Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoàn thiện pháp luật về thừa phát lại ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NINH KHÁNH LY

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60380101

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2017
Tác giả luận văn

Ninh Khánh Ly



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỪA PHÁT LẠI ..................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm Thừa phát lại .................................................................................. 8
1.2. Pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam ........................................................ 14
1.2.1. Khái niệm pháp luật về Thừa phát lại ................................................... 14
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về Thừa phát lại ............................................. 16
1.2.3. Nội dung pháp luật về Thừa phát lại .................................................... 17
1.3. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về TPL ..................... 18
1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại
ở Việt Nam ............................................................................................................... 23
1.4.1. Sức ép của quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế .......... 23
1.4.2. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước........................................... 24
1.4.3. Nhận thức về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay .................................. 28
Kết luận Chƣơng 1 .................................................................................................. 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI
PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY ............................................................................................................... 31
2.1. Thực trạng pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay .................... 31
2.1.1. Hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến Thừa phát lại ................ 31
2.1.2. Thực trạng các quy định của pháp luật về Thừa phát lại ........................ 33


2.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt đƣợc và tồn tại, hạn chế của

pháp luật về Thừa phát lại ..................................................................................... 63
2.2.1. Nguyên nhân của những kết quả đạt được của pháp luật về Thừa phát lại ..... 63
2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế của pháp luật về Thừa phát lại........ 64
2.3. Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ............. 66
2.3.1. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ........................... 66
2.3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại .................................. 68
Kết luận chƣơng 2 ................................................................................................... 79
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

THADS

Thi hành án dân sự

TPL

Thừa phát lại

Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP

Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP
ngày 25/11/2013 của Bộ Tư pháp hợp
nhất Nghị định tổ chức và hoạt động của
Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại một
số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

VP TPL


Văn phòng Thừa phát lại

XMĐKTHADS

Xác minh điều kiện thi hành án dân sự


1

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Xã hội hóa dịch vụ công trong đó có xã hội hóa một số hoạt động tư
pháp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay
nhằm đáp ứng được nhu cầu khách quan của đời sống xã hội, Nhà nước
không trực tiếp thực hiện hết mọi công việc mà giao cho xã hội thực hiện và
Nhà nước chỉ giữ vai trò quản lý chung. Xã hội hóa một số hoạt động tư pháp
nhằm mục đích phục vụ tốt hơn nữa nhu cầu của nhân dân và đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho họ trong lĩnh vực này, do vậy, tại Nghị quyết Đại hội
lần thứ IX của Đảng chỉ rõ: “Cải cách hệ thống Tư pháp. Nâng cao việc giám
sát của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước...Hỗ trợ và khuyến khích các
tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì nhu cầu và lợi ích của
dân. Những tổ chức này có thể được Nhà nước ủy quyền thực hiện một số
nhiệm vụ cung cấp một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng. Thông
qua đó Nhà nước có thể tập trung sức lực để có thể thực hiện những nhiệm vụ
quan trọng hơn”.
Thi hành án nói chung, thi hành án dân sự nói riêng là một trong những
hoạt động quan trọng nhằm khôi phục, bảo vệ các quan hệ xã hội bị xâm hại.
Việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án là yếu tố quan trọng nhất của
hoạt động thực hiện và áp dụng pháp luật. Nếu bản án, quyết định của Tòa án

không được thi hành đồng nghĩa với việc pháp luật mà bản án, quyết định căn
cứ không có ý nghĩa trên thực tế.
Do vậy, thi hành dứt điểm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay trên thực tế có
một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với
người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan; bảo đảm tính pháp chế của các bản án, quyết định; bảo đảm trật tự,


2

an toàn xã hội. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bản
án, quyết định của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan,
tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành”.
Trong những năm qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương,
chính sách và pháp luật, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thi
hành án dân sự; các cơ quan quản lý thi hành án dân sự, Cơ quan Thi hành án
dân sự và cán bộ, công chức ngành thi hành án đã nỗ lực phấn đấu để nâng
cao kết quả và hiệu quả của công tác thi hành án dân sự. Tuy nhiên, lượng án
tồn đọng trong công tác THADS cũng như số lượng công việc của Tòa án
cũng không ngừng tăng lên khiến cho việc tống đạt giấy tờ trở nên quá tải,
làm ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, gây bức
xúc trong xã hội, làm ảnh hưởng tới tính nghiêm minh của pháp luật; uy tín,
hiệu lực quản lý xã hội của các cơ quan nhà nước giảm sút, đồng thời dẫn tới
tình trạng khiếu nại kéo dài. Do đời sống xã hội ngày càng được nâng lên, dân
trí tăng cao cùng với nền kinh tế thị trường, quá trình hội nhập kinh tế, quốc
tế, nhu cầu pháp lý từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội, đặc biệt
là nhu cầu tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, ngăn ngừa vi phạm
hoặc thiệt hại có thể xảy ra cho mình hoặc cho cộng đồng cũng tăng lên.

Ngày 19/02/2009 Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 224/QĐTTg phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại thành
phố Hồ Chí Minh”. Theo Quyết định này, việc thực hiện đề án là nhằm xác
định sự cần thiết và tính hiệu quả của Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp
nói chung và THADS nói riêng, xác định khả năng áp dụng mô hình này trên
toàn quốc, thực hiện chủ chương của Đảng và Nhà nước về xã hội hóa một số
hoạt động hành chính, tư pháp. Sau thời gian nghiên cứu nhu cầu xã hội như
hoạt động của cơ quan Tòa án, Cơ quan Thi hành án dân sự, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ chức và hoạt


3

động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm
từng bước đưa hoạt động Thừa phát lại vào đời sống xã hội, Nghị định
135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung tên gọi và
một số điều của Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 và nhiều văn bản
pháp luật trực tiếp hướng dẫn thực hiện chế định TPL. Sự ra đời của Thừa
phát lại có thể chính là giải pháp hữu hiệu giải quyết sự quá tải trong công tác
THADS và hoạt động của Tòa án, làm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà
nước, cũng như đáp ứng được nhu cầu khách quan của nhân dân.
Pháp luật về TPL là một công cụ hữu hiệu để quản lý tổ chức, hoạt động
TPL. Trong thời gian qua, pháp luật về TPL ở nước ta đang từng bước được
xây dựng và hoàn thiện góp phần quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp
ở Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, công cuộc cải cách tư pháp là yêu cầu tất yếu
trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng đất nước phát triển bền
vững thì việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại là hết
sức cần thiết.
Nhận thức được tính cần thiết của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về Thừa phát lại ở nước ta hiện nay, tác giả mạnh dạn chọn đề tài

“Hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu các vấn đề có liên quan đếnđề tài
Tuy Thừa phát lại đã từng tồn tại ở Việt Nam từ trước năm 1975, nhưng
đã một thời gian dài mô hình này không được áp dụng nữa, vì vậy việc nghiên
cứu pháp luật về Thừa phát lại là rất cần thiết và được sự quan tâm ủng hộ của
Đảng, Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, cho tới nay, có rất ít công trình nghiên
cứu riêng biệt, có hệ thống pháp luật về Thừa phát lại. Một số công trình
nghiên cứu có liên quan tới nội dung của luận văn như:


4

- Đề tài cấp Bộ: Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp và Sở
Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh (1996), Những cơ sở lý luận và thực tiễn về
chế định Thừa phát lại, mã số 95-98-114/ĐT. Đề tài đã đưa ra một số mô hình
thi hành án của một số nước trên thế giới và đề xuất một số mô hình Thừa
phát lại ở Việt Nam để thảo luận.
- Luận văn thạc sĩ, gồm có:
+ Xã hội hóa thi hành án dân sự, tác giả Lê Xuân Hồng (2001), luận văn
thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận văn tác giả đã làm sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng mang giá trị lý luận cao như: Khái niệm về xã hội
hóa, xã hội hóa THADS; nội dung của xã hội hóa; đề xuất mô hình Thừa phát
lại trong xã hội hóa THADS...
+ Thừa phát lại – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện
nay, tác giả Nguyễn Minh Thùy (2011), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học
Luật Hà Nội. Trong luận văn tác giả tập trung nghiên cứu quy định của pháp
luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của của Thừa phát lại ở Việt Nam,
đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại và hạn
chế trong pháp luật, tổ chức hoạt động của Thừa phát lại, từ đó để xuất những

giải pháp góp phần hoàn thiện về pháp luật và nâng cao hiệu quả trong tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay.
+ Thừa phát lại – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, tác giả Nguyễn
Anh Thư (2014), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận
văn tác giả tập trung nghiên cứu hoạt động TPL, tức là công việc mà TPL
thực hiện và các cơ chế để bảo đảm cho hoạt động có hiệu quả của TPL, luận
văn phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về TPL và đưa ra những kết quả
đạt được đồng thời chỉ ra những mặt tồn tại trong giai đoạn thí điểm, từ đó
đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.


5

+ Xã hội hóa thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, tác giả Tạ Quỳnh
Anh (2015), luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội. Trong luận văn
tác giả tập trung nghiên cứu về khái niệm, nội dung và mục đích của xã hội
hóa THADS; các quy định của pháp luật về thực hiện xã hội hóa THADS và
kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động này.
- Khóa luận tốt nghiệp: Phạm Hùng Cường (2010), Mô hình Thừa phát
lại tại thành phố Hồ Chí Minh – Bước đột phá trong việc thực hiện xã hội hóa
thi hành án dân sự ở Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà
Nội. Trong khóa luận tác giả nghiên cứu mô hình Thừa phát lại được thực
hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh (TP. HCM) trong tiến trình xã hội
hóa THADS ở Việt Nam; khóa luận đưa ra khái niệm về xã hội hóa THADS;
quan điểm đánh giá quy định của pháp luật về TPL được thực hiện thí điểm
tại TP. HCM; các vấn đề còn tồn tại cần phải khắc phục cũng như kiến nghị
giải pháp hoàn thiện.
Ngoài ra có sách tham khảo:
TS. Nguyễn Đức Chính (Chủ biên, 2006), Tổ chức Thừa phát lại, Nxb
Tư Pháp. Cuốn sách giới thiệu một cách tương đối toàn diện, có hệ thống về

sự xuất hiện, hình thành, phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam, vai trò của
Thừa phát lại trong hoạt động tư pháp trước đây; lý giải vì sao hiện nay cần
phải có Thừa phát lại; thành lập tổ chức Thừa phát lại sẽ có những lợi ích gì;
mối quan hệ giữa Thừa phát lại với các chức danh tư pháp hiện tại; các nhiệm
vụ, quyền hạn, trách nhiệm cụ thể, mô hình tổ chức Thừa phát lại; các giải
pháp, điều kiện, các bước nên thực hiện để TPL hình thành và hoạt động.
Ths.Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở
Việt Nam hiện nay, Nxb Tư Pháp. Cuốn sách đề cập tới quá trình hình thành
và phát triển của Thừa phát lại ở Việt Nam; tổ chức và hoạt động của Thừa
phát lại ở một số quốc gia trên thế giới; Thừa phát lại và Văn phòng Thừa
phát lại ở Việt Nam; các công việc mà Thừa phát lại được làm; một số vấn đề


6

về khiếu nại, tố cáo, kiểm sát hoạt động của Thừa phát lại. Từ đó, có cái nhìn
tổng quát pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam cũng như vai trò của Thừa
phát lại.
Bên cạnh đó còn một số các bài viết trên tạp chí, các bài báo đề cập đến
vấn đề xây dựng mô hình Thừa phát lại.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài cao học Luật, tác giả tập trung
nghiên cứu quy định của pháp luật hiện hành về Thừa phát lại ở Việt Nam
hiện nay, đánh giá những kết quả đạt được, những mặt tồn tại và hạn chế của
pháp luật và trong tổ chức hoạt động của Thừa phát lại, từ đó để xuất những
giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện
nay. Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu pháp luật về Thừa phát lại ở Việt
Nam từ năm 2005 đến nay.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật về Thừa phát lại ở

Việt Nam để tìm ra các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Làm sáng tỏ lý luận về hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại.
Đánh giá quy định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam.Từ đó chỉ ra
những ưu điểm, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực này và nguyên nhân dẫn
đến những hạn chế đó.
Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về Thừa phát
lại ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Các phƣơng pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Đề tài này được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước trong các văn kiện


7

Đại hội Đảng và Nghị quyết các hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng đề
cập đến vấn đề cải cách tư pháp, cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam.
Bên cạnh đó, luận văn được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: lịch sử, tổng hợp, so sánh, phân tích…
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá quy định pháp luật về Thừa phát lại ở
Việt Nam, luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về quy định pháp luật
về tổ chức, hoạt động của Thừa phát lại, những điểm tích cực, hạn chế của
quy định pháp luật về TPL, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy
định pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn mang ý nghĩa tham khảo; các kết luận
và kiến nghị được đưa ra trong luận văn có giá trị tham khảo trong quá trình
hoàn thiện quy định pháp luật Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay; luận văn

còn là tài liệu tham khảo cho công tác giảng dạy nghiên cứu liên quan, cho
các Thừa phát lại và những người quan tâm đến lĩnh vực này.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì luận văn được kết cấu làm
hai chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại
Chương 2. Thực trạng pháp luật, phương hướng và giải pháp hoàn thiện
pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay


8

Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
THỪA PHÁT LẠI
1.1. Khái niệm Thừa phát lại
Thừa phát lại là một nghề xuất hiện trên thế giới hàng trăm năm nay,
TPL được hình thành từ thời trung cổ tại các nước ở châu Âu: Anh, Pháp, Bỉ,
Đức, Hà Lan và các nước châu Mỹ như Canada, Mỹ1. Ngày nay, trên thế giới
có nhiều cách hiểu khác nhau về TPL.
Tại Hoa Kỳ, Thừa phát lại (Bailiffs) được hiểu đó là cán bộ thực thi pháp
luật mà nhiệm vụ được giới hạn trong phạm vi Tòa án. Họ chịu trách nhiệm
chính cho việc duy trì an ninh trật tự trong phòng xử án và hỗ trợ thẩm phán
trong việc tiến hành có trật tự của phiên tòa2.
Tại Anh, Thừa phát lại là người thực hiện các hoạt động pháp lý hỗ trợ
cho Cảnh sát, Thẩm phán tại Tòa án và các cơ quan hành chính địa phương.
Nhiệm vụ của TPL rất đa dạng và khác nhau trong các lĩnh vực như: Xét xử,
cưỡng chế thi hành các bản án, thực hiện các nhiệm vụ tư pháp hoặc tống đạt
các yêu cầu của các công ty thu hồi nợ, đánh thuế và được hiểu như là các
công ty tư nhân thực hiện nhiệm vụ.
Theo đánh giá nói chung, so với các nước trên thế giới, chế định Thừa

phát lại (Huissier) ở Pháp được xây dựng hoàn thiện, hiệu quả hơn cả. Điều 1
Pháp lệnh số 452592 ngày 02/11/1945 quy định thẩm quyền theo nội dung
của TPL và tổ chức nghề TPL có quy định như sau: “Thừa phát lại là người
1

Hà Thị Lan Anh (2012), “Thừa phát lại – vai trò pháp lý và nhu cầu đào tạo phát triển”, Nghề luật, (4),

tr.9-14.
2

Nguyễn Anh Thư (2014), Thừa phát lại – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại

học Luật Hà Nội, tr.5, trích tài liệu: “www.legalcaceers.about.com (Bailiffs are lawenforcement officers who
play an important role in the courtroom. Bailiffs areprimarilyresponsible for maintaining order and security
in the courtroom and assisting the judge in the orderly conduct of trail)”.


9

sở hữu một tước vị, có độc quyền trong việc tống đạt văn bản và văn bản tố
tụng, tiến hành các thủ tục thông báo được pháp luật quy định trong trường
hợp không quy định rõ phương thức thông báo, và thi hành các bản án, quyết
định của tòa án và các văn bản có hiệu lực thi hành khác …”3.
Nhắc tới danh từ “Thừa phát lại” hẳn rất xa lạ với đa số người dân Việt
Nam hiện nay. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của các nhà khoa học và tài liệu
lịch sử hiện có thì TPL xuất hiện ở Việt Nam từ thời phong kiến. Một số học
giả nghiên cứu về lịch sử nhà nước – pháp luật Việt Nam cho rằng ngay từ
giai đoạn đầu khi Nhà nước phong kiến hình thành, việc xét xử chủ yếu vẫn
do các quan lại phụ trách và người giúp việc của quan lại phải thực hiện các
công việc tương tự với công việc chức danh Thừa phát lại hiện này được làm,

chẳng hạn như: Truyền đạt khẩu lệnh, công văn, giấy tờ, chuẩn bị phiên tòa,
thông báo việc thi hành án… Có tài liệu cho rằng, Thừa phát lại xuất hiện ở
Việt Nam song hành với việc Vua Tự Đức ký Hòa ước ngày 05/6/1862
nhượng 6 tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, khi người Pháp đặt chế độ cai trị thực dân
và áp dụng quy chế về thuộc địa lãnh thổ và coi 6 tỉnh Nam kỳ như một Hạt
của Pháp. Chính vì vậy mà có thể nói chế định TPL mới ở giai đoạn manh
nha, bước đầu hình thành ở Việt Nam.
Thuật ngữ Thừa phát lại chỉ được chính thức ghi nhận trong các văn bản
đó là: Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt năm 1910; Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1917
và Bộ Dân sự tố tụng Bắc Kỳ năm 1931; Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1942;
Nghị định số 111 ngày 08/3/1949 của chính quyền Bảo Đại; Bộ luật Dân sự,
Thương sự tố tụng năm 1972 của Việt Nam Cộng Hòa4. Trong các văn bản
trên và ở các vùng khác nhau, Thừa phát lại được gọi với những tên khác
3

Nguyễn Anh Thư (2014), Thừa phát lại – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại

học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.5, trích trong tài liệu: “www.puf.edu.vn (Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại
ở Cộng hòa Pháp”.
4

Vũ Hoài Nam (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại ở Việt Nam hiện nay, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.9.


10

nhau như: Chưởng tòa (miền Bắc), Mõ tòa (miền Trung), Thừa phát lại (miền
Nam) nhưng đều thể hiện chức năng của chức danh “Huissier” trong Bộ Dân
luật Pháp năm 1804 và Bộ Dân sự tố tụng Pháp năm 1807 mà dịch sang tiếng
Việt là “Chưởng tòa” hay là nhân viên chấp hành (ở Tòa án); (cũ) mõ tòa5.

Theo đó, hoạt động của Thừa phát lại bao gồm: 1) Trước khi xét xử Thừa phát
lại được lâp các vi bằng, biên bản, tống đạt các thư mời, giấy triệu tập. 2)
Trong khi xét xử Thừa phát lại có nhiệm vụ báo tin tòa đăng đường, tòa bế
mạc, truyền đạt việc gọi tên, các đương sự, người làm chứng, chuyển chứng
cứ; giữ gìn trật tự phiên tòa. 3) Sau khi xét xử Thừa phát lại tống đạt các giấy
tờ đốc thúc thi hành án; lập các chứng thư thi hành các nội dung bản án đã
tuyên về trục xuất, phát mại tài sản, trả nợ,…Thừa phát lại được bổ nhiệm và
là công lại, nhiệm lại, nhưng không phải công chức hưởng lương nhà nước.
Thừa phát lại được tổ chức và hoạt động theo quản hạt của Tòa án. Nhiệm vụ
của Thừa phát lại rất rộng, không chỉ thi hành các bản án có nghĩa là các công
việc sau xét xử mà còn thực hiện các công việc trước và trong xét xử6.
Đó là xuất xứ của danh từ Thừa phát lại, tuy nhiên để nói tới khái niệm
Thừa phát lại thì có nhiều quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất, Thừa phát lại - Những nhân viên công lại có nhiệm
vụ tống đạt các văn bản tố tụng tư pháp và các văn bản khác, cưỡng chế thi
hành các bản án, quyết địnhcủa Tòa án, các văn bản của công chứng viên và
làm các công việc khác tại các tòa án7. Tuy nhiên với cách định nghĩa như

5

Lê Khả Kế (chủ biên, 1997), Từ điển Pháp - Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 725.

6

Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư điền Bách khoa và NXB Tư Pháp,

Hà Nội, tr. 756.
7

Nhà pháp luật Việt Pháp (2009), Từ điển thuật ngữ pháp luật Pháp - Việt, NXB Từ điển Bách Khoa, Hà


Nội, tr. 426.


11

quan điểm này thì dễ nhầm lẫn chức năng công chứng viên và chức năng của
Thừa phát lại, định nghĩa chưa rõ ràng.
Quan điểm thứ hai, Thừa phát lại là viên chức chuyên tống đạt giấy tờ và
thi hành phán quyết của Tòa án hay thu một sản vật. Thừa – giúp, phụ giúp;
theo, tuân theo lệnh của cấp trên. Phát - gửi đi, giao cho ai vật gì. Lại - người
làm việc cấp dưới. Thừa phát lại là những người được luật pháp giao cho các
việc: truyền phiếu, các việc biên chép, chuyển đưa các giấy tờ thuộc về Thẩm
phán hoặc ngoại Thẩm phán, các việc thi hành án, các công văn và các công
việc nội bộ trong các tòa án...
Với cách hiểu như trên thể hiện được hoạt động của Thừa phát lại mang
tính quyền lực nhà nước, Thừa phát lại không hưởng lương ngân sách nhà
nước. Theo định nghĩa trên thì Thừa phát lại đang là một cơ quan được luật
pháp giao việc và Thừa phát lại có thể từ chối không làm được không? Nếu
không được từ chối mà buộc phải làm thì Thừa phát lại không khác gì một
công chức, viên chức nhà nước.
Quan điểm thứ ba, được thể hiện trong quy định tại khoản 1 Điều 2 Văn
bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP: “Thừa phát lại là người có các tiêu
chuẩn, được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để làm các công việc theo quy
định của Nghị định này và pháp luật có liên quan”. Quan điểm mới nhất này
nhìn nhận Thừa phát lại dưới góc độ chủ thể và đã phần nào làm rõ được câu
hỏi: “Thừa phát lại là ai? Thừa phát lại làm những công việc gì? ”.
Tuy nhiên, khác với các quan điểm trên, nếu nhìn nhận Thừa phát lại
dưới góc độ toàn diện về chủ thể và hoạt động của chức danh này thì có thể
đưa ra một khái niệm tổng quát về Thừa phát lại như sau: Thừa phát lại là

người có đủ tiêu chuẩn được Nhà nước bổ nhiệm và trao quyền để thực hiện
các công việc về tống đạt các văn bản của Tòa án, Cơ quan Thi hành án dân
sự; lập vi bằng; xác minh điều kiện thi hành án và thi hành án dân sự theo


12

trình tự, thủ tục do pháp luật quy định về tố tụng, thi hành án và pháp luật có
liên quan.
Định nghĩa trên về TPL cho thấy chức danh này vừa có điểm tương
đồng, vừa có điểm khác biệt với một số chức danh tư pháp khác. Cụ thể:
- Thừa phát lại và Chấp hành viên
Chấp hành viên là người được Nhà nước tuyển dụng, bổ nhiệm và giao
nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định mà theo quy định của Luật thi hành
án dân sự phải được đưa ra thi hành. Chấp hành viên là công chức, hưởng
lương từ ngân sách nhà nước và phải thực hiện công việc theo quy định về
chế độ công chức, công vụ.
Thừa phát lại mặc dù cũng do Nhà nước bổ nhiệm và thực hiện một số
công việc như Chấp hành viên như: Trực tiếp tổ chức thi hành bản án, xác
minh điều kiện thi hành án, tuy nhiên, Thừa phát lại không phải là công chức
nhà nước, chức danh TPL làm việc được hưởng thù lao, phí tổn theo biểu giá
Nhà nước quy định và hợp đồng ký kết với khách hàng.
- Thừa phát lại và Kiểm sát viên
Mối quan hệ giữa Thừa phát lại và Kiểm sát viên là mối quan hệ kiểm tra
- giám sát. Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện nơi đặt Văn phòng Thừa phát
lại có thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tống đạt
các văn bản về thi hành và trong hoạt động thi hành án của TPL theo Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp luật về thi hành án dân sự. Viện kiểm
sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tống đạt các văn bản của
Tòa án được thực hiện theo quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

và pháp luật về tố tụng.
- Thừa phát lại và Thư ký Tòa án
Cũng giống như Chấp hành viên và Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án là
công chức nhà nước, họ được giao thực hiện một số công việc của Tòa án


13

như: Phát hành các giấy tờ triệu tập đương sự và những người liên quan khác
đến Tòa án để lấy lời khai; tham dự phiên tòa; giúp ghi lời khai đương sự,
nhân chứng; tiến hành các thủ tục khai mạc phiên tòa, ghi biên bản phiên
tòa,…
Như vậy, có thể nói mối quan hệ giữa TPL và Thư ký Tòa án nêu trên là
mối quan hệ phối hợp – hỗ trợ, Thừa phát lại hỗ trợ Thư ký Tòa án thực hiện
một số công việc. Rõ ràng việc làm trên của TPL đã góp phần quan trọng cho
việc nâng cao hiệu quả xét xử đồng thời cũng góp phần bảo đảm các quyền
lợi chính đáng của các đương sự, nhất là các quyền về tố tụng.
- Thừa phát lại và Công chứng viên
Thoạt nhìn, hoạt động của Thừa phát lại có những nét giống với hoạt động
của Công chứng viên, nhất là hành vi công chứng và hành vi lập vi bằng. Tuy
nhiên, hoạt động của hai chức danh này không hề chồng chéo nhau. Nếu Công
chứng viên là người thay mặt Nhà nước để chứng kiến và công nhận tính xác
thực của các thỏa thuận, văn kiện, giấy tờ, hợp đồng dân sự theo yêu cầu của
khách hàng; hoạt động của Thừa phát lại là lập các vi bằng về những sự kiện
xảy ra mà ít bị khống chế về thời gian và không gian theo yêu cầu của khách
hàng. Mục đích của hoạt động công chứng và Thừa phát lại đều nhằm hỗ trợ
ngăn chặn cũng như giải quyết các tranh chấp, giúp tổ chức và cá nhân bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất.
Ở một khía cạnh nào đó, hoạt động lập vi bằng nói chung và các vi bằng
nói riêng cũng hỗ trợ cho hoạt động của các Công chứng viên. Thực tế, rất

nhiều giao dịch cần có sự chứng kiến của Thừa phát lại, khi đó các tài liệu
này sẽ hỗ trợ quá trình tác nghiệp của Công chứng viên. Hai chức danh này
không bài trừ nhau, không chồng chéo về lập vi bằng và các văn bản khác
được công chứng.


14

1.2. Pháp luật về Thừa phát lại ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm pháp luật về Thừa phát lại
Các quan điểm hiện đại đều cho rằng, pháp luật là công cụ quản lý xã hội
đã phát triển đến một trình độ nhất định, xã hội trở nên phức tạp, đặc biệt là
khi xã hội có sự phân hóa giai cấp có lợi ích đối lập nhau, các công cụ quản lý
xã hội khác như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo… không còn đủ khả năng
duy trì được trật tự xã hội và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong
những điều kiện như vậy, Nhà nước đã ban hành ra pháp luật, một mặt, Nhà
nước thừa nhận một số quy định đã có trong xã hội thành pháp luật và bảo
đảm cho chúng được thực hiện, mặt khác, Nhà nước tiến hành đặt ra những
quy định mới để tổ chức và quản lý xã hội, vừa để bảo vệ lợi ích chung của xã
hội vừa để bảo vệ lợi ích của lực lượng cầm quyền.
Theo nghĩa hẹp, pháp luật gồm các quy định mà phần lớn là các quy tắc
xử sự chung do nhà nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội vì lợi ích
chung của xã hội và lợi ích của lực lượng cầm quyền.
Theo nghĩa rộng, pháp luật không chỉ gồm các quy tắc xử sự chung mà
còn bao hàm các nguyên tắc xử sự, các tư tưởng, học thuyết pháp lý, khung
pháp luật, chính sách pháp luật… được thể hiện ở các loại nguồn pháp luật
khác nhau8.
Thông thường pháp luật được hiểu khái quát như sau:“Pháp luật là hệ
thống quy tắc xử sự chung do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm
thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích, định hướng của

nhà nước”9.

8

Nguyễn Minh Đoan (2014), Hướng dẫn môn học Lý luận Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội,

tr.265.
9

Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật,NXB Tư pháp, Hà

Nội, tr.209.


15

Pháp luật về Thừa phát lại là một trong những bộ phận cấu thành nên hệ
thống pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để điều
chỉnh hoạt động của Thừa phát lại, hay các quan hệ phát sinh trong quá trình
hoạt động của Thừa phát lại cần có pháp luật. Pháp luật Thừa phát lại ở đây
được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật do các
cơ quan nhà nước có thầm quyền ban hành được thể hiện trong nhiều văn bản
quy phạm pháp luật.
Hệ thống văn bản pháp luật về Thừa phát lại, cùng với pháp luật nói
chung đã xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về tổ chức, hoạt động của
Thừa Phát lại; pháp luật quy định Thừa phát lại có bốn chức năng chính là
tống đạt văn bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp thi
hành dân sự các bản án, quyết định của Tòa đã có hiệu lực pháp luật, được
thực hiện bởi chức danh Thừa phát lại. Văn phòng Thừa phát lại có sự độc lập
với Cơ quan thi hành án dân sự.

Trên cơ sở khái niệm về pháp luật và khái niệm Thừa phát lại có thể
hiểu: Pháp luật về Thừa phát lại là hệ thống các quy tắc xử sự chung do Nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
quan đến tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại; trình tự, thủ tục thực hiện
các chức năngcủa Thừa phát lại và các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình hoạt động của Thừa phát lại.
Pháp luật về Thừa phát lại được thể hiện chủ yếu trong các văn bản quy
phạm pháp luật như: Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 của Chính
phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại thành
phố Hồ Chí Minh.Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính
phủ về sửa đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐCP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại


16

thực hiện thí điểm tại thành phố Hồ Chí Minh (Nghị định số 61/2009/NĐ-CP
và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP được Bộ Tư pháp hợp nhất thành Văn bản
hợp nhất số 7821/VBHN-BTP ngày 25/11/2013); Thông tư liên tịch số
03/2014/TTLT-BTP-NHNN ngày 17/01/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp và
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn việc xác minh điều
kiện thi hành án của Thừa phát lại tại các tổ chức tín dụng; Thông tư liên tịch
09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 hướng
dẫn thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số
36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội…
1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về Thừa phát lại
Trên cơ sở khái niệm pháp luật về Thừa phát lại, có thể thấy pháp luậtvề
Thừa phát lại có một số đặc điểm cơ bản sau:
Mặc dù tồn tại ở nước ta trong nhiều năm nhưng trong thời gian gần đây
mô hình TPL mới được thực hiện trở lại nên các quy định pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tổ chức và hoạt động của Thừa phát

lại; trình tự, thủ tục thực hiện chức năng của Thừa phát lại là: Tống đạt văn
bản, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định của Tòa đã có hiệu lực pháp luật và các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình hoạt động của Thừa phát lại. Do vậy, yêu cầu phải tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của TPL là điếu tất yếu. Quá
trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về TPL nhằm làm cho hệ thống pháp luật
nói chung và pháp luật về Thừa phát lại nói riêng đảm bảo tính toàn diện,
thống nhất, đồng bộ, phù hợp, khả thi, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng văn bản
đạt trình độ cao.
Pháp luật về Thừa phát lại gồm các quy tắc xử sự chung được đặt ra dựa
trên sự khái quát hóa những trường hợp phổ biến xảy ra trong xã hộicần có sự
điều chỉnh của pháp luật. Pháp luật về TPL mang tính bắt buộc chung, quy


17

định pháp luật được dự liệu đối với tất cả cá nhân, tổ chức có liên quan, là sự
mô hình hóa những nhu cầu của xã hội dưới hình thức pháp lý.
Pháp luật về Thừa phát lại được đặt ra từ đòi hỏi, yêu cầu của công cuộc
đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực
hiện chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, từng bước thực hiện việc xã
hội hóa thi hành án dân sự.
Pháp luật về Thừa phát lại liên quan trực tiếp đến hoạt động quản lý nhà
nước đối vớihoạt động bổ trợ tư pháp, thi hành án; bảo đảm tốt hơn quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, góp phần ổn định các quan hệ xã hội,
bảo đảm an ninh trật tự, từ đó góp phần xây dựng kinh tế - xã hội phát triển.
Mặc dù quy định về Thừa phát lại không nằm tập trung trong một văn bản
nhưng pháp luật về Thừa phát lại đang từng bước phát triển nhanh chóng và
ngày càng hoàn thiện hơn nhằm đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
1.2.3. Nội dung pháp luật về Thừa phát lại

Nội dung pháp luật về Thừa phát lại bao gồm ba nhóm quy định cơ bản
tại Văn bản hợp nhất số 7821/VBHN-BTP, cụ thể như sau: Các quy định về
tổ chức Thừa phát lại, Văn phòng Thừa phát lại; các quy định về hoạt động
của Thừa phát lại; các quy định về khiếu nại, tố cáo và kiểm sát hoạt động của
Thừa phát lại.
- Các quy định về tổ chức của Thừa phát lại bao gồm:
Một là, quy định về nhiệm vụ, quyền hạn và các hành vi bị cấm đối với
Thừa phát lại.
Hai là, về bổ nhiệm, miễn nhiệm Thừa phát lại trong đó quy định về tiêu
chuẩn được bổ nhiệm làm TPL, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm Thừa
phát lại.
Ba là, quy định về tổ chức bộ máy và mô hình hoạt động của Văn phòng
Thừa phát lại.


18

Bốn là, quy định về thành lập, giải thể Văn phòng Thừa phát lại bao gồm
quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập, giải thể VP TPL.
Năm là, quy định về chế độ thông tin, báo cáo của VP TPL.
Sáu là, quy định về quản lý nhà nước đối với Thừa phát lại.
Bảy là, quy định về xử lý vi phạm đối với Thừa phát lại, Văn phòng
Thừa phát lại.
- Các quy định pháp luật về chức năng của Thừa phát lại
Theo quy định của pháp luật về Thừa phát lại, Thừa phát lại có một số
chức năng cơ bản sau: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc
Cơ quan Thi hành án dân sự; lập vi bằng theo yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ
chức; xác minh điều kiện thi hành án; thi hành các bản án, quyết định của Tòa
án theo yêu cầu của đương sự.
- Quy định về khiếu nại, tố cáo và kiểm sát hoạt động của TPL.

1.3.

Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về TPL

Trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật về Thừa phát lại và trong
thực tiễn tổ chức, thực hiện chế định Thừa phát lại đã đặt ra yêu cầu hoàn
thiện thể chế về Thừa phát lại, nhất là phải xây dựng hành lang pháp lý vững
chắc để tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại đạt được hiệu quả cao trong
thực tiễn, góp phần thiết thực trong thực hiện chủ trương xã hội hóa đối với
một số hoạt động tư pháp. Do vậy, hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại là
hoạt động làm cho pháp luật về Thừa phát lại hoàn chỉnh, toàn diện, đồng bộ
và kịp thời nhằm xây dựng hành lang pháp lý vững chắc cho tổ chức và hoạt
động Thừa phát lại đạt hiệu quả cao trong thực tế, đáp ứng nhu cầu, đỏi hỏi
khách quan của xã hội.
Để đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về Thừa phát lại cần dựa
vào những tiêu chí được xác định về mặt lý thuyết, từ đó liên hệ với điều kiện
và hoàn cảnh thực tế thực tế, xem xét một cách khách quan và rút ra những


19

kết luận, đánh giá làm sáng tỏ những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật về
Thừa phát lại. Xác định tiêu chí hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại có ý
nghĩa hết sức quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp ở
nước ta hiện nay.
Để có cơ sở đánh giá, xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật về Thừa
phát lại, cần phải dựa vào những tiêu chí nhất định. Về mặt lý thuyết, những
tiêu chí đó là những yếu tố làm nên giá trị của pháp luật về Thừa phát lại; về
mặt thực tiễn, là những điều kiện đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật phải

đáp ứng để bảo đảm và phát huy vai trò to lớn của pháp luật về Thừa phát lại.
Có nhiều tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Thừa phát lại,
trong đó, có một số tiêu chí cơ bản là: Tính toàn diện, tính thống nhất, đồng
bộ, tính phù hợp, khả thi, ngôn ngữ, kỹ thuật xây dựng pháp luật, tính minh
bạch và tính ổn định tương đối của pháp luật về Thừa phát lại.
- Tính toàn diện của pháp luật về Thừa phát lại
Tính toàn diện của pháp luật về Thừa phát lại thể hiện ở cấu trúc hình
thức của nó, nghĩa là pháp luật về Thừa phát lại phải có khả năng đáp ứng
được đầy đủ nhu cầu điều chỉnh pháp luật trong lĩnh vực Thừa phát lại. Điều
này đòi hỏi các quy định pháp luật về Thừa phát lại phải có khả năng bao quát
đầy đủ nhu cầu, đòi hỏi của xã hội về Thừa phát lại, để những vấn đề về tổ
chức, hoạt động của Thừa phát lại cần có sự điều chỉnh của pháp luật thì đều
có pháp luật điều chỉnh kịp thời. Tính toàn diện của pháp luật về TPL cần
phải được đánh giá từ các quy định pháp luật có logic, chặt chẽ hay không, có
đầy đủ các quy phạm cần thiết hay không. Bên cạnh đó, không chỉ chú trọng
về luật nội dung mà cần phải chú trọng luật hình thức về trình tự, thủ tục.
Đồng thời, phải ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn chi
tiết các trường hợp cần có pháp luật điều chỉnh.


20

- Tính thống nhất và đồng bộ của pháp luật về Thừa phát lại
Giữa các bộ phận của pháp luật về TPL không chỉ có mối liên hệ gắn bó,
chặt chẽ mà còn luôn có sự thống nhất nội tại với nhau. Sự thống nhất và
đồng bộ của pháp luật là điều kiện cần thiết bảo đảm cho tính thống nhất về
mục đích của pháp luật và sự triệt để trong việc thực hiện pháp luật. Tính
thống nhất và đồng bộ thể hiện giữa các quy phạm pháp luật có thống nhất,
đồng bộ hay không, có hiện tượng trùng lặp, chồng chéo, mâu thuẫn nhau của
các quy phạm pháp luật. Điều này đòi hỏi các văn bản quy phạm pháp luật

được ban hành không chỉ bảo đảm sự thống nhất, hài hòa về nội dung mà còn
phải bảo đảm sự đồng bộ, tính thứ bậc của mỗi văn bản về giá trị pháp lý của
chúng. Bất kỳ một quy phạm pháp luật nào hoặc văn bản quy phạm pháp luật
nào cũng được tạo ra và tác động không phải trong sự độc lập, riêng rẽ mà
trong tổng thể những mối liên hệ và ràng buộc nhất định. Do vậy, tính đồng
bộ của pháp luật về Thừa phát lại ảnh hưởng rất lớn đến tính khả thi, hiệu quả
của pháp luật. Tính đồng bộ của pháp luật về TPL còn thể hiện ở việc ban
hành đầy đủ các văn bản quy phạm chi tiết; các văn bản, quy định pháp luật
trong những trường hợp cần có sự quy định chi tiết, để khi văn bản pháp luật
có hiệu lực thì nó cũng đã có đủ các điều kiện để có thể tổ chức, thực hiện
ngay trên thực tế.
Việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về TPL phải tuân thủ
đúng thẩm quyền, quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật. Nguyên tắc về tính thống nhất giữa các văn bản đòi hỏi phải có sự tuân
thủ nguyên tắc pháp chế trong việc ban hành văn bản của các cơ quan nhà
nước, chống chủ quan, duy ý chí, cục bộ địa phương, ngành; thường xuyên
làm tốt công tác xử lý văn bản, hệ thống hoá pháp luật, công tác so sánh pháp
luật, học tập kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước, song không dập
khuôn, sao chép máy móc.


×