Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.62 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THỊ THƢƠNG

THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NHÂN
THÂN CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

NGUYỄN THỊ THƢƠNG

THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NHÂN
THÂN CỦA VỢ CHỒNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Thị Hƣờng

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thƣơng


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ban VSTBPN ngành

: Ban vì sự tiến bộ phụ nữ ngành

BĐG

: Bình đẳng giới


BLDS

: Bộ luật dân sự

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLLĐ

: Bộ luật lao động

HĐND

: Hội đồng nhân dân

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

PCBLGĐ

: Phòng, chống bạo lực gia đình

THPT

: Trung học phổ thông

UBND


: Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ NHÂN THÂN
CỦA VỢ CHỒNG

5

1.1.

Khái niệm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng

5

1.2.

Đặc điểm, yếu tố tác động đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân
của vợ chồng

1.2.1. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng

7
7


1.2.2. Yếu tố tác động đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
1.3.

chồng

8

Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng

9

1.3.1. Đăng ký kết hôn

9

1.3.2. Nam nữ chung sống như vợ chồng và được pháp luật công nhận

10

Nguyên tắc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng

14

1.4.

1.4.1. Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng

14

1.4.2. Bảo vệ quyền nhân thân của vợ chồng trên nguyên tắc bảo vệ quyền con

1.5.

người và bảo vệ gia đình

16

Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng theo pháp luật hiện hành

17

1.5.1. Tình nghĩa vợ chồng

17

1.5.2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung

20

1.5.3. Lựa chọn nơi cư trú của vợ chồng

20

1.5.4. Tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ chồng

22

1.5.5. Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng

24


1.5.6. Quyền, nghĩa vụ về học tập, làm việc, tham gia hoạt động chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội

25

Kết luận chương 1

32

Chương 2. THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN, NGHĨA VỤ NHÂN THÂN
CỦA VỢ CHỒNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT

33


2.1. Một số hạn chế trong việc thực hiện quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân
của vợ chồng

33

2.1.1. Bạo lực gia đình diễn ra thường xuyên mà nạn nhân chủ yếu là người vợ 33
2.1.2. Ly thân – vi phạm nghĩa vụ sống chung

36

2.1.3. Không có sự chia sẻ công việc trong gia đình

37


2.1.4. ự phân công lao động giữa vợ và chồng trong các công việc lao động sản
xu t

40

2.1.5. Tình trạng ngoại tình diễn ra khá thường xuyên – vi phạm nghĩa vụ chung
thủy

42

2.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực hiện quy định về quyền và nghĩa
vụ nhân thân của vợ chồng
2.2.1. Chế tài chưa đủ nghiêm và chưa đủ sức răn đe

45
45

2.2.2. Thiếu quy định của pháp luật điều chỉnh một số trường hợp vi phạm quyền
nhân thân

51

2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
2.3.1. Hoàn thiện pháp luật

54
54

2.3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân

của vợ chồng

58

Kết luận chương 2

61

KẾT LUẬN CHUNG

62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật HN&GĐ năm 2014 được Quốc hội thông qua ngày 19 tháng 06
năm 2014 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2015. Đây là một bước
hoàn thiện quan trọng về cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ HN&GĐ
tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên
trong gia đình, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia
đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt
Nam. Xuất phát từ mục đích của việc xác lập quan hệ vợ chồng là nhằm xây
dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững, kế thừa và
phát triển các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm
2014 khi điều chỉnh các quan hệ của vợ và chồng đã dựa trên nguyên tắc tiến
bộ, bình đẳng và đưa ra nhiều quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ nhân thân

của vợ và chồng. Đặc biệt là bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ
nhân thân của vợ và chồng là vấn đề rất được quan tâm. Người vợ trong gia
đình hiện nay đang phải đối mặt với nhiều vấn nạn như bị bạo lực về thể chất,
bạo lực về tinh thần, bạo lực về kinh tế, chồng không chung thủy, tư tưởng
trọng nam khinh nữ.
Mặt khác, những nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng chưa được đi sâu vào thực tế. Chính vì thế việc nghiên cứu vấn đề thực
tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân vợ chồng là điều rất cần thiết hiện
nay. Đó cũng là lý do mà tác giả lựa chọn đề tài: “Thực tiễn thực hiện quyền
và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam” để phân tích
và làm rõ về mặt lý luận cũng như thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân
thân vợ chồng trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng hiện nay cũng đã có
rất nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, nhưng mỗi đề tài nghiên cứu dưới một


2

góc độ khác nhau. Luận văn thạc sĩ năm 2015: “Bảo vệ quyền của người phụ
nữ trong quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2014” của Phạm Thị Chuyền, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội tập
trung làm rõ những vấn đề về bảo vệ quyền nhân thân của người phụ nữ với
tư cách là người vợ, người mẹ trong quan hệ giữa vợ và chồng, tức là các
quyền nhân thân phát sinh trên cơ sở quan hệ hôn nhân. Luận văn thạc sĩ:
“Ảnh hưởng của Nho giáo đến các quy định pháp luật Việt Nam về mối quan
hệ giữa vợ và chồng”, của Đinh Hạnh Nga, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà
Nội lại tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của quan niệm Nho giáo đối với
các quy định của pháp Luật HN&GĐ Việt Nam về mối quan hệ giữa vợ và
chồng. Tuy nhiên, vấn đề thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của

vợ chồng theo pháp luật Việt Nam chưa được nghiên cứu một cách chuyên
sâu và quan tâm đúng mức. Các công trình nghiên cứu mới chỉ nghiên cứu về
việc bảo vệ quyền của người phụ nữ một cách nói chung hay chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu về bảo vệ quyền của người phụ nữ trong quan hệ tài sản giữa
vợ và chồng mà chưa có sự đề cập tới thực tiễn thực hiện quyền nhân thân vợ
chồng trên thực tế như thế nào.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quyền
và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn khái quát những vấn đề lý luận về
quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng. Đặc biệt trọng tâm của luận văn là
tập trung nghiên cứu thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng, để làm rõ những cái đã đạt được và những cái chưa làm được trong cơ
chế bảo vệ quyền và thực hiện quyền nhân thân vợ chồng theo Luật HN&GĐ
năm 2014. Với mục đích làm nổi bật hơn quy định của pháp luật về vấn đề
này, tác giả đã đi thực tế nhằm thực hiện các bài phỏng vấn ngắn và xin số
liệu mà các cơ quan đã khảo sát, để thực hiện tốt đề tài luận văn. Từ những số
liệu thực tế đó, tác giả nhận định được những mặt tích cực và hạn chế, từ đó


3

đưa ra những giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật đạt
được đúng mục đích mà luật đề ra.
4. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là làm rõ các vấn đề lý luận, nội
dung quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ nhân thân của
vợ chồng; chỉ ra những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn
chế đó trong thực tiễn. Luận văn còn đưa ra hướng hoàn thiện pháp luật cũng
như mạnh dạn đề xuất một số giải pháp với mong muốn góp phần nâng cao

hiệu quả khi áp vào thực tế, góp ý kiến cho những lần sửa đổi Luật tiếp theo.
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận văn có nhiệm vụ:
+ Đưa ra khái niệm và làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền và nghĩa
vụ nhân thân của vợ chồng;
+ Phân tích làm rõ quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
+ Nghiên cứu pháp luật liên quan như: Bộ luật dân sự năm 2015
(BLDS năm 2015), Bộ luật lao động năm 2012 (BLLĐ năm 2012), Luật
phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007 (Luật PCBLGĐ năm 2007), Luật
bình đẳng giới năm 2006 (Luật BĐG năm 2006)… và các Điều bước quốc tế
mà Việt Nam là thành viên về các vấn đề liên quan tới về quyền và nghĩa vụ
nhân thân của vợ chồng;
+ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật, những hạn chế còn tồn tại,
nguyên nhân của những hạn chế đó, hướng hoàn thiện Luật HN&GĐ năm
2014, cùng pháp luật có liên quan tới đề tài đang nghiên cứu. Đề xuất một số
giải pháp, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học như: Phương pháp phân tích, phương pháp suy
diễn logic, phương pháp diễn giải, phương pháp tổng hợp, phương pháp so


4

sánh, phương pháp điều tra xã hội học,… để làm sáng tỏ vấn đề về mặt lý
luận và thực tiễn thực hiện quyền, nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài này, luận văn phân tích tổng hợp làm
sáng tỏ quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ nhân thân của

vợ chồng. Đồng thời nêu lên được một số thành tựu trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có
hiệu lực cho đến nay, cũng như chỉ ra một số hạn chế, nguyên nhân của
những hạn chế đó và những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả
thực hiện trên thực tế.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 02 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng


5

Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ NHÂN THÂN CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
Trong xã hội ta, gia đình có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Gia đình
không chỉ là nơi cho cá nhân cái ăn, cái trú ngụ, tình yêu thương mà còn là
nơi thực hiện quá trình truyền dẫn văn hóa qua các giá trị và chuẩn mực xã
hội cho các thành viên mới.1 Có thể nói gia đình là môi trường bảo tồn nền
văn hóa truyền thống, giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách của con
người, đồng thời giúp mỗi cá nhân ngày càng hoàn thiện về thể chất, trí tuệ,
tinh thần, chuẩn bị hành trang để hòa nhập vào cộng đồng xã hội. Nếu như nói
gia đình là tế bào của xã hội thì có thể nói quan hệ vợ chồng là một trong
những mối quan hệ chủ đạo, quan trọng trong đời sống xã hội. Để phát triển
xã hội cần được xây dựng trên nền tảng là sự bền vững, hạnh phúc của các gia

đình, mà trong đó có quyền nhân thân của vợ chồng là cơ sở để đạt được mục
đích của HN&GĐ là: “no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững”.
Sự kiện kết hôn đã làm phát sinh quan hệ pháp luật của vợ, chồng. Nội
dung của quan hệ pháp luật của vợ, chồng bao gồm các nghĩa vụ và quyền
trong hai nhóm quan hệ cơ bản, có sự liên hệ mật thiết với nhau là quan hệ
nhân thân và quan hệ tài sản; do Luật HN&GĐ quy định, phát sinh dựa vào sự
kiện kết hôn, với đặc điểm luôn gắn liền với nhân thân của vợ chồng; trong đó
nghĩa vụ và quyền về nhân thân là nội dung chủ yếu trong quan hệ vợ chồng.2
Nguyên tắc hàng đầu để đảm bảo duy trì những mối quan hệ này đó chính là
sự bình đẳng. Điều này cũng được ghi nhận tại Điều 17 Luật HN&GĐ năm
2014. Bình đẳng giữa vợ chồng chính là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ về
1

Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình xã hội học đại cương, NXB Hồng Đức,
thành phố Hồ Chí Minh, tr.96.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, NXB Công an nhân
dân, Hà Nội, tr.133.


6

nhân thân và tài sản. Pháp Luật HN&GĐ quy định cho họ những quyền và
nghĩa vụ trong các quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản tương đồng với nhau.
Không có lý do gì mà người chồng được pháp luật cho phép có những quyền
hoặc phải gánh vác những nghĩa vụ nhiều hơn người vợ và ngược lại.3
Nhà nước ta từ khi thành lập cho đến nay luôn tôn trọng các quyền con
người, luôn coi đó là một trong những nguyên tắc xây dựng nền tảng pháp
luật. Quyền cơ bản của công dân được xác lập trên các quyền tự nhiên, thiêng
liêng và bất khả xâm phạm của con người như quyền sống, quyền bình đẳng,

quyền tự do mưu cầu hạnh phúc và là các quyền được hầu hết các quốc gia
trên thế giới thừa nhận. Ở Việt Nam, được ghi nhận tại Điều 25 BLDS năm
2015: “Quyền nhân thân được quy định trong Bộ luật này là quyền dân sự
gắn liền với mỗi cá nhân, không thể chuyển giao cho người khác, trừ trường
hợp luật khác có liên quan quy định khác”. Với quy định này, có thể khẳng
định quyền nhân thân là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa
vụ phải tôn trọng.
Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng được Luật HN&GĐ năm
2014 quy định, cũng xuất phát từ những quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân, đã được ghi nhận trong BLDS năm 2015. Luật HN&GĐ năm 2014 quy
định cụ thể, vợ chồng có các quyền và nghĩa vụ nhân thân như: Vợ, chồng
bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình
trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân. Vợ chồng có nghĩa vụ
thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng
nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ
sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do
yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. Việc lựa chọn nơi cư trú
của vợ chồng do vợ chồng thỏa thuận, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập
3

Huỳnh Thị Bích Trâm (2010), Bảo vệ quyền phụ nữ theo pháp luật hôn nhân và gia đình, Khóa luận Cử
nhân luật, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr.27.


7

quán, địa giới hành chính. Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Vợ, chồng có nghĩa vụ tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhau. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ tạo điều

kiện, giúp đỡ nhau chọn nghề nghiệp; học tập, nâng cao trình độ văn hóa,
chuyên môn, nghiệp vụ; tham gia hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội. Trong đó quyền bình đẳng giữa vợ và chồng là tiền đề để điều chỉnh các
quan hệ nhân thân khác cũng như các quan hệ nhân thân vợ chồng khác được
thực hiện dựa trên nguyên tắc bình đẳng.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Quyền nhân thân
giữa vợ và chồng là những quyền liên quan đến lợi ích tinh thần gắn liền với
bản thân mỗi cá nhân trong quan hệ vợ chồng, không có nội dung kinh tế,
không định giá được bằng tiền và không thể chuyển giao cho người khác.
Bảo vệ tốt quyền nhân thân của người vợ, người chồng cũng chính là
góp phần bảo vệ sự bền vững của gia đình, tăng giá trị nền văn hóa truyền
thống, giáo dục nếp sống, hình thành nhân cách của con người, đồng thời giúp
cá nhân trong quan hệ hôn nhân ngày càng hoàn thiện. Như vậy, để phát triển
xã hội cần được xây dựng trên nền tảng là sự bền vững, hạnh phúc của các gia
đình, mà trong đó có quyền nhân thân của vợ chồng là cơ sở để đạt được mục
đích của hôn nhân.
1.2. Đặc điểm, yếu tố tác động đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân
thân của vợ chồng
1.2.1. Đặc điểm quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
- Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng mang tính tình cảm: Từ
xưa các cụ ta đã coi tình cảm vợ chồng là tình cảm phù hợp với đạo lý, làm vợ
chồng của nhau phải hiểu nhau, hành động trên tình cảm, bổn phận, nghĩa vụ
của mình, lợi ích của vợ, chồng và lợi ích của các con, cũng như lợi ích chung
của gia đình. Do vậy Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: vợ, chồng chung
thủy, thương yêu quý trọng, chăm sóc giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia


8

đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững. Việc thực hiện bổn

phận này vừa mang tính chất pháp lý vừa dựa trên cơ sở đạo lý.
- Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng mang tính chất tự do dân
chủ, biểu hiện qua các quyền như: quyền bình đẳng giữa vợ, chồng về mọi
mặt (nhân thân, tài sản, quan hệ gia đình); Quyền lựa chọn nơi cư trú, vợ
chồng có quyền thỏa thuận lựa chọn nơi cư trú, không bị ràng buộc bởi phong
tục tập quán, địa giới hành chính; Nghĩa vụ tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy
tín, cấm ngược đãi, hành hạ nhau; Quyền được tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo, không cưỡng ép, cản trở nhau theo hoặc không theo một tôn giáo nào;
Quyền được lựa chọn nghề nghiệp, học tập, tham gia hoạt động chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở đảm bảo quyền và lợi ích chung.
- Đại diện giữa vợ, chồng: Luật HN&GĐ quy định vợ hoặc chồng mất
năng lực hành vi dân sự mà bên kia có đủ điều kiện làm người giám hộ hoặc
khi một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà bên kia được Tòa án chỉ
định làm người đại diện theo pháp luật của người chồng, vợ bị mất hoặc hạn
chế năng lực hành vi dân sự.
1.2.2. Yếu tố tác động đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của
vợ chồng
- Quan điểm về chế độ phụ hệ từ xa xưa đã ăn sâu vào tiềm thức của
con người, trong gia đình người đàn ông được xem là trụ cột, phụ nữ, người
già và trẻ em phải phụ thuộc họ vào kinh tế, nên không có tiếng nói và không
có quyền quyết định các công việc. Thái độ trọng nam khinh nữ, xã hội coi
trọng vai trò của người đàn ông, vì vậy nên quyền nhân thân của người nam,
người nữ, của người chồng, người vợ trong gia đình cũng nặng nhẹ khác
nhau. Pháp luật xưa chưa đảm bảo được quyền nhân thân của người phụ nữ.
Ngày nay, tuy pháp luật đã có nhiều đổi thay, quyền và nghĩa vụ nhân thân
của vợ chồng đã được luật định khá chi tiết, nhưng chính những định kiến,
suy nghĩ truyền thống từ xưa đã ăn sâu vào tiềm thức, nên đã làm hạn chế khả
năng áp dụng pháp luật vào đời sống hiện đại.



9

- Yếu tố văn hóa có tác động không nhỏ: thật vậy, văn hóa nước ta xuất
phát từ nền nông nghiệp lúa nước lâu đời, con người còn tồn tại tư tưởng phụ
thuộc nhiều (vào thời tiết, con người, số mệnh,…), phần lớn chưa có tư duy
độc lập, trong gia đình cũng không ngoại lệ. Vậy nên, pháp luật quy định phải
có tính thực tế, phù hợp với văn hóa của quốc gia, nếu không phù hợp với văn
hóa quốc gia thì sẽ không thể nào áp dụng trên thực tế. Luật quy định ra mà
không thể áp dụng trên thực tế, thì chỉ có thể là quy định suông. Vì vậy,
những quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng muốn đạt hiệu
quả, thì luật phải đi sát với thực tế và văn hóa của nước nhà.
- Yếu tố quốc gia: luật quy định về quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ
chồng, trên nguyên tắc phù hợp với các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành
viên, cũng là hướng tới bảo vệ quyền con người, đúng với mục đích mà pháp
luật quốc tế luôn hướng tới.
1.3. Căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
1.3.1. Đăng ký kết hôn
Căn cứ phát sinh quan hệ giữa vợ và chồng là sự kiện kết hôn theo đó
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được xác lập. Quyền và nghĩa vụ nhân thân
của vợ chồng được xác lập là khi quan hệ hôn nhân giữa họ được nhà nước
thừa nhận thông qua thủ tục đăng kí kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền. Kể từ thời điểm được cấp giấy chứng nhận kết hôn, sẽ làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng theo Luật hôn nhân và gia đình. Hiện
nay, còn rất nhiều quan điểm sai lầm cho rằng, sau khi làm đám cưới sẽ phát
sinh quan hệ vợ chồng. Luật thực định không thừa nhận quan điểm này, mà
chỉ công nhận quan hệ hôn nhân khi nam nữ chung sống với nhau có giấy
chứng nhận kết hôn.
Để nam nữ đăng kí kết hôn và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
chấp thuận, hai bên nam nữ phải đáp ứng đủ điều kiện kết hôn theo quy định
tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014, đó là: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ

18 tuổi trở lên; Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định; Không bị


10

mất năng lực hành vi dân sự; Việc kết hôn không thuộc một trong các trường
hợp cấm kết hôn. Thủ tục đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền như sau: nộp hồ sơ yêu cầu đăng kí kết hôn trực tiếp tại UBND cấp xã,
phường, thị trấn nơi cư trú của bên nam hoặc bên nữ. Khi đăng ký kết hôn,
hai bên nam, nữ phải có mặt. Đại diện UBND cấp xã, phường, thị trấn yêu
cầu hai bên cho biết ý muốn tự nguyện kết hôn, nếu hai bên đồng ý kết hôn,
thì cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký kết hôn và Giấy chứng nhận
kết hôn. Hai bên nam, nữ ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký kết
hôn, Chủ tịch UBND cấp xã, phường, thị trấn ký và cấp cho mỗi bên vợ,
chồng một bản chính Giấy chứng nhận kết hôn, giải thích cho hai bên về
quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia
đình.
Vợ, chồng phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân thân không phải mọi
trường hợp được tính từ thời điểm đăng ký kết hôn. Đối với những trường
hợp có đăng ký kết hôn, thì thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhân thân
là khi nam nữ đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận. Kể từ thời điểm này, họ đã trở
thành chủ thể được điều chỉnh bởi Luật HN&GĐ, được hưởng đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ nhân thân vợ chồng. Mặt khác, quan hệ pháp luật HN&GĐ
chủ yếu là các quan hệ mang tính chất lâu dài, bền vững và đăng ký kết hôn là
một trong những cơ sở quan trọng để đảm bảo cho quan hệ hôn nhân đạt được
sự lâu dài, bền vững đó.
1.3.2. Nam nữ chung sống như vợ chồng và được pháp luật công nhận
Nếu hai người sống chung với nhau và có đăng ký kết hôn, thì không
có gì khó để xác định là vợ chồng hợp pháp: Giấy chứng nhận kết hôn cho

phép khẳng định họ là vợ chồng hợp pháp của nhau. Tuy nhiên, trong thực tế
có nhiều trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng và được
pháp luật công nhận là “hôn nhân thực tế”. Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày
31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân


11

và gia đình không đề cập đến “hôn nhân thực tế”. Trước đây, khi Luật
HN&GĐ năm 2000 còn hiệu lực thì có Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Nghị
quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao đều đề cập đến “hôn nhân thực tế”. Khi xảy ra tranh chấp
cần xác định có quan hệ vợ chồng hay không, chúng ta có thể áp dụng tương
tự, cụ thể trong một số trường hợp như sau:
* Hôn nhân thực tế (xác lập trƣớc ngày 03/01/1987): Tại điểm C.1
khoản C Điều 1 Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ghi nhận: Người đang có vợ hoặc có
chồng là:“Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày
03/01/1987 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn” và tại Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng ghi nhận: “Trường hợp quan hệ vợ
chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, nếu có một bên chết trước, thì
bên vợ hoặc chồng còn sống được hưởng di sản của bên chết để lại theo quy
định của pháp luật thừa kế”.
Lý do Tòa án lấy mốc thời gian để phân biệt là ngày 03/01/1987 vì
Luật HN&GĐ 1986 được thông qua ngày 29/12/1986 nhưng được công bố
ngày 03/01/1987. Như vậy nếu hôn nhân thực tế được xác lập trước ngày này
thì hôn nhân đó có giá trị pháp lý, được pháp luật công nhận, mà không cần
phải đưa ra bất cứ giấy tờ gì để chứng minh nữa; người vợ, người chồng trong

trường hợp này là vợ chồng hợp pháp và được hưởng đầy đủ quyền và nghĩa
vụ nhân thân vợ chồng như những cặp vợ chồng có đăng ký kết hôn khác.
* Hôn nhân thực tế (xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày
01/01/2001): Cũng tại điểm C.1 khoản C Điều 1 Nghị quyết số 02/2000/NQHĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ghi
nhận: “Người sống chung với người khác như vợ chồng từ ngày 03/01/1987
đến trước ngày 01/01/2001 và đang chung sống với nhau như vợ chồng mà có


12

đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn (trường hợp này chỉ áp
dụng từ ngày Nghị quyết này có hiệu lực cho đến trước ngày 01/01/2003)” và
Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao cũng nêu trong trường hợp: “Trường hợp nam và nữ
chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001
mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có
nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2001 đến
ngày 01/01/2003; do đó cho đến trước ngày 01/01/2003 mà có một bên vợ
hoặc chồng chết trước thì bên chồng hoặc vợ còn sống được hưởng di sản
của bên chết để lại theo quy định của pháp luật về thừa kế”. Với quy định tại
Nghị quyết 01 trong trường hợp một người chết trước ngày 01/01/2003 thì
người còn lại được hưởng thừa kế khi họ sống với nhau như vợ chồng “từ
ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật HN&GĐ năm 2000”. Như vậy hai người chung sống với nhau
như vợ chồng trong khoảng thời gian này mà không đăng ký kết hôn, vẫn
được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp và vẫn phát sinh quyền,
nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng kể từ thời điểm họ chung sống với nhau
như vợ chồng trên thực tế.
Bên cạnh đó, trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ
ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định

của Luật HN&GĐ, nếu sau ngày 01/01/2003 họ vẫn chưa đăng ký kết hôn thì
xác định có quan hệ vợ chồng hợp pháp như sau:
- Đối với trường hợp trước ngày 01/01/2003 họ đã xin đăng ký kết hôn
(cụ thể là đã kê khai, có tên trong danh sách những người xin đăng ký kết hôn
do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền lập trước ngày 01/01/2003), nhưng
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa kịp hoàn tất thủ tục để cấp đăng ký
kết hôn cho họ trước ngày 01/01/2003, thì các cơ quan Nhà nước phải tiếp tục
hoàn tất thủ tục đăng ký kết hôn và công nhận họ là vợ chồng kể từ khi họ
chung sống với nhau như vợ chồng trên thực tế theo Nghị quyết số


13

35/2000/QH10. Do đó trong trường hợp này, nếu sau ngày 01/01/2003 các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền chưa kịp hoàn tất thủ tục để cấp đăng ký kết
hôn cho họ mà một bên chết thì quan hệ giữa họ khi còn sống vẫn là quan hệ
hôn nhân thực tế hợp pháp.
- Đối với trường hợp trước ngày 01/01/2003 họ không làm thủ tục xin
đăng ký kết hôn (cụ thể là không kê khai, không có tên trong danh sách những
người xin đăng ký kết hôn do các cơ quan Nhà nước lập trước ngày
01/01/2003) và sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng ký kết hôn thì quan hệ hôn
nhân của họ chỉ được công nhận từ thời điểm đăng ký. Do đó trong trường
hợp này, nếu sau ngày 01/01/2003 họ chưa đăng ký kết hôn mà có một bên
chết thì quan hệ giữa họ khi còn sống không được công nhận là vợ chồng hợp
pháp.4
Qua phân tích trên cho thấy, thời điểm nam nữ sống chung với nhau
như vợ chồng là rất quan trọng. Khi họ bắt đầu sống với nhau từ ngày
03/01/1987 thì hậu quả rất khác khi họ bắt đầu sống với nhau như vợ chồng
trước ngày này. Tuy nhiên, trong thực tế còn gặp trường hợp một người đang
trong tình trạng hôn nhân thực tế hợp pháp, chưa chấm dứt bằng một quyết

định ly hôn, nhưng lại xác lập một quan hệ hôn nhân khác. Hôn nhân thứ nhất
là hôn nhân thực tế, được pháp luật thừa nhận cho dù không có đăng ký kết
hôn. Vì hôn nhân này đã tồn tại nên người trong hôn nhân thứ hai chỉ có thể
kết hôn hợp pháp với người khác khi hôn nhân thứ nhất không còn tồn tại
nữa. Do chưa có quyết định của cơ quan có thẩm quyền cho ly hôn thì chưa
có cơ sở để khẳng định hôn nhân thực tế này chấm dứt: chúng ta có khái niệm
“hôn nhân thực tế” chứ không có khái niệm “ly hôn thực tế”. Tuy nhiên xét về
tình thì việc từ chối một cách máy móc hôn nhân thứ hai lại không thuyết
phục, chúng ta không bảo vệ tốt những người trong quan hệ thứ hai. Nếu thực
sự những người trong quan hệ hôn nhân thực tế thứ nhất đã chấm dứt quan hệ,
4

Đỗ Văn Đại (2014), Luật thừa kế Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, NXB Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, tr.386, tr.391.


14

không ai có tranh chấp về hôn nhân thứ hai và nếu hôn nhân thứ hai thỏa mãn
các điều kiện để được thừa nhận, thì chúng ta vẫn nên thừa nhận hôn nhân thứ
hai.
1.4. Nguyên tắc thực hiện quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng
1.4.1. Bình đẳng về quyền, nghĩa vụ giữa vợ chồng
Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được khẳng định tại Luật HN&GĐ
năm 2014, cụ thể như sau: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa
vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền,
nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật
khác có liên quan”.5
- Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được hiểu là sự ngang nhau về
quyền và nghĩa vụ trong gia đình. Tuy nhiên, quyền bình đẳng giữa vợ và

chồng về mọi mặt trong gia đình không có nghĩa là quyền tự do, tự ý làm
những việc mình thích. Quyền bình đẳng thể hiện trong việc vợ chồng cùng
nhau bàn bạc và quyết định về các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản
của bản thân vợ, chồng và của mỗi thành viên trong gia đình, liên quan đến
đời sống chung của vợ chồng.
- Quyền bình đẳng giữa vợ và chồng thể hiện ở nghĩa vụ và quyền nuôi
dạy, chăm sóc, giáo dục con cái. Cha mẹ cũng cần phải yêu thương, tôn trọng
ý kiến của con, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, quan tâm và chăm
sóc tới sự phát triển của con cả về thể chất, trí tuệ và đạo đức để con trở thành
công dân có ích cho xã hội. Nuôi dạy con không chỉ là nghĩa vụ của vợ chồng
đối với con mà còn là nghĩa vụ của họ trước Nhà nước và xã hội trong việc
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ. Vì vậy, vợ chồng phải cùng chịu
trách nhiệm trước pháp luật khi họ không thực hiện nghĩa vụ của mình trong
việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

5

Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


15

- Vợ chồng bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ thực hiện chính
sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.6 Chính sách dân số và kế hoạch hóa gia
đình luôn được xác định là một bộ phận quan trọng của Chiến lược phát triển
đất nước, một trong những vấn đề kinh tế xã hội hàng đầu của quốc gia. Thực
hiện tốt chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình là giải pháp cơ bản để
nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và của toàn xã
hội. Nước ta là một trong những nước có tỷ lệ dân số phát triển nhanh. Dân số
tăng nhanh có thể ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế của đất nước, có thể

dẫn đến đói nghèo, lạc hậu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, từ đó có
thể nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Hiện nay Nhà nước ta
đang thực hiện cuộc vận động dân số và kế hoạch hóa gia đình nhằm vận
động các cặp vợ chồng sinh ít con và giãn khoảng cách giữa mỗi lần sinh
nhằm giảm bớt tỷ lệ tăng dân số. Vợ chồng có nghĩa vụ thực hiện chính sách
dân số và kế hoạch hóa gia đình, vì thế vợ chồng sẽ có quyền lựa chọn các
biện pháp tránh thai hay các biện pháp kế hoạch hóa gia đình, không nên chỉ
áp dụng các biện pháp tránh thai đối với người vợ mà còn cả đối với người
chồng, sao cho phù hợp với hoàn cảnh của từng cặp vợ chồng.
- Quyền bình đẳng của vợ chồng còn được thể hiện trong việc yêu cầu
ly hôn. Một bên vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu ly hôn hoặc cả hai vợ chồng
cùng yêu cầu giải quyết thuận tình ly hôn. Đây là quyền được pháp luật hôn
nhân và dân sự quy định rõ ràng. Quy định về quyền của vợ và chồng trong
việc yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn tuy là một quyền bình đẳng nhưng
không phải được áp dụng tùy tiện, mà khi vợ hoặc chồng có yêu cầu Tòa án
xử ly hôn cũng cần có những căn cứ xác thực theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy vấn đề bình đẳng giới nói chung và vấn đề bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ nói riêng không chỉ là vẫn đề của mỗi quốc gia
mà còn là vấn đề đáng quan tâm của nhân loại, mang tính quốc tế. Không chỉ

6

Khoản 4 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.


16

phụ nữ của riêng quốc gia nào mà tất cả phụ nữ trên thế giới đều cần được
bảo vệ, được tôn trọng và đối xử bình đẳng như nam giới.
1.4.2. Bảo vệ quyền nhân thân của vợ chồng trên nguyên tắc bảo vệ quyền

con người và bảo vệ gia đình
Bảo vệ quyền, nghĩa vụ về nhân thân của vợ, chồng được quy định tại
Điều 18 Luật HN&GĐ năm 2014, cụ thể: “Quyền, nghĩa vụ về nhân thân của
vợ, chồng quy định tại Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan
được tôn trọng và bảo vệ”:
- Quyền và nghĩa vụ nhân thân được quy định trong Luật HN&GĐ năm
2014 hướng tới đảm bảo quyền và lợi ích nhân thân hợp pháp của vợ, chồng
đối với nhau, xác định hành vi xử sự của vợ, chồng; những hành vi xử sự
thông thường giữa vợ, chồng như: yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ
lẫn nhau. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc lẫn nhau, từ
đó vợ, chồng sẽ được thỏa mãn những lợi ích về tinh thần, đôi khi còn cả về
vật chất như vợ, chồng giúp đỡ lẫn nhau trong công việc, sự nghiệp.7 Quy
định về quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng còn đảm bảo quyền và
lợi ích nhân thân của vợ chồng đối với người khác, đặc biệt là những người
thân trong gia đình. Ví dụ như: vợ chồng có yêu thương, tôn trọng nhau thì
con cái được chăm sóc, giáo dục tốt hơn, gia đình hạnh phúc hơn.
- Quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ, chồng còn là cơ sở
pháp lý để giải quyết các tranh chấp liên quan đến quan hệ hôn nhân và gia
đình. Khi hai người nam và nữ được Nhà nước công nhận là có quan hệ hôn
nhân hợp pháp, thì họ sẽ được hưởng các quyền nhân thân đối với nhau, các
quyền đó luôn được pháp luật bảo vệ và mọi người phải tôn trọng quan hệ đó.
Trường hợp người thứ ba có hành vi can thiệp vào quan hệ vợ chồng nhằm
làm tan vỡ hạnh phúc gia đình thì sẽ bị coi là vi phạm pháp luật. Khi xảy ra
tranh chấp trong trường hợp này thì quan hệ vợ chồng luôn được bảo vệ.

7

Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.



17

- Quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ, chồng còn thể hiện sự
cam kết của Việt Nam trong việc đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ
nhân thân chính đáng của vợ chồng, trong các cam kết quốc tế mà Việt Nam
đã ký kết, gia nhập. Qua đó đảm bảo sự tương thích giữa pháp luật quốc gia
và pháp luật quốc tế trong các lĩnh vực có liên quan, đặc biệt trong bối cảnh
hội nhập quốc tế hiện nay.
1.5. Quyền và nghĩa vụ nhân thân của vợ chồng theo pháp luật hiện hành
1.5.1. Tình nghĩa vợ chồng
Được quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật HN&GĐ năm 2014: “Vợ
chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc,
giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Quan hệ vợ chồng không đơn thuần chỉ là một quan hệ quyền và nghĩa vụ
theo pháp lý thuần túy, mà trước hết đó là tình nghĩa giữa hai người đối với
nhau. Do đó, trong tình nghĩa vợ chồng phải có sự chung thủy với nhau, tức là
nghĩa vụ này phải xuất phát từ cả hai phía vợ và chồng. Đây là biểu hiện, yêu
cầu đầu tiên trong tình nghĩa vợ chồng có tính quyết định đối với việc đảm
bảo, duy trì hạnh phúc gia đình. Quy định này không chỉ xác lập nghĩa vụ về
mặt pháp lý nhằm cũng cố nền tảng gia đình, mà còn là một bước quan trọng
để tiếp tục bác bỏ quan điểm phong kiến trước đây “trai năm thê bảy thiếp,
gái chính chuyên một chồng”.8
Ý nghĩa của quy định thì quá rõ ràng, nhưng vấn đề khó ở đây là cách
nào để xác định, kiểm soát mức độ thực hiện nghĩa vụ chung thủy của vợ và
chồng khi đây là lĩnh vực riêng tư hết sức nhạy cảm và khó xác định. Trên
thực tế, không thể xác định được một cách chính xác thế nào là không chung
thủy, cũng như không thể xác định được giới hạn của nghĩa vụ yêu thương và
chế tài buộc hai người phải tiếp tục yêu thương nhau khi mà tình yêu giữa họ
không còn tồn tại nữa. Pháp luật chỉ có thể đánh giá và điều chỉnh các quan hệ
trên cơ sở hành vi, trong khi bản chất của quan hệ vợ chồng lại xuất phát từ

8

Trường Đại học luật Hà Nội (2012), tlđd số 6, tr.207.


18

tình cảm, từ suy nghĩ chứ không đơn thuần là những biểu hiện bên ngoài.9 Có
lẽ ở điểm này pháp luật chỉ ghi nhận và điều chỉnh ở mức độ tổng quát, nhằm
đề cao đạo lý chung và tạo ra ý thức trách nhiệm cho mỗi người trong quan hệ
vợ chồng, còn mức độ thể hiện như thế nào là thuộc các quy phạm đạo đức.
Một trong những biểu hiện ra bên ngoài của sự thiếu chung thủy mặc
nhiên được mọi người dễ dàng thừa nhận đó chính là hành vi ngoại tình. Hành
vi ngoại tình thường là hành vi quan hệ tình dục với người khác, tuy nhiên
cũng có thể là những quan hệ tình cảm với người khác kéo dài và trầm trọng,
gây ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.10 Ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi xã hội,
mỗi nền văn hóa, mỗi cá nhân có cách nhìn, cách hiểu về ngoại tình khác
nhau. Nếu coi thái độ không chung thủy như là thách thức, sự coi thường đối
với lòng tin, sự tận tụy trong quan hệ hỗ tương, thì việc một người công nhiên
yêu người khác (dù không có quan hệ xác thịt) trong khi vợ, chồng mình vẫn
hết lòng với mình, với gia đình, cũng có thể là biểu hiện của sự không chung
thủy.11
Theo pháp luật hiện hành, vi phạm nghĩa vụ chung thủy, người vi phạm
có thể bị chế tài về hành chính (phạt tiền từ 1.000.000 – 3.000.000 đồng)12
hoặc chế tài hình sự (phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc
phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm)13 trong trường hợp quan hệ với người khác có
đầy đủ các đặc điểm về nội dung của quan hệ như vợ, chồng. Tuy nhiên, có
thể thấy rằng nghĩa vụ chung thủy không thể được thực hiện đúng dưới sự
cưỡng chế và đây không phải là lý do trực tiếp để ly hôn.14 Chế tài hành chính
hoặc hình sự chỉ áp dụng được trong những trường hợp được luật dự kiến và

đó cũng là cách duy nhất để trừng phạt người vi phạm nghĩa vụ chung thủy.
9

Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Đinh Thị Mai Phương chủ biên (2004), tlđd số 21, tr.156.
Trường Đại học luật Hà Nội (2012), tlđd số 6, tr.208.
11
Nguyễn Ngọc Điện (2002), Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam - tập 1: Gia đình,
Nxb trẻ, TP. Hồ Chí Minh, tr.231.
12
Điểm a, b, c khoản 1 Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình, thi hành án dân sự,
phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
13
Khoản 1 Điều 182 Bộ luật hình sự năm 2015.
14
Điều 55, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
10


19

Không thể sử dụng chế tài khi một người chỉ mới suốt ngày tơ tưởng đến
người khác mà chưa chung sống như vợ chồng, hay thậm chí đã có quan hệ
xác thịt nhưng chỉ mang tính chất qua đường.15 Nhưng xét cho cùng, tình
nghĩa vợ chồng là dựa trên sự tự nguyện, ý thức và tình cảm của cá nhân,
pháp luật chỉ đóng vai trò giáo dục, định hướng cho con người trong mối quan
hệ vốn phức tạp và tế nhị này.16
Chung thủy là điều kiện cần nhưng chưa phải là yếu tố đủ để xây đắp
lên mái ấm mà chính tình yêu thương, sự quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn
nhau mới là nội dung sâu sắc của mối quan hệ này. Sự chăm sóc, giúp đỡ có

hai mặt: vật chất và tinh thần. Về phương diện vật chất, vợ chồng có nghĩa vụ
hợp tác trong việc đảm bảo đáp ứng nhu cầu sinh hoạt hợp lý của gia đình,
của mỗi cá nhân. Về phương diện tinh thần, vợ chồng phải dành cho nhau sự
chăc sóc tận tụy, cả trong sinh hoạt bình thường lẫn trong lúc ốm đau, khó
khăn.17 Sinh hoạt bình thường của mỗi người thường bao gồm những hoạt
động được thực hiện theo sự phân công trong gia đình. Sự chăm sóc, hỗ trợ về
tinh thần tỏ ra đặc biệt cần thiết trong trường hợp vợ hoặc chồng lâm vào
hoàn cảnh khó khăn như mất việc, lâm bệnh nặng hoặc mất người thân
thuộc… Trong quan hệ với người thứ ba, vợ chồng phải đoàn kết và tương trợ
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhau cũng như của gia đình.
Vợ chồng bảo vệ lẫn nhau trong trường hợp một trong hai người bị người
khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín. Trong đời sống nghề nghiệp, vợ
chồng phải động viên nhau để mỗi người có thể hoàn thành công việc, trách
nhiệm của mình.
Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội. Sự tồn tại
hôn nhân hạnh phúc, bền vững tạo điều kiện cho sự phát triển hưng thịnh của
xã hội. Để hôn nhân phát triển bền vững thì điều cơ bản nhất là vợ chồng phải
cùng nhau lao động, cùng nhau chăm lo, vun vén cho hạnh phúc gia đình.
15

Nguyễn Ngọc Điện (2002), tlđd số 52, tr.233.
Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Đinh Thị Mai Phương chủ biên (2004), tlđd số 21, tr.156.
17
Nguyễn Ngọc Điện (2002), tlđd số 52, tr.233.
16


×