía cạnh và góc nhìn khác nhau và chủ yếu
là các bài viết trên các trang website, tạp chí và các bài tham luận trong các
hội thảo khoa học liên quan đến việc tuyển dụng công chức.
Một số công trình nghiên cứu về công chức và pháp luật tuyển dụng
công chức như:
GS.TS. Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ, công chức nhà nước,
Nxb.Tư pháp, Hà Nội. Nội dung sách tập trung giải quyết những vấn đề lý


3

luận về công vụ, công chức, pháp luật về công vụ, công chức dựa trên cơ sở
phân tích pháp luật thực định của Nhà nước ta từ năm 1945 đến năm 2003 và
chỉ ra xu hướng điều chỉnh của pháp luật về công vụ, công chức qua các thời
kỳ lịch sử.
ThS.Bùi Thị Đào (2006), “Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp
lệnh cán bộ, công chức”, Ths. Phạm Tuấn Doanh, Quy định về tuyển dụng
công chức và một số giải pháp hoàn thiện. Nội dung các công trình nghiên
cứu trên chủ yếu chỉ ra về khái niệm công chức, viên chức dưới góc nhìn của
các tác giả; pháp luật về công chức, viên chức nói chung và tuyển dụng công
chức, viên chức theo quy định của pháp luật hiện hành.
PGS.TS Phạm Hồng Hải, Một số vấn đề đổi mới tuyển dụng công chức

ở Việt Nam; Ths. Thạch Thọ Mộc, Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng và
đánh giá đội ngũ công chức ở nước ta hiện nay... Những công trình nghiên
cứu này dựa trên các quy định về thi tuyển công chức và cải cách hành chính
từ những năm 1986 đến nay có những thành tựu và hạn chế gì và từ đó đưa ra
những ý kiến chủ quan của tác giả về việc nên đổi mới công tác tuyển dụng
công chức ở Việt Nam ra sao. Các tác giả đề cập đến vấn đề cải cách công vụ,
công chức là trọng tâm của cải cách hành chính; đạo đức và trách nhiệm công
chức trong cải cách hành chính hiện nay; giải pháp thu hút công chức tài năng
trong hoạt động công vụ và vấn đề xây dựng ngân hàng câu hỏi thi tuyền công
chức góp phần nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức.
Mặc dù có nhiều công trình nghiên cứu xoay quanh nội dung về cán bộ,
công chức, pháp luật công chức, tuyển dụng nhưng chưa có công trình nghiên
cứu nào cụ thể về pháp luật tuyển dụng công và cụ thể trên địa bàn nhất định
như tỉnh Hưng Yên. Vì vậy, với mong muốn có những hiểu biết sâu sắc hơn
về pháp luật tuyển dụng công chức cũng như thực trạng tuyển dụng công chức
trên địa bàn tỉnh Hưng Yên để từ đó đưa ra một số kiến nghị về giải pháp


4

hoàn thiện, tác giả xin tìm hiểu rõ hơn về đề tài “Pháp luật về tuyển dụng
công chức và thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Hưng Yên”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn nhằm đánh giá thực trạng và chỉ ra những
vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng trong tuyển dụng công chức trên địa bàn tỉnh Hưng
Yên hiện nay.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu luận văn cần phải trả lời được các câu
hỏi như
Lý luận về tuyển dụng công chức và pháp luật về tuyển dụng công chức

là như thế nào?
Thực trạng pháp luật về tuyển dụng công chức ở Việt Nam hiện nay
như thế nào và thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về tuyển dụng công chức
ở Việt Nam nói chung và tỉnh Hưng Yên nói riêng hiện nay ra sao?
Để khắc phục những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn tổ chức thực hiện
pháp luật về tuyển dụng công chức, cần phải có những phương hướng và giải
pháp gì nhằm nâng cao hiệu quả tuyển dụng công chức ở Hưng Yên hiện nay?
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về tuyển dụng công
chức và việc tổ chức thực hiện pháp luật về tuyển dụng công chức trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên hiện nay.
Luận văn tập trung vào nghiên cứu với phạm vi như sau:
Pháp luật tuyển dụng công chức: Pháp luật tuyển dụng công chức hiện
hành ở Việt Nam như Luật cán bộ, công chức 2008, Nghị định số
24/2010/NĐ-CP.
Thực tiễn tổ chức thực hiện pháp luật về tuyển dụng công chức trên địa
bàn Tỉnh Hưng Yên trong những năm gần đây, những thành tựu, hạn chế và


5

giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tuyển dụng công chức trong những năm
tiếp theo.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu về vấn
đề tuyển dụng công chức, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
thông thường của khoa học xã hội và luật học như:
-Phương pháp lịch sử: Tìm hiểu những quy định pháp luật về tuyển
dụng trong lịch sử thế giới và Việt Nam để nắm rõ về sự hình thành và quy
luật phát triển của việc tuyển dụng công chức theo mỗi giai đoạn.

- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn phân tích và tổng kết lại
những kết quả của các công trình nghiên cứu về tuyển dụng công chức và đưa
ra những nhận xét, đánh giá của bản thân để đưa ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam về việc tuyển dụng công chức.
Nguồn tài liệu nghiên cứu để hoàn thành Luận văn là các văn bản pháp
luật quốc tế và văn bản pháp luật quốc gia liên quan đến việc tuyển dụng công
chức, các báo cáo, nghiên cứu, đánh giá của các cơ quan nhà nước cũng như
của các chuyên gia về pháp luật. Bên cạnh đó, luận văn còn được hoàn thành
trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo một số bài viết về vấn đề này trên các tạp
chí, website trong và ngoài nước.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Về mặt lý luận đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về tuyển
dụng công chức ở Việt Nam hiện nay; góp phần đưa ý kiến, quan điểm chung
nhằm nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức của Tỉnh Hưng Yên.
Về mặt thực tiễn, đề tài góp phần tổng hợp tạo hệ thống biện pháp có
tính khả thi, có cơ sở khoa học nhằm nâng cao công tác tuyển dụng trên địa
bàn tỉnh Hưng Yên.


6

7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục chữ viết tắt, Danh mục tài
liệu tham khảo, luận văn bao gồm có 03 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận về tuyển dụng công chức.
Chương II: Thực trạng pháp luật về tuyển dụng công chức và thực tiễn
tuyển dụng công chức trên địa bàn tỉnh Hưng Yên.
Chương III: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động
tuyển dụng công chức.



7

CHƢƠNG I:
PHÁP LUẬT VỀ TUYỂN DỤNG CÔNG CHỨC

1.1. Khái niệm công chức
Công chức và công vụ có lịch sử khá lâu dài. Với tư cách là những
người làm việc cho nhà nước, đội ngũ công chức manh nha hình thành từ thời
kỳ phong kiến tại Trung Quốc, nó bắt đầu bằng các học thuyết về tổ chức nhà
nước và nền Nho giáo của Khổng Tử và được áp dụng chặt chẽ hơn, nâng lên
thành thiết chế dưới thời của Hán Vũ Đế thuộc triều Hán vào khoảng thế kỷ
thứ III Công nguyên (206- 220 CN). Thời này với học thuyết Nho giáo thịnh
hành, tổ chức chính quyền của Trung Hoa phong kiến đã chia thành 06 bộ
(Lục bộ) như Bộ binh, Bộ hình, Bộ lại, Bộ lễ, Bộ công, Bộ hộ và mô hình này
ảnh hưởng đến nhiều nước như Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản. Đến thế kỷ
thứ XVI thì hệ thống công chức bắt đầu hình thành và phát triển ở châu
Âu phong kiến 1.
Trong thời kỳ phong kiến, nhà nước luôn được tổ chức theo hình thức
chỉnh thể quân chủ chuyên chế, toàn bộ quyền lực nhà nước đều thuộc về nhà
vua. Tuy nhiên nhà vua không thể tự mình triển khai và thực hiện toàn bộ
quyền lực nhà nước và phải dựa vào hệ thống các quan lại. Với cương vị điều
hành trong các cơ quan nhà nước, quan giữ vai trò tư vấn, giúp việc cho nhà
vua trong việc xây dựng các chính sách và ban hành pháp luật đồng thời triển
khai thực hiện quyền lực nhà nước. Lại là người thừa hành mệnh lệnh của
quan, đóng vai trò trung gian giữa quan và dân. Nhiệm vụ của lại bao gồm
giúp quan soạn thảo, giao nhận, lưu chuyển công văn sổ sách; triển khai các

1


/>

8

chính sách của nhà nước tới chức dịch làng xã, đốc thúc chức dịch làng xã
thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Với các vai trò trên, quan và lại kết thành
khối thống nhất giúp vua quản lí đất nước, giữ vị trí bản lề bộ máy nhà nước.
Thời bấy giờ, những người giữ chức vụ trong các cơ quan nhà nước, có
nhiệm vụ và quyền hạn khi tham gia hoạt động quản lí nhà nước và hoạt động
chuyên môn dưới thời kì phong kiến ở Việt Nam được gọi là quan và lại. Sau
này, trong các nhà nước hiện đại được gọi là công chức. Tuy nhiên thuật ngữ
công chức chính thức được ra đời tại nước Anh từ thế kỷ XIX (năm 1847)2.
Trong lịch sử ra đời và phát triển của nền công vụ, có thể thấy bất cứ
Nhà nước nào đều cần xây dựng và quản lý một đội ngũ công chức bao gồm
những người có năng lực quản lý, có trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo
đức tốt, làm việc nghiêm túc vì bổn phận của mình trước nhân dân. Thực tế đã
chứng minh, một quốc gia phát triển sẽ có đội ngũ công chức hành chính nhà
nước lớn mạnh. Tuy nhiên mỗi nước đều xây dựng cho mình những khái
niệm công chức riêng phù hợp với quan niệm về hoạt động công vụ, chế độ
chính trị, văn hóa và lịch sử phát triển của họ.
Tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Ở Hoa Kỳ, công chức Mỹ bao gồm những người được bổ nhiệm vào
các ngành hành pháp, lập pháp và tư pháp trong chính phủ Mỹ. Trừ một số vị
trí cao cấp như người đứng đầu các cơ quan ngoại giao, các vị trí lãnh đạo
hành pháp, thì được bổ nhiệm theo con đường chính trị, còn lại việc bổ nhiệm
các công chức liên bang được thực hiện dựa theo thành tích và thông qua thi
tuyển3. Đội ngũ này bao gồm những người được bổ nhiệm về chính trị như:
Bộ trưởng, Thứ trưởng và các quan chức khác trong ngành hành chính. Các

2


/>Nguyễn Phương Anh (2013), Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.19.
3


9

thượng nghị sỹ, Hạ nghị sỹ trong ngành lập pháp, các viên chức làm thuê cho
quốc hội, quan tòa trong ngành tư pháp không đặt vào hàng công chức.
Tại Nhật Bản
Công chức ở Nhật Bản bao gồm cả công chức nhà nước nhà nước và
công chức địa phương, có nghĩa người ta coi cả những người làm việc trong
các cơ quan chính quyền tự quản địa phương cũng là công chức. Công chức
nhà nước bao gồm các nhân viên trong bộ máy các bộ của Chính phủ trung
ương, ngành Tư pháp, Quốc hội, quân đội, nhà trường, bệnh viện quốc lập, xí
nghiệp và sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương của kho bạc nhà nước.
Công chức địa phương là những nhân viên đang công tác và lĩnh lương từ tài
chính địa phương. Công chức nhà nước lại được chia thành công chức đặc
biệt và công chức chung. Công chức đặc biệt được bổ nhiềm mà không cần
qua thi cứ, như Thủ tướng nội các, Quốc vụ đại thần...Pháp luật quy định
mưới tám loại nhân viên thuộc công chức đặc biệt. Công chức chung là những
người không phải qua thi cử hoặc đánh giá năng lực để quản lý. Hầu như mọi
người dân Nhật Bản đều thừa nhận rằng công chức nhà nước của Nhật là
những người rất ưu tú. Tư chất và năng lực này được quyết định bằng sự đào
tạo liên tục sau khi được tuyển dụng. Nhật Bản thực hiện rất nghiêm túc chế
độ cấp bậc4.
Tại Pháp
Nền công vụ truyền thống Pháp quy định về công chức khá rõ ràng.
Điều 2 Chương II Quy chế chung về công chức Nhà nước của Pháp năm 1994

xác định: "Công chức là người được bổ nhiệm vào một công việc thường
xuyên với thời gian làm việc trọn vẹn và được biên chế vào một ngạch trong

4

/>
hanh-chinh-nha-nuoc-tai-mot-so-quoc-gia-tren-the-gioi.


10

thứ bậc của các cơ quan hành chính Nhà nước, các cơ quan ngoại biên hoặc
các công sở Nhà nước" . Trong những năm gần đây, một khái niệm khác được
thừa nhận là: "Công chức bao gồm toàn bộ những người được Nhà nước hoặc
cộng đồng lãnh thổ (công xã, tỉnh, vùng) bổ nhiệm vào làm việc thường xuyên
trong một công sở hay công sở tự quản, kể cả các bệnh viện và được biên chế
vào một ngạch của nền hành chính công". Theo cách hiểu này, công chức
Pháp gồm 3 loại: Công chức hành chính Nhà nước, công chức trực thuộc
cộng đồng lãnh thổ và công chức trực thuộc các công sở tự quản. Chế độ
tuyển chọn công chức của Pháp cũng dựa trên nguyên tắc bình đẳng, không
phân biệt giới tính, thành phần xuất thân, khuynh hướng chính trị, tôn giáo,
văn hoá. Nguyên tắc tuyển chọn loại ưu qua thi cử, tiến hành công khai, với
hình thức thi viết và thi vấn đáp5.
Một số nước khác như Anh, Thái Lan, Singgapo...
Công chức là những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong
bộ máy hành chính của các bộ thuộc Chính phủ. Như vậy, những đối tượng
khác tuy làm việc ở bộ nhưng không trực tiếp làm công tác chuyên môn
nghiệp vụ theo chức năng quản lý của bộ thì không phải công chức và cũng
theo quan niệm về công chức như vậy thì người làm việc trong bộ máy của
chính quyền địa phương cũng không phải là công chức6.

Theo quan niệm của Nga, Trung Quốc, Ba Lan, Hunggari...
Không chỉ là những người thực hiện các hoạt động chuyên môn nghiệp
vụ quản lý trong bộ máy hành chính của các bộ (trung ương) mà còn bao gồm
cả những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ quản lý trong bộ máy
hành chính thuộc quyền của các địa phương.

5

/>Nguyễn Phương Anh (2013), Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, tr.19.
6


11

Tại Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha...
Phạm vi công chức bao gồm cả những người thực thi công vụ tại các tổ
chức cung ứng dịch vụ công hoặc cả ngành lập pháp, tư pháp.
Như vậy, nghiên cứu về chế độ công chức của một số quốc gia trên thế
giới có thể thấy tùy điều kiện lịch sử, truyền thống pháp lý, quan điểm chính
trị mà mỗi quốc gia có những quan niệm khác nhau về công chức. Câu hỏi là
công chức trong số những người làm việc tại cơ quan trong bộ máy nhà nước
vẫn chưa có câu trả lời chung. Quan niệm về công chức gắn với yếu tố chính
trị và đời sống chính trị xã hội có tính quyết định đến chế độ công vụ và quan
niệm về công chức.
Quan niệm về công chức ở Việt Nam.
So sánh các quan niệm về công chức của các nước và nước ta thì thấy
quan niệm về công chức của ta tổng hợp hơn theo đó phạm vi công chức rộng
hơn bao gồm cả công chức làm chuyên môn nghiệp vụ, công chức trung
ương, công chức địa phương, công chức lãnh đạo trong các đơn vị sự nghiệp

công và công chức cấp xã. Sự khác biệt căn bản trong quan niệm từ đó đi đến
khác nhau về phạm vi công chức của các nước so với nước ta còn thể hiện ở
chỗ các nước không coi những người làm việc trong tổ chức xã hội là công
chức và theo đó không thuộc đối tượng điều chính của luật về công chức.
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, nxb Đà Nẵng năm 2000,
công chức được hiểu là: “người được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công
vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà
nước cấp”7. Theo cuốn “Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức hiện nay”, nxb Chính trị quốc gia năm 2001 của tác giả Tô Tử Hạ, công
chức được hiểu là: người làm việc trong cơ quan nhà nước. Đây là một quan

7

Hoàng Phê, 2000, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr207.


12

niệm hết sức đơn giản về công công chức. Theo quan niệm này, công chức
chỉ được phân biệt với người lao động hưởng lương theo sản phẩm (công
nhân) và phân biệt với người làm việc trong tổ chức không nằm trong bộ máy
nhà nước8.
Trong cuốn “Nền công vụ công chức” – Viện khoa học pháp lý – Bộ
Tư pháp – 1992 cho rằng công chức là những người làm việc chuyên môn có
tính chất lâu dài và ổn định trong bộ máy nhà nước. Quan niệm này về công
chức xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 1990. Việc tách biệt công chức là
những người hoạt động có tính chất chuyên môn với những người hoạt động
mang tính chính trị là điểm nhấn mạnh của quan niệm này. Khái niệm này
được sử dụng phù hợp với quan điểm của Pháp và các nước lục địa Châu Âu.
GS.TS.Phạm Hồng Thái – Tác giả cuốn “Công vụ công chức nhà

nước”, nxb Tư pháp 2004, có nêu quan niệm: công chức là người đại diện cho
nhà nước để thực thi quyền hành pháp. Quan niệm này thường được thể hiện
trong pháp luật của các quốc gia có bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt
động theo nguyên tắc phân quyền. Đội ngũ công chức chỉ là những người
trong hệ thống cơ quan hành pháp, sẽ gia tăng tính độc lập tương đối trong
hoạt động giữa các ngành lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo quan niệm
này, công chức gắn liền với hoạt động hành pháp, chỉ những người hoạt động
trong nền hành chính, nhân danh Chính phủ mới là công chức, thẩm phán và
các nghị sĩ không phải là công chức.
Như vậy có nhiều quan niệm khác nhau về công chức. Điều này cho
thấy tùy vào độ tiếp cận và từng thời điểm mà các tác giả đưa ra cách hiểu về
công chức khác nhau.

8

Tôn Tử Hạ, 2001,“Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay”, Nxb Chính trị quốc
gia, tr.58.


13

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, khái niệm công chức được quy
định lần đầu tiên tại Điều 1 Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 “Những công dân
Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên
trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngoài nước đều là công chức, trừ
những trường hợp riêng biệt cho Chính phủ quy định”. Với khái niệm này,
phạm vi công chức còn hẹp, không bao gồm những người làm việc trong đơn
vị sự nghiệp, các cơ quan nhà nước như Tòa án, Viện kiểm sát... và từ năm
1954 trở đi sắc lệnh số 76/SL hầu như không được áp dụng. Ngày
25/05/1991, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 169/HĐBT về

công chức nhà nước rộng hơn sắc lệnh 76/SL, bao gồm không chỉ những
người được tuyển dụng hay bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong
các cơ quan hành chính của Chính phủ mà cả ở các cơ quan khác của nhà
nước. Tuy nhiên khái niệm này cũng không bao hàm hết phạm vi công chức.
Do đó, ngày 26/02/1998, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành pháp lệnh
cán bộ, công chức và được sửa đổi 2 lần vào năm 2000 & 2003, theo đó, công
chức bao gồm: những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao
nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; những người được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một công vụ thường
xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; thẩm
pháp tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân; những người được tuyển dụng,
bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan,
đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công dân quốc phòng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; những người
được tuyển dụng giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc ủy ban
nhân dân cấp xã.


14

Pháp lệnh cán bộ công chức chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa cán bộ
và công chức. Điều này đã được khắc phục tại Luật cán bộ, công chức 2008.
Theo Luật cán bộ, công chức 2008: “Công chức là công dân Việt Nam,
được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan

chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau
đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.”. Ngoài ra, khoản 3 điều 4 Luật
Cán bộ công chức còn có công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển
dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã,
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Từ nội dung theo quy định của Luật cán bộ,công chức và nội dung nghị
định 06/2010/NĐ-CP quy định những người là công chức, theo tác giả có thể
đưa ra khái niệm chung về công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn
phòng Quốc hội, Kiểm toán Nhà nước; trong các bộ, cơ quan ngang bộ và các
tổ chức Khác do Chính phủ, Thủ tướng chính phủ thành lập; cơ quan hành
chính các cấp ở trung ương, địa phương; trong hệ thống Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Khái niệm công chức theo quy định của Luật không chỉ bao gồm những
người đang phục vụ trong các cơ quan nhà nước, đơn vị của Nhà nước mà


15

khái quát lực lượng lao động trong hệ thống chính trị. Điều này phù hợp với
hoàn cảnh, điều kiện của Việt Nam là sự ra đời của Nhà nước sau Cách mạng
Tháng tám và Quốc khánh 2/9 là kết quả của cuộc đấu tranh cách mạng do
các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội lãnh đạo. Tuy nhiên, trong phạm vi
Luận văn này, tác giả sẽ chỉ bàn về công chức trong cơ quan nhà nước.
1.2. Tuyển dụng công chức

1.2.1. Khái niệm về tuyển dụng công chức
Tuyển có nghĩa là lựa chọn người đáp ứng tốt nhất các tiêu chuẩn và
điều kiện đặt ra; dụng là sử dụng. Tuyển dụng có nghĩa chung là chọn người
thích hợp vào để sử dụng trong một tổ chức. Tuyển dụng là quy trình sàng lọc
và tuyển chọn những người có đủ năng lực và các tiêu chuẩn đề ra để đáp ứng
một công việc trong một tổ chức, công ty, hoặc một chương trình tự nguyện
hay nhóm cộng đồng. Tuyển dụng, bổ sung người mới cho tổ chức là một
trong những họat động không thể thiếu của bất kì cơ quan, tổ chức nào. Hoạt
động này nhằm mục tiêu đáp ứng nhu cầu nhân sự của cơ quan, tổ chức (bao
gồm cả việc xây dựng, duy trì và mở rộng nhân sự), phục vụ cho quá trình
phát triển của tổ chức. Nói theo cách chung nhất, tuyển dụng (còn được goi là
tuyển chọn, tuyển mộ,…) là việc đưa người mới thích hợp vào làm việc trong
một cơ quan, tổ chức.
Tuyển dụng công chức là hoạt động tuyển chọn, bổ sung nguồn nhân lực
mới cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các đơn vị khác.
Có thể thấy, tuyển dụng công chức một khâu quan trọng có tính chất quyết định
chất lượng đội ngũ công chức trong thực thi công vụ. Vì vậy, làm thế nào để
thông qua tuyển dụng thu hút những người đủ năng lực và phẩm chất vào làm
việc trong các cơ quan nhà nước luôn là một vấn đề được quan tâm.
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 24/2010/NĐCP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản


16

lý công chức, căn cứ để tuyển dụng công chức là yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc
làm và chỉ tiêu biên chế của cơ quan sử dụng công chức. Các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền tuyển dụng công chức được quy định tại Điều 3 Thông
tư 13/2010/TT-BNV ngày 30/12/2010 như: Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán Nhà nước; Văn phòng Quốc hội, Văn
phòng Chủ tịch nước; Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Tổ

chức do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thành lập mà không phải là đơn vị
sự nghiệp công lập; Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
Cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức chính trị - xã
hội; Tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương và một số cơ quan, tổ chức, đơn
vị khác được phân cấp thẩm quyền tuyển dụng công chức.
Người đăng ký dự tuyển công chức là người có nhu cầu được làm việc
trong các cơ quan nhà nước và phải đáp ứng các điều kiện: có một quốc tịch
là quốc tịch Việt Nam; đủ 18 tuổi trở lên; có đơn dự tuyển; có lý lịch rõ ràng;
có văn bẳng, chứng chỉ phù hợp, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; đủ sức
khỏe để thực hiện nhiệm vụ; đáp ứng các điều kiện khác theo yêu cầu dự
tuyển (các điều kiện của vị trí việc làm cụ thể).
Ngoài ra, tất cả công dân Việt Nam đủ điều kiện đều có cơ hội như
nhau tham gia dự tuyển công chức, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành
phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Bên cạnh đó, Luật còn quy định những
trường hợp không được đăng ký dự tuyển (không thường trú tại Việt Nam,
mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, đang bị truy cứu trách nhịêm hình
sự, bị kết án mà chưa được xoá án tích...).
Cơ quan sử dụng công chức có trách nhiệm xác định, mô tả vị trí việc
làm, báo cáo cơ quan quản lý công chức phê duyệt để làm căn cứ tuyển dụng
công chức. Hàng năm, cơ quan sử dụng công chức xây dựng kế hoạch tuyển
dụng công chức, báo cáo cơ quan quản lý công chức để phê duyệt và tổ chức
tuyển dụng công chức.


17

Việc tuyển dụng công chức được thực hiện thông qua thi tuyển, xét
tuyển hoặc tiếp nhận đối với một số trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng
công chức, tùy theo mục tiêu và đối tượng cũng như công việc cần tuyển.
Như vậy, tuyển dụng công chức là việc lựa chọn và chấp nhận một

người tự nguyện gia nhập hệ thống công vụ sau khi đã xác nhận người đó có đủ
tiêu chuẩn và điều kiện theo quy định của pháp luật để bổ nhiệm vào một
ngạch công chức theo tiêu chuẩn chuyên môn nhất định của vị trí công việc cần
tuyển. Tuyển dụng công chức là để giao giữ một chức trách nhất định hay để
bổ nhiệm vào một ngạch công chức nào đó, để thi hành nhiệm vụ được Nhà
nước trao cho công chức, do vậy việc tuyển dụng công chức phải cẩn trọng.
1.2.2. Vai trò của tuyển dụng công chức
Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên để có được một đội ngũ công
chức vững mạnh. Chính vì vậy, việc tuyển dụng công chức giữ một vai trò to
lớn được thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, tuyển dụng công chức là cơ sở hình thành và duy trì nguồn
nhân lực của bộ máy nhà nước.
Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên trong quá trình thực hiện có
hiệu quả các hoạt động tuyển dụng, quản lý, sử dụng công chức…và cũng là
một điều kiện để phát triển văn hoá của các cơ quan nhà nước, các tổ chức,
đơn vị ngày càng lành mạnh. Tuyển dụng công chức là yếu tố quan trọng hình
thành cơ quan nhà nước. Nói cách khác, có nhân tố con người, đầy đủ cả về
số lượng và chất lượng thì một đơn vị sự nghiệp mới hình thành và phát triển.
Đội ngũ công chức là nguồn nhân lực quan trọng có vai trò quyết định
trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, giữ một vị trí
quan trọng trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước. Trong quá trình
hoạt động theo thể chế đã được ban hành, đội ngũ công chức một mặt làm cho
bộ máy quản lý nhà nước phát huy vai trò của nó trong việc quản lý mọi mặt


18

đời sống kinh tế - văn hóa – chính trị - xã hội. Mặt khác, luôn phát hiện những
khuyết điểm và các sơ hở của hệ thống thể chế và cơ cấu tổ chức ngày càng
phù hợp với thực tế, tạo điểu kiện và môi trường để quản lý đất nước một tốt

hơn. Chính vì vậy, công tác tuyển dụng nhân sự được thực hiện tốt là bước
đầu cho quá trình thực hiện có hiệu quả của công tác tuyển dụng, quản lý, sử
dụng công chức…và cũng là một điều kiện để phát triển bộ máy nhà nước
ngày càng vững mạnh.
Thứ hai, công tác tuyển dụng công chức giúp công chức có vị trí việc
làm phù hợp với khả năng.
Trong điều kiện xã hội như hiện nay, các ngành nghề đào tạo tại các cơ
sở đào tạo đa dạng, số lượng sinh viên ra trường đăng ký thi tuyển công chức
tại các vị trí việc làm không đồng đều. Tuy nhiên, căn cứ vào bản nhu cầu
công việc, vị trí việc làm, tiêu chuẩn chức danh, người dự tuyển hoàn toàn
biết được ngành đào tạo của mình học có đáp ứng điều kiện, tiêu chuẩn tuyển
dụng hay không. Trên cơ sở đó, người dự tuyển định hướng nghề nghiệp phù
hợp với khả năng của mình, biết được sau khi được tuyển dụng mình sẽ đảm
nhiệm vị trí công việc nào trong đơn vị.
Tuyển dụng đúng người, đúng việc là yếu tố tạo tâm lý thoải mái cho
người dự tuyển, phần nào giúp người dân tin tưởng vào Nhà nước. Qua quá
trình tuyển dụng công chức, ứng viên dự tuyển được bố trí làm đúng với công
việc mình yêu thích, đúng khả năng là động lực lớn khích lệ tinh thần làm
việc hăng say, tận tâm, tận tụy với công việc, là yếu tố mang lại sự thành công
cho bộ máy nhà nước.
1.2.3. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật công chức và
tuyển dụng công chức
Trong hoạt động của nền hành chính, vấn đề xây dựng đội ngũ công
chức luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu. Công tác tuyển dụng là bước đầu tiên


19

để tuyển chọn được đội ngũ công chức có chất lượng cao. Tuyển dụng công
chức là để giao giữ một chức trách nhất định hay để bổ nhiệm vào một ngạch

công chức nào đó, để thi hành nhiệm vụ được Nhà nước trao. Hiện nay,
những quy định về tuyển dụng công chức theo pháp luật hiện hành dựa trên
các nội dung về: Căn cứ, điều kiện, thẩm quyền tuyển dụng công chức; về thi
tuyển công chức; về trình tự, thủ tục tuyển dụng công chức, về tập sự.
Theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 24/2010/NĐCP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản
lý công chức, căn cứ để tuyển dụng công chức là yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc
làm và chỉ tiêu biên chế của cơ quan sử dụng công chức. Hàng năm, cơ quan
sử dụng công chức xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức, báo cáo cơ
quan quản lý công chức để phê duyệt và tổ chức tuyển dụng công chức. Việc
tuyển dụng công chức được thực hiện thông qua thi tuyển, xét tuyển hoặc tiếp
nhận đối với một số trường hợp đặc biệt trong tuyển dụng công chức, tùy theo
mục tiêu và đối tượng cũng như công việc cần tuyển.
Bằng việc đặt ra các quy tắc mang tính khuôn mẫu, pháp luật xác định
trước cho các chủ thể trong quan hệ tuyển dụng công chức phải có những ứng
xử tương ứng với những tình huống xảy ra theo ý chí của Nhà nước với
những quyền và nghĩa vụ pháp lý theo điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Có thể hiểu pháp luật về tuyển dụng công chức là tổng thể các quy
phạm pháp luật do cơ quan, cá nhân có thẩm quyền của Nhà nước ban hành
và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa Nhà nước với
đội ngũ công chức tương lai trong quá trình tuyển dụng công chức.
Ở nước ta khái niệm về công chức qua các thời kỳ có các cách hiểu
không đồng nhất với nhau. Khái niệm về công chức ở nước ta gắn với quá
trình lịch sử của dân tộc, điều kiện kinh tế - xã hội, cách thức tổ chức bộ máy
của nhà nước.... Trong các văn bản pháp luật của Nhà nước khái niệm về công


20

chức qua các thời kỳ có những quy định khác nhau. Song song với đó, pháp
luật về tuyển dụng công chức cũng có những biến chuyển qua từng thời kỳ.

Trước Hiến pháp năm 1946, trong Sắc lệnh số 54/SL ngày 03 tháng 11
năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, đã sử dụng thuật ngữ “công chức”. Đến năm 1948 tại Sắc lệnh số
188/SL ngày 29 tháng 5 năm 1948 của Chủ tịch Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa quy định về thang lương công chức, ngạch công chức
thuật ngữ “công chức” tiếp tục được sử dụng. Hai văn bản này có đề cập tới
những quy định về công chức như: chế độ nghỉ hưu, chế độ lương, ngạch
công chức... Tuy nhiên, chưa đưa ra khái niệm về “công chức”. Ngay sau khi
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (Hiến pháp năm 1946) ban hành là cơ sở
pháp lý để xây dựng chế định pháp lý cụ thể về cán bộ, công chức. Tuy nhiên,
Hiến pháp năm 1946 chưa sử dụng thuật ngữ “cán bộ, công chức”, mà sử
dụng thuật ngữ “nhân viên”. Tại thời điểm này, chưa có một quy định cụ thể
nào về khái niệm “công chức” cũng như quy định về thẩm quyền, hình thức,
nội dung...về tuyển dụng công chức.
Trong giai đoạn từ năm 1945 – 1960, lần đầu tiên văn bản pháp luật
của Nhà nước đưa ra khái niệm về công chức là năm 1950 trong Sắc lệnh số
76/SL ngày 20 tháng 5 năm 1950 của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà: “Những công dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ
một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan của Chính phủ, ở trong hay
ngoài nước, đều là công chức” ( Điều 1). Theo Sắc lệnh 76, công chức được
giới hạn trong một phạm vi rất hẹp chỉ những người làm việc trong Chính phủ
(cấp Trung ương) được coi là công chức. Ngoài ra, sắc lệnh 76 đã dành 1
chương quy định về tuyển dụng công chức. Đây là một văn bản pháp luật về
công chức mang tính khoa học, dân chủ, có hiệu lực cao và nội dung hoàn


×