Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.7 KB, 25 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
THEO HƯỚNG CÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG

BÀI THU HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÙNG VÀ ĐỊA PHƢƠNG-KT737

CẦN THƠ, 12/2018
i


MỤC LỤC

i


DANH SÁCH BẢNG

ii


DANH SÁCH HÌNH ẢNH, SƠ ĐỒ, ĐỒ THỊ

iii


DANH MỤC VIẾT TẮT
ĐBSCL



Đồng bằng sông Cửu Long

KH&KT

Khoa học & kỹ thuật

CNHT

Công nghiệp hỗ trợ

iv


PHẦN 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP THEO
HƯỚNG BỀN VỮNG
1.1 LÝ DO HÌNH THÀNH
Phát triển bền vững với ba trụ cột: phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề
xã hội và bảo vệ môi trường là nhu cầu tất yếu và đang là thách thức đối với mọi
quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế hiện nay. Việc lựa chọn
con đường, biện pháp và cơ chế, chính sách bảo đảm phát triển bền vững luôn là
mối quan tâm hàng đầu của các nước trong quá trình phát triển.
Ở Việt Nam, quan điểm phát triển nhanh và bền vững đã sớm được Đảng
và Nhà nước ta đặt ra với nội dung ngày càng hoàn thiện và đã trở thành một chủ
trương nhất quán trong lãnh đạo, quản lý, điều hành tiến trình phát triển của đất
nước trong hơn một thập kỷ qua. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Báo cáo Chính trị của
Ban chấp hành TW khoá X được Ðại hội XI thông qua đều rút ra bài học về mục
tiêu phải bảo đảm phát triển bền vững nền kinh tế, đó là đặc biệt coi trọng chất

lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu
quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tỷ lệ tăng trưởng hợp lý.
Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở
pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển
khai thực hiện, đồng thời thể hiện sự cam kết của Việt Nam với quốc tế. Tuy
nhiên, ở từng lĩnh vực riêng biệt và ở từng địa phương trong đó có các vùng kinh
tế trọng điểm và đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSLC), vấn đề phát
triển bền vững cần được xem xét một cách có hệ thống và cụ thể hoá để có thể
triển khai thực hiện, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp - lĩnh vực có ảnh
hưởng quyết định đến sự phát triển bền vững của vùng này.
1.2 PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
1.2.1 Công nghiệp và đặc điểm công nghiệp
Công nghiệp là thành phần chủ yếu của khu vực thứ hai của nền kinh tế.
Đây là khu vực giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo Từ điển
Bách khoa Việt Nam, công nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực
sản xuất hàng hoá vật chất mà sản phẩm được chế tạo, chế biến cho nhu cầu tiêu
dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo. Đây là hoạt động kinh tế, sản
xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ của các tiến bộ công nghệ,
khoa học và kỹ thuật.
Công nghiệp bao gồm những hoạt động sản xuất, bắt đầu từ hoạt động
khai thác tài nguyên thiên nhiên, tách đối tượng lao động ra khỏi thiên nhiên và
1


hoạt động chế biến các tài nguyên có được từ khai thác, làm thay đổi hoàn toàn
về chất các nguyên liệu ban đầu, biến chúng thành những sản phẩm tương ứng
hoặc nguồn nguyên liệu tiếp theo để sản xuất ra các sản phẩm khác phục vụ nhu
cầu đa dạng của con người.
Theo giáo trình “Kinh tế và quản lý công nghiệp”, công nghiệp gồm ba
loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên

thuỷ; Chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp, ngư
nghiệp thành các loại sản phẩm khác nhau nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau
của xã hội; Hoạt động dịch vụ sửa chữa các sản phẩm công nghiệp nhằm khôi
phục giá trị sử dụng của chúng.
1.2.2 Phát triển công nghiệp bền vững
Phát triển công nghiệp là sự gia tăng về số lượng và chất lượng tăng
trưởng công nghiệp gắn với việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng tiến
bộ, hợp lý. Quá trình phát triển công nghiệp thường mang những đặc điểm chủ
yếu sau:
- Thứ nhất, phát triển công nghiệp có trình độ tập trung hoá, chuyên môn
hoá và hợp tác hoá rất cao.
- Thứ hai, phát triển công nghiệp đòi hỏi tiêu thụ các nguồn lực đầu vào
lớn.
- Thứ ba, phát triển công nghiệp gắn liền với quá trình đổi mới nâng cao
trình độ khoa học công nghệ.
- Thứ tư, công nghiệp có thể phát triển trên mọi vùng lãnh thổ.
- Thứ năm, phát triển công nghiệp gắn liền với việc phát thải lớn.
- Thứ sáu, phát triển công nghiệp là quá trình nảy sinh nhiều vấn đề trực
tiếp liên quan đến kinh tế - xã hội - môi trường; đến lợi ích kinh tế của nhiều bên:
Chủ doanh nghiệp - Người lao động - Dân địa phương sống gần doanh nghiệp Nhà nước.
- Thứ bảy, phát triển công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong vài thập niên trở lại đây, phát triển bền vững đã trở thành một chủ
đề toàn cầu, một xu thế tất yếu, phổ quát mà nhân loại hướng tới trong kỉ nguyên
mới. Dù còn nhiều cách hiểu khác nhau về nội hàm khái niệm, các quốc gia trên
thế giới đã sớm đi đến đồng thuận khi bàn về mục tiêu của phát triển bền vững.
Các Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững (Rio de janeiro 1992,
Johannesburrg 2002, Rio +20 2012) đã xác định: Phát triển bền vững hướng đến
sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí, hài hoà giữa ba mặt: Phát triển kinh tế, phát triển xã
hội và bảo vệ môi trường.

2


Vận dụng lý thuyết phát triển bền vững đối với lĩnh vực công nghiệp:
Phát triển công nghiệp theo hướng bền vững là phương thức phát triển công
nghiệp theo yêu cầu phát triển bền vững, trong đó tốc độ và chất lượng tăng
trưởng công nghiệp được duy trì cao và ổn định, đảm bảo yêu cầu về sự hài hoà
giữa các mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Yêu cầu phát triển hài hòa của công nghiệp theo ba mặt của phát triển bền
vững đòi hỏi phát triển công nghiệp phải tác động tích cực đến việc giải quyết
các vấn đề xã hội. Đó là, phát triển công nghiệp phải tạo nhiều công ăn việc làm,
góp phần giảm thiểu tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của công nhân. Bên cạnh đó, phát triển công nghiệp theo hướng bền vững
cũng đòi hỏi phải khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
giảm thiểu phát thải và ô nhiễm môi trường. Sản xuất công nghiệp chủ yếu dựa
vào tài nguyên thiên nhiên, làm cạn kiệt tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường đất,
nước, không khí, tức là đánh đổi môi trường để có được tăng trưởng công nghiệp
cao thì đó là sự phát triển công nghiệp không theo hướng bền vững.

3


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG
KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM ĐBSCL THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
2.1. Khái quát các cơ chế, chính sách tác động đến phát triển công
nghiệp theo hướng bền vững của vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL
bao gồm cả đô thị hóa, di dân, công nghiệp hóa nông thôn, công nghiệp bổ
trợ
2.2. Đánh giá thực trạng phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm

Bắc Bộ theo hướng bền vững
Phượng + Thảo

4


PHẦN 3
QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP VÙNG KINH TẾ ĐBSCL THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
3.1. DỰ BÁO BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC TÁC ĐỘNG ĐẾN
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG KINH TẾ ĐBSCL THEO HƯỚNG
BỀN VỮNG
3.1.1 Bối cảnh quốc tế
Toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa thương mại tiếp tục phát triển về quy mô,
mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và
thách thức đan xen rất phức tạp. Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng
lớn. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và phân công lao động diễn ra ngày càng sâu
rộng. Sự tùy thuộc lẫn nhau, hội nhập, cạnh tranh và hợp tác giữa các nước ngày
càng trở thành phổ biến.
Các quốc gia thuộc khu vực châu Âu, Nhật Bản và các nền kinh tế mới nổi
được dự báo sẽ có mức tăng trưởng khả quan. Tuy nhiên, tăng trưởng không
đồng đều giữa các quốc gia, đặc biệt là một số nền kinh tế mới nổi và nhiều nước
đang phát triển dự kiến tăng trưởng chậm lại. Tăng trưởng của hai nền kinh tế lớn
là Mỹ và Anh được dự báo không nhiều khả quan do các chính sách kinh tế mới
khó lường của Mỹ và tác động của việc Anh rời khỏi EU. Bên cạnh đó, lạm phát
tại nhiều nước phát triển vẫn thấp hơn mức lạm phát mục tiêu. Tăng trưởng
thương mại toàn cầu năm 2018 dự báo ở mức 3,9%, thấp hơn mức 4% của năm
2017.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cục diện khu vực mới với sự can
dự ngày càng mạnh mẽ của Mỹ, sự lớn mạnh của Trung Quốc và sự dính líu ngày

càng sâu vào các vấn đề khu vực của các cường quốc trên thế giới đã mở ra thời
cơ để các nước trong khu vực phát triển quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ cũng
như với các cường quốc khác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho tăng cường
xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực châu Á - Thái Bình Dương nói
chung, khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Việt Nam ngày càng hội nhập kinh tế quốc tế một cách sâu, rộng hơn với
những thỏa thuận mới. Điển hình như: Hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN
năm 2015; thực hiện đầy đủ Hiệp định Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN-Trung
Quốc (ACFTA) từ 2015-2018; thực hiện các cam kết với WTO, ASEAN +, Diễn
đàn Hợp tác Kinh tế châu Á –Thái Bình Dương (APEC); đàm phán Hiệp định
Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (CP TPP), Hiệp định Đối tác
kinh tế toàn diện khu vực giữa ASEAN và 6 đối tác Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật
Bản, New Zealand, Australia và Trung Quốc (RCEP hay ASEAN + 6); đàm phán
FTA với EU, Hàn Quốc, Liên minh thuế quan Nga-Kazakhstan-Belarus, Hiệp hội
5


Mậu dịch tự do châu Âu -EFTA... “Khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng hơn, kết thúc đàm phán sẽ có 55 FTA với các đối tác kinh tế lớn và trong
khu vực, kể cả tham gia các FTA “thế hệ mới” (TPP, VN-EU FTA). Các FTA tạo
cơ hội lớn cho Việt Nam trong đó có ĐBSCL tiếp cận thịtrường, đẩy mạnh hoạt
động xuất nhập khẩu và thu hút đầu tư, nhất là với các đối tác tự do hóa nhanh
hơn -FTA “thế hệ mới” hoặc có ưu đãi hơn như Hiệp định đối tác kinh tế ViệtNhật (VJEPA).
3.1.2 Bối cảnh trong nƣớc
Kinh tế vĩ mô năm 2018 của Việt Nam được đánh giá sẽ tiếp tục diễn biến
ổn định. Với quá trình đổi mới đang được triển khai tích cực và việc tổ chức
thành công hội nghị APEC trong năm 2017, dự báo các luồng đầu tư vào Việt
Nam năm 2018 sẽ tăng. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt, phối hợp
chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm kiểm
soát lạm phát, duy trì mặt bằng lãi suất hợp lý, ổn định. Tuy nhiên, kinh tế trong

nước cũng phải đối mặt với một số diễn biến khó lường từ xu hướng kinh tế thế
giới như chính sách bảo hộ mậu dịch, chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế lớn có
thể thay đổi sẽ có thể ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu
hàng hóa cũng như việc thu hút các luồng vốn vào Việt Nam.
Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế diễn ra mạnh mẽ, mở ra cơ hội tiếp cận thị
trường và chuyên giao công nghệ trong sản xuất, nâng cao chất lượng, tăng sức
mạnh cạnh tranh về giá sản phẩm. Đồng thời, sự chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, tái cấu trúc các ngành kinh tế của đất nước sẽ được đẩy mạnh, hệ thống
hạ tầng được quan tâm đầu tư, thể chế chính sách được hoàn thiện, nguồn nhân
lực đã có sự thay đổi về số lượng và chất lượng; khoa học và công nghệ ngày
càng được quan tâm đầu tư, mở ra khả năng biến thách thức về tự nhiên thành cơ
hội phát triển kinh tế - xã hội.
Biến đổi khí hậu và nước biển dâng diễn ra nhanh hơn dự báo, gây ra
nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của
người dân. Việc khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn châu thổ, đặc biệt
là xây dựng đập thủy điện đã làm thay đổi dòng chảy, giảm lượng phù sa, suy
giảm nguồn lợi thủy sản, xâm nhập mặn sâu vào nội vùng, tác động tiêu cực đến
phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Mặt trái từ hoạt động phát triển kinh tế với
cường độ cao ở nội vùng bộc lộ ngày càng gay gắt, gây nhiều hệ lụy như: ô
nhiễm môi trường, mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng, sụt lún đất, suy giảm
mực nước ngầm, xâm thực bờ biển, nhiều diện tích rừng tự nhiên, nhất là rừng
ngập mặn, rừng tràm, rừng phòng hộ bị chặt phá, chuyển đổi sang mục đích sử
dụng khác hoặc bị suy thoái nặng nề. Bên cạnh đó, việc khai thác bùn cát quá

6


mức, xây dựng nhà cửa và hạ tầng sát bờ sông, kênh, rạch làm gia tăng nguy cơ
sạt lở.
Những bất cập nêu trên đang và sẽ đe dọa quá trình phát triển của vùng

đồng bằng sông Cửu Long, sinh kế và đời sống người dân trong vùng nói riêng
và cả nước nói chung, qua đó tác động tới khu vực và quốc tế, đặc biệt là vấn đề
an ninh lương thực. Ưu thế tự nhiên cho phát triển trước đây và hiện nay của
đồng bằng sông Cửu Long sẽ thay đổi theo hướng suy giảm tài nguyên nước và
phù sa; sự gia tăng của nước mặn, nước lợ; sụt lún đất và nước biển dâng, sẽ tác
động lớn tới tài nguyên đất, cơ cấu sử dụng đất, các hệ sinh thái và môi trường,
làm thay đổi căn bản mô hình sản xuất, tập quán sinh hoạt, sinh kế và đời sống
của người dân trong vùng.
3.2 QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG KINH TẾ ĐBSCL
THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
3.2.1 Theo Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ ngày 17 tháng 11
năm 2017 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu.
Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp hỗ trợ gắn với
phát triển kinh tế nông nghiệp. Phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu
Long vì lợi ích chung của đất nước, Tiểu vùng sông Mê Công và quốc tế và là sự
nghiệp của toàn dân, khuyến khích, huy động tất cả các tầng lớp, thành phần xã
hội, các đối tác quốc tế và doanh nghiệp tham gia vào quá trình phát triển.
3.2.2 Theo Quyết định số 939/QĐ-TTg của Thủ tƣớng Chính phủ
ngày 19 tháng 7 năm 2012 về việc Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển
kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020:
Phát triển đồng bộ hệ thống các đô thị, khu dân cư và hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội theo hướng thân thiện với môi trường sinh thái gắn
với đồng ruộng, miệt vườn, sông nước và biển đảo;
3.2.3 Theo Quyết định 1092/QĐ-BCT của Bộ Công Thƣơng ngày 12
tháng 03 năm 2012 về việc Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công
nghiệp vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030
Phát triển công nghiệp Vùng Kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu
Long phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với phát triển công nghiệp cả nước,
vùng ĐBSCL và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; phát huy lợi thế của từng

tỉnh trong vùng, hỗ trợ lẫn nhau trên cơ sở phân bố hợp lý về không gian lãnh
thổ, về cơ cấu của các ngành công nghiệp, nhằm đóng vai trò là hạt nhân tăng
trưởng, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội khu vực miền Tây Nam bộ.

7


Đầu tư có trọng điểm vào lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh, có nguồn nguyên
liệu dồi dào; đồng thời từng bước phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng
khoa học và công nghệ cao.
Phát triển công nghiệp hiệu quả và bền vững; bảo đảm an ninh quốc
phòng, an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.
3.2.4 Quyết định 9082/QĐ-BCT ngày 08 tháng 10 năm 2014 của Bộ
Công Thƣơng về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp
hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
Phát triển công nghiệp hỗ trợ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã
hội của đất nước và xu hướng phát triển của thế giới, nhằm đáp ứng nhu cầu nội
địa của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp quốc phòng.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ trên co sở tạo lợi thế cạnh tranh với các
nước trong khu vực và trên thế giứi, nhằm thu hút đầu tư, tiếp cận và đáp ứng
nhu cầu của các tập đoàn quốc gia, than gia ngày càng sâu rộng và mạng lưới sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu trong cac lĩnh vực này.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ hài hòa, bền vững giữa các ngành công
nghiệp, lấy phát triển chiều sâu làm trọng tâm, với các ưu tiên đột phá để tạo ra
các mũi nhon cho phát triển công nghiệp, đảm bảo phát triển bền vững và thân
thiện môi trường.
Phát triển công nghiệp hỗ trợ trên cơ sở huy động nguồn lực từ mọi thành
phần kinh tế, đặc biệt doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài và hệ thống
doanh nghiệp nhỏ và vừa nội địa.
3.3 CÁC HẠN CHẾ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG PHÁT

TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG KINH TẾ ĐBSCL THEO HƯỚNG BỀN
VỮNG
3.3.1 Công nghiệp phục vụ nông thôn
- Định hướng phát triển cho ĐBSCL chưa được rõ ràng, công tác quy
hoạch các khu công nghiệp và quản lý còn nhiều bất cập, chẳng hạn như: còn có
rất nhiều khu công nghiệp, do hạ tầng kết nối chưa tốt nên nhiều khu công nghiệp
tỷ lệ lắp đầy chưa đến 30-40%. Những bất cập, hạn chế trong quy hoạch phát
triển vùng cũng như sự lỏng lẻo trong thực hiện quy hoạch phát triển vùng. Do
thiếu sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương cũng như tính “cục bộ”
trong phát triển, dẫn đến tình trạng quy hoạch tổng thể vùng không được bảo
đảm; đầu tư dàn trải, sự chồng chéo, cạnh tranh nhau trong cơ cấu phát triển
ngành nghề của mỗi địa phương làm cho nguồn lực bị phân tán, tiềm năng của cả
vùng không được phát huy.

8


Kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nhất là hạ tầng giao thông chưa đồng bộ đã hạn
chế trong phát triển công nghiệp trong vùng. Kết cấu hạ tầng không thuận lợi,
đường giao thông bị chia cắt bởi hệ thống kênh rạch, gây khó khăn cho hoạt động
giao thương, buôn bán trong vùng. Hệ thống giao thông thủy, bộ và hệ thống
cảng biển, cảng sông còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của
vùng. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng về giao thông gặp nhiều khó khăn do quá
nhiều sông, kênh rạch chằng chịt, nền đất yếu, chịu ảnh hưởng thường xuyên của
lũ lụt, và thiếu nguồn vốn đầu tư. Toàn vùng có 47.202 km đường bộ, trong đó
đường nhựa và bê tông chỉ chiếm 28% chiều dài hệ thống đường bộ, đường đất
và đường đá dăm chiếm 72%. Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ của vùng còn
nhiều khó khăn, dẫn đến làm tăng chi phí vận chuyển hàng hóa của ngành công
nghiệp phục vụ nông nghiệp. Hiện khoảng 36% doanh nghiệp trong vùng có sản
phẩm bị hư hại do chất lượng giao thông kém, giá điện cũng cao hơn mức trung

bình cả nước...
Bảo vệ môi trường tại các khu công nghiệp chưa được quan tâm đúng
mức. Theo báo cáo của Bộ Khoa học và Công nghệ, đến thời điểm này, vùng
ĐBSCL có 120 khu công nghiệp, cụm công nghiệp được quy hoạch với hơn
26.500 ha. Định hướng đến năm 2020, toàn vùng sẽ có khoảng 240 khu công
nghiệp, cụm công nghiệp, tương đương 50.000ha. Sự gia tăng liên tục về số
lượng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp tại ĐBSCL thời gian qua đã góp
phần quan trọng trong giải quyết bài toán phát triển kinh tế. Thế nhưng, cả vùng
ĐBSCL đã và đang phải đối mặt với những tác động môi trường tiêu cực từ quá
trình hoạt động các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, như: ô nhiễm môi trường
nước, không khí và chất thải rắn. Theo báo cáo về quản lý môi trường tại các
tỉnh, thành ĐBSCL, mỗi năm các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp xả thẳng ra môi trường 47 triệu lít nước thải và 220.000 tấn chất thải
rắn. Đây là tác nhân chính gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
tại các đô thị. Chế biến thủy sản xuất khẩu và chế biến rau quả là những "gương
mặt đen" luôn dẫn đầu trong các ngành sản xuất gây ô nhiễm môi trường.
Thu hút đầu tư chưa được quan tâm lựa chọn cơ cấu ngành nghề, công
nghệ. Chưa có sự quy hoạch đồng bộ nguồn nguyên liệu tập trung tại một số địa
phương, thiếu sự phân bổ cho các tỉnh tập trung sản xuất công nghiệp chế biến,
một số địa phương có lợi thế cho giao dịch thương mại, hậu cần (logistics) chưa
được phát huy do chưa có mối liên kết cụ thể thông qua những chính sách từ
Chính phủ. Điều này dẫn đến 13 tỉnh ĐBSCL đều giống nhau và thậm chí cạnh
tranh nhau. Những tồn tại này cần phải giải quyết để việc thu hút đầu tư vào
ĐBSCL được thuận lợi, nhanh chóng, dự án mời gọi cũng bám sát vào tiềm
năng, thế mạnh của từng địa phương có xét yếu tố tương quan từng tiểu vùng.
9


Đây là vùng trũng về Khoa học và kỹ thuật (KH&KT): kỹ năng, khả năng
áp dụng KH&KT, ứng dụng cơ giới hóa, chuẩn bị nguồn nhân lực cho phát triển

công nghệ cao trong nông nghiệp lẫn công nghiệp và dịch vụ chưa đáp ứng với
trình độ phát triển hiện nay. Trình độ dân trí của vùng còn thấp, tỷ lệ học sinh đi
học ở bậc trung học cơ sở, trung học phổ thông thấp nhất cả nước. Toàn vùng có
tỷ lệ bình quân 85 sinh viên/1 vạn dân, chỉ bằng 1/3 so với tỷ lệ bình quân chung
của cả nước. Tỷ lệ lao động có việc làm đã qua đào tạo chỉ chiếm 10,4%, thấp
nhất so với các vùng miền (mức bình quân chung cả nước là 19,9%); riêng lao
động đã qua đào tạo ở khu vực nông thôn chỉ chiếm khoảng 6%, trong đó số lao
động có trình độ cao đẳng chỉ chiếm khoảng 3%. Tính bình quân, tỷ lệ lao động
được đào tạo của vùng là 14,31%. Do trình độ học vấn của nông hộ thấp, nên
năng lực tiếp thu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất gặp nhiều
khó khăn, vì vậy nhiều hộ vẫn sản xuất theo lối truyền thống. Mặt bằng dân trí
thấp dẫn đến nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp còn
hạn chế về chất lượng, đặc biệt trong nghiên cứu đầu tư và phát triển công nghệ
và trong những ngành đòi hỏi nguồn nhân lực chất lượng cao. Chính vì vậy,
nhiều cơ sở sản xuất vật tư nông nghiệp, chế biến nông sản gặp nhiều khó khăn
trong tuyển dụng lao động.
Nông dân thiếu tầm nhìn xa, chạy theo thị trường, không theo quy hoạch,
nên diện tích nhân rộng một cách ồ ạt, dẫn đến sản lượng tăng đột biến, không
tiêu thụ được. Và điệp khúc “trồng - chặt, chặt - trồng” tiếp diễn mà không có
hồi kết. Tâm lý tiểu nông, chạy theo lợi ích trước mắt, phá vỡ hợp đồng liên kết
kinh tế giữa nông dân và doanh nghiệp cũng làm cho ngành công nghiệp phục vụ
nông nghiệp khó có điều kiện phát triển bền vững.
Hệ thống đào tạo nhân lực của vùng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
nguồn nhân lực cho công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Tính bình quân, 3,37 triệu
dân mới có 1 trường đại học. Việc đào tạo nguồn nhân lực thời gian qua không
hợp lý, các ngành đào tạo về nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp
chưa được chú trọng. Số sinh viên trong vùng theo học ngành kinh tế, tài chính
rất lớn, trong khi những ngành thế mạnh của vùng là nông, lâm, ngư nghiệp thì
số lượng sinh viên theo học ít, chỉ chiếm 10,4%, ngành y 5%, ngành văn hóa nghệ thuật chiếm 1%. Nhu cầu về cơ giới hóa nông nghiệp của vùng đồng bằng
sông Cửu Long rất lớn, là cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp cơ khí máy

nông nghiệp, nhưng việc đào tạo nhân lực cho ngành cơ khí không tương xứng,
không đáp ứng được yêu cầu phát triển. Khoa cơ khí nông nghiệp, Trường Đại
học Cần Thơ, từ năm 1999 đến nay không có sinh viên theo học ngành cơ khí
nông nghiệp.

10


Diện tích đất canh tác nông nghiệp của vùng trong những năm qua liên tục
bị thu hẹp do thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, công trình công cộng và
khu dân cư, trong khi hiệu quả sử dụng của các khu công nghiệp không cao.
Đồng bằng sông Cửu Long hiện có 51 khu công nghiệp và 200 cụm công nghiệp
với diện tích quy hoạch 25 nghìn ha nhưng tỷ lệ lấp đầy chỉ đạt 20%. Vùng hiện
nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong sản xuất nông nghiệp, đó là
thách thức về biến đổi khí hậu và thiếu nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất vào
mùa khô cũng như tình trạng ngập lụt vào mùa lũ.
Sản xuất nông nghiệp của vùng đồng bằng sông Cửu Long về cơ bản vẫn
là sản xuất nhỏ, quy mô đất trên nông hộ chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất lớn, thu
nhập của người nông dân thấp, không có tích lũy để tái đầu tư. Điều này cản trở
việc phát triển ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp của vùng, cả ngành sản
xuất yếu tố đầu vào và tiêu thụ đầu ra vì nông nghiệp nhỏ không có nhu cầu lớn
tiêu thụ sản phẩm công nghiệp cung cấp đầu vào và không đảm bảo số lượng,
chất lượng cho ngành công nghiệp tiêu thụ đầu ra.
3.3.2 Đô thị hóa
Theo Quyết định 1581/QĐ-TTg ngày 9-10-2009 của Thủ tướng Chính
phủ về Quy hoạch xây dựng vùng ĐBSCL đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm
2050, mục tiêu cơ bản và những định hướng đặt ra của quy hoạch xây dựng vùng
ĐBSCL là phát triển cấu trúc không gian toàn vùng theo mô hình đa cực tập
trung. Thành phố Cần Thơ là đô thị hạt nhân kết hợp các hành lang kinh tế sông
Tiền, sông Hậu, quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh, cụm các đô thị trung tâm và

các đô thị nhỏ được phân bố đều dựa trên các vùng nông nghiệp, công nghiệp, du
lịch. Tuy nhiên, qua quá trình thực thi, theo đánh giá của Bộ Xây dựng thì vẫn
còn nhiều hạn chế, yếu kém như: Cấu trúc phát triển không gian vùng chưa hình
thành theo đúng định hướng trong quy hoạch được phê duyệt. Thực trạng trên do
một số nguyên nhân sau:
Thiếu đơn vị điều phối cấp vùng có đủ các điều kiện lập kế hoạch triển
khai cũng như phân công nhiệm vụ, nguồn lực.
Nguồn kinh phí thực hiện quy hoạch hạ tầng kỹ thuật và nguồn vốn đầu tư
cho các dự án còn khó khăn. Một số dự án khó tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là
vốn từ nước ngoài khi chưa có quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật vùng
tỉnh được duyệt
Có những quy hoạch hiện không còn phù hợp, dàn trải, nếu không khắc
phục vấn đề này thì đến năm 2020 ĐBSCL cũng chỉ là vùng tiềm năng chưa
được đánh thức.

11


Chưa có cơ chế đặc thù cho vùng để thu hút đầu tư các dự án hạ tầng, đô
thị; đồng thời đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ yêu cầu phát triển
và theo kịp quy hoạch…
Việc phát triển hạ tầng đô thị của các địa phương vùng ĐBSCL dựa chủ
yếu vào mời gọi các nhà đầu tư hạ tầng theo từng dự án; nên đôi khi chưa thống
nhất với quy hoạch chung và khi điều chỉnh quy hoạch thì phát sinh rất nhiều vấn
đề bất cập. Có đô thị phát triển xong rồi mới có quy hoạch và quy hoạch phải cập
nhật hiện trạng đã có.
Trước thực trạng biến đổi khí hậu tác động lên vùng ĐBSCL, với dự báo
mực nước biển trung bình vùng Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục tăng thêm
23cm đến 27cm vào năm 2050 và tăng 59cm đến 75cm vào năm 2100, nước
dâng lên ở hầu hết các tỉnh, thành trong khu vực sẽ dẫn đến hàng loạt vấn đề khó

khăn cần được giải quyết như: ảnh hưởng đến quy hoạch chung về xây dựng, cấu
trúc đô thị, vấn đề thoát nước của các đô thị vùng Đồng bằng sông Cửu Long
càng khó khăn hơn trước biến đổi khí hậu.
3.3.3 Di dân
Hiện nay, do áp lực của biến đổi khí hậu, làn sóng di dân từ ĐBSCL đang
ngày càng tăng. Làn sóng di cư hiện đang gia tăng trong một thập niên qua đã
khiến vùng ĐBSCL mất đi 1 triệu dân trên tổng dân số 18 triệu người. Cụ thể là
đã có 1,7 triệu dân di cư khỏi vùng này, trong khi chỉ có khoảng 700 ngàn dân
đến định cư ở đây. Tỷ lệ di cư này là cao gấp đôi mức trung bình của cả nước.
Thực trạng trên do một số nguyên nhân sau:
Trước hết quá trình di dân là do ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa, diện
tích đất nông nghiệp dần bị thu hẹp, một phần dân cư chuyển từ nông thôn ra
thành thị sinh sống;
Hiện tượng biến đổi khí hậu gây tình trạng sạt lỡ, xói mòn ở những vùng
ven sông, ven biển. Vì thế, một số người đã phải di cư đến vùng khác sinh sống;
Nhiều hộ gia đình đã phải đi nơi khác kiếm sống do tình trạng ngập mặn
xâm lấn ở một số tỉnh ven biển, ảnh hưởng đến sinh kế của họ. Tình trạng này
càng thêm trầm trọng do việc xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn, chủ
yếu là của Trung Quốc và Lào, cản trở các dòng nước ngọt chảy xuống hạ nguồn,
tức là xuống vùng ĐBSCL. Nước mặn đã vào sâu đến hơn 80 km trong đất liền
khi xảy ra trận hạn hán 2015-2016, trận hạn hán nặng nề nhất trong vòng thế kỷ,
phá hủy ít nhất 160 ngàn ha đất canh tác.
Số khác thì không thể tiếp tục sống ở đây do nạn hạn hán, một hiện tượng
khí hậu vừa là do tác động của biến đổi khí hậu, vừa do các đập thủy điện ở
thượng nguồn.
12


Chính sách tái định cư còn bất cập: Chính phủ Việt Nam đã có chính sách
tái định cư, ưu tiên cho những hộ nghèo và những người dễ bị tổn thương nhất,

bằng cách cho vay với lãi suất thấp để họ có kinh phí di dời nhà ở và xây nhà
mới. Tuy nhiên, chương trình này còn thiếu minh bạch. Phần lớn các hộ nói trên
cho biết thu nhập của họ đã bị giảm sau khi di dời, vì nơi ở mới không thích hợp,
khiến họ không thể trả các khoản vay và thế là lâm vào tình trạng nợ nần chồng
chất.
Một số giải pháp hạn chế di dân không khả thi như: xây đê ngăn lũ nhằm
giảm bớt biến đổi khí hậu. Một số con đê này lại phá hủy hệ sinh thái của vùng.
Người nghèo và những người không có đất canh tác không còn kiếm được nguồn
thủy sản để mưu sinh. Mặt khác, những con đê này ngăn những chất bổ dưỡng tự
nhiên do các nước lũ dẫn về các cánh đồng lúa. Từ đó chẳng những không hạn
chế được tình trạng di cư mà làm cho cuộc sống người dân càng khó khăn hơn.
3.3.4 Công nghiệp hỗ trợ
Hiện nay ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam nói chung và ĐBSCL nói
riêng chưa thật sự phát triển do:
Do chịu ảnh hưởng của cơ chế kinh tế tự cung tự cấp, cơ cấu sản xuất tích
hợp phổ biến theo chiều dọc trong nội bộ doanh nghiệp, mà ít theo chiều ngang
thông qua hợp tác liên kết với các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp Việt
Nam thường tổ chức theo lối khép kín, các phụ tùng linh kiện cần thiết cho lắp
ráp sản xuất đều do bản thân doanh nghiệp lắp ráp tự sản xuất.
Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) chủ yếu vẫn do các doanh nghiệp nhà nước
phần lớn sản xuất, cung cấp những sản phẩm có chất lượng thấp và giá thành cao
(vì công nghệ lạc hậu, quản lý còn yếu,…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các
này. Một bộ phận khác là các hộ kinh doanh cá thể (phần lớn sản xuất những sản
phẩm CNHT cấp thấp) thường gặp khó khăn về vốn và công nghệ.
Nhận thức chưa đầy đủ và rất khác nhau giữa các nhà hoạch định chính
sách và các nhà chính trị về vai trò của CNHT trong thời gian dài là một nguyên
nhân chủ yếu khiến khung pháp lý, chính sách hỗ trợ CNHT chậm được ban hành
và các nỗ lực hỗ trợ CNPT phát triển chậm được hiện thực hóa. Một ví dụ về sự
nhận thức không đầy đủ vai trò của CNHT có thể thấy trong tên gọi của ngành đã
được thể chế hóa. Trước đây, CNHT được nhìn nhận chỉ mang tính “phụ trợ”

(thể hiện vai trò phụ trợ, thứ yếu cho các ngành công nghiệp) trong khi đây được
coi là các ngành cơ bản (là „chân núi‟ (nền tảng) theo tiếng Nhật), rất quan trọng
để tạo ra giá trị gia tăng cao, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và ổn định kinh
tế vĩ mô. Đến nay, trong trong khung pháp lý hỗ trợ CNHT hiện vẫn tồn tại song
hành khái niệm CNHT và công nghiệp phụ trợ.
13


Nhận thức chưa đầy đủ và rất khác nhau về vai trò và phương cách phát
triển CNHT đã khiến khung pháp lý và chính sách thúc đẩy phát triển ngành này
chậm được ban hành và thực thi.
Trong thời gian dài, các chính sách công nghiệp, chính sách phát triển
CNHT còn mang tính can thiệp quá mức, trong khi không tính đến đầy đủ các
điều kiện chủ quan và khách quan để CNHT phát triển thành công. Việt Nam có
chính sách ngành khá tham vọng, nhưng lại thiếu trọng tâm và chưa xác định
được các ưu tiên cụ thể.
Tính kinh tế nhờ quy mô là một yếu tố rất quan trọng bảo đảm thành công
của CNHT. Tuy nhiên, yếu tố này hầu như không được tính đến trong các chiến
lược phát triển công nghiệp ô tô, điện tử.
Động lực phát triển CNHT chưa hấp dẫn, nhất là đối với các nhà đầu tư
nước ngoài khi đầu tư vào các ngành CNHT thâm dụng vốn và chậm sinh lãi.
Đến nay, các biện pháp chính sách thường tập trung vào việc can thiệp
quá mức thông qua bảo hộ, hỗ trợ nhằm bảo vệ một ngành nào đó trước sức ép
cạnh tranh.
Trình độ công nghệ và việc chuyển giao công nghệ vẫn còn rất hạn chế;
Bản thân các doanh nghiệp Việt Nam năng lực tổ chức, quản lý và công
nghệ vẫn còn rất hạn chế, không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu hợp tác kinh
doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp
Nhật Bản, hoặc các doanh nghiệp Hoa Kỳ, châu Âu. Sự thiếu hụt thông tin về các
nhà cung ứng Việt nam đầu vào, phụ kiện và các công ty lớn nước ngoài cũng

khiến việc tìm kiếm, liên kết giữa các doanh nghiệp hết sức khó khăn.
Do hệ thống giáo dục, đào tạo ở Việt Nam còn nhiều yếu kém với chất
lượng thấp, không phù hợp và tụt hậu so với yêu cầu phát triển của CNHT và tiếp
thu, đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, những yếu kém của khu vực doanh nghiệp
nhỏ và vừa và hệ thống dịch vụ phát triển kinh doanh cũng khiến các mối liên kết
khó có thể được tăngcường.
Các nhân tố xã hội - lịch sử cũng ảnh hưởng tới mức độ liên kết. Lòng tin
cậy lẫn nhau, tinh thần hợp tác, kết hợp trong các hoạt động kinh tế - xã hội (còn
gọi là vốn xã hội) của người dân và doanh nghiệp Việt Nam trong thời kỳ hòa
bình vẫn còn rất thấp, khiến việc xây dựng các mối liên kết khó khăn, đôi khi là
không thể, gây nên và làm tăng những chi phí giao dịch không cần thiết. Nguyên
nhân của những bất cập này xuất phát từ các yếu tố văn hóa, giáo dục và lịch sử
Việt Nam và cần có những nghiên cứu chuyên sâu.

14


3.4. GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÙNG
KINH TẾ ĐBSCL THEO HƯỚNG BỀN VỮNG
3.4.1 Công nghiệp phục vụ nông thôn
Thứ nhất, đầu tư đồng bộ cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ
tầng phục vụ ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp.
Tích hợp các quy hoạch theo Luật quy hoạch năm 2017.Thành lập Hội
đồng điều phối cấp vùng. Đẩy mạnh hợp tác công tư trong đầu tư phát triển cơ sở
hạ tầng giao thông, kết nối giữa vùng sản xuất nông nghiệp với các cơ sở chế
biến nông sản; tiếp tục thực hiện tốt Nghị định 210 ngày 19-12-2013 của Chính
phủ về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, Thông tư
số 05/2014 ngày 30-9-2014 của Bộ kế hoạch và đầu tư hướng dẫn thực hiện Nghị
định 210 hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hạ tầng kỹ thuật bên ngoài hàng rào
doanh nghiệp; tiếp tục cải tạo và nâng cấp cảng sông, cảng biển lớn ở Tây Nam

Bộ, tạo thuận lợi cho việc xuất nhập cảnh hàng hóa.
Các tỉnh cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các
thành phần kinh tế tham gia phát triển hệ thống bảo quản nông sản của vùng; đẩy
mạnh triển khai Quyết định số 4051/QĐ-BCT, ngày 10-10-2016 của Bộ Công
thương về việc phê duyệt “Quy hoạch hệ thống kho hàng hóa phục vụ phát triển
công nghiệp chế biến vùng kinh tế trọng điểm Tây Nam Bộ đến năm 2025, tầm
nhìn 2035”.
Kêu gọi đầu tư các ngành công nghiệp theo lợi thế của từng tỉnh thành.
Lựa chọn nhà đầu tư phù hợp.Xây dựng chương trình phát triển các khu công
nghiệp theo hướng bền vững cả về KT, XH và môi trường
Thứ hai, tăng cường phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp
phục vụ nông nghiệp.
Để đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng tốt yêu cầu của ngành công
nghiệp phục vụ nông nghiệp của vùng, cần nâng cao trình độ học vấn cho người
lao động, nhất là lao động trẻ, để họ có đủ điều kiện tiếp thu và sử dụng các thiết
bị, công nghệ mới; tập trung nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học.
Ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành công
nghiệp phục vụ nông nghiệp, như công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy hải sản
xuất khẩu; chế biến rau quả, chế biến thực phẩm, cơ khí phục vụ nông nghiệp và
công nghệ chế biến nông sản; cơ khí sửa chữa, hóa chất...
Rà soát lại hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, cơ sở dạy
nghề có đào tạo những ngành nghề thuộc công nghiệp phục vụ nông nghiệp để
xác định lại những ngành nghề nào còn thiếu chưa đào tạo, những ngành nghề
nào có cơ sở đào tạo nhưng chưa có sinh viên vào học để có những chính sách
15


phù hợp. Cần tăng cường đầu tư nguồn lực cho các trường đại học, viện nghiên
cứu trong vùng, đặc biệt là cho việc đào tạo những ngành trực tiếp liên quan đến
công nghiệp phục vụ nông nghiệp; cần tăng cường đầu tư các loại máy móc, thiết

bị hiện đại phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và đầu tư đào tạo đội ngũ các nhà
khoa học có trình độ cao. Với những ngành còn thiếu, cần khảo sát năng lực của
các trường để hỗ trợ các trường mở thêm mã ngành mới về công nghiệp phục vụ
nông nghiệp.
Chính quyền các địa phương cần dự báo nhu cầu nguồn nhân lực của các
tỉnh theo ngành nghề để hỗ trợ, định hướng cho học sinh lựa chọn ngành nghề
phù hợp, tránh việc lựa chọn những ngành nghề mà vùng không có nhu cầu, gây
lãng phí nguồn lực.
Cần có chính sách hỗ trợ để các trường nâng cao năng lực, chất lượng đào
tạo các ngành nghề thuộc công nghiệp phục vụ nông nghiệp, như ưu tiên, hỗ trợ
giảng viên đi du học, hỗ trợ kinh phí mua sắm các trang thiết bị phục vụ đào tạo
của ngành.
Cần có cơ chế khuyến khích các trường đại học, cao đẳng trong vùng liên
kết đào tạo với các trường đại học lớn ở ngoài vùng để đào tạo những ngành
nghề thuộc công nghiệp phục vụ nông nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
nhân lực của ngành.
Phát triển hình thức đào tạo tại chỗ, đào tạo theo địa chỉ, đào tạo theo hợp
đồng nhằm bổ sung kịp thời lực lượng lao động kỹ thuật cho các nhà máy sản
xuất công nghiệp phục vụ nông nghiệp của vùng, trong đó ưu tiên, hỗ trợ và tăng
cường sự gắn kết giữa cơ sở đào tạo với các doanh nghiệp công nghiệp phục vụ
nông nghiệp của vùng, đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực của các doanh nghiệp
này.
Thứ ba, cần có chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn là điều kiện cho sự phát triển
của ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp vì sản xuất quy mô lớn sẽ tăng hiệu
quả sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, cung cấp đủ số lượng nông sản cho công
nghiệp chế biến. Tập trung, tích tụ ruộng đất là điều kiện cho sản xuất nông
nghiệp hàng hóa lớn. Vì vậy, vùng đồng bằng sông Cửu Long thời gian qua đã
thực hiện tập trung tích tụ ruộng đất bằng dồn điền, đổi thửa, xây dựng cánh

đồng lớn... Tuy nhiên, nhìn chung quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ, manh mún chưa
đáp ứng được yêu cầu xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa lớn. Do vậy, cần có
những chính sách tạo điều kiện cho những người có năng lực về kỹ thuật và khả
năng tài chính làm nông nghiệp giỏi tích tụ và tập trung ruộng đất hình thành các
trang trại. Quy mô trang trại khoảng 10ha nếu trồng cây hàng năm, 30ha nếu
16


trồng cây lâu năm ở đồng bằng, ở miền núi là 50 ha. Các tỉnh cần có những ưu
đãi đặc biệt về vốn, tín dụng, công nghệ, thị trường cho loại hình trang trại để
khuyến khích sản xuất nông nghiệp quy mô lớn.
Cần có các chính sách phân bổ lại nguồn lực đất nông nghiệp theo hướng
tích tụ ruộng đất vào tay những nông dân thực sự có nhu cầu và khả năng kinh
doanh trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với người nông dân chuyển sang nghề
khác hay không muốn canh tác, có thể sang nhượng hoặc chính quyền các tỉnh
đứng ra mua và thuê lại nhằm duy trì quỹ đất nông nghiệp, tạo điều kiện tập
trung đất đai cho những người có khả năng sản xuất.
Tiếp tục hoàn thiện các chính sách về cánh đồng lớn nhằm phát triển nông
nghiệp hàng hóa quy mô lớn. Trong đó, việc liên kết giữa nông dân và doanh
nghiệp trong mô hình cánh đồng lớn với sự hỗ trợ về vốn, vật tư, kỹ thuật của
doanh nghiệp sẽ là điều kiện thúc đẩy sản xuất hàng hóa quy mô lớn.
Tiềm năng, cơ hội phát triển ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp của
vùng đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn nhưng thực tế phát triển chưa tương
xứng, chưa thực sự tạo động lực mạnh mẽ cho nông nghiệp cất cánh. Việc nắm
bắt những thuận lợi, khó khăn trong phát triển ngành công nghiệp phục vụ nông
nghiệp để tìm giải pháp thúc đẩy phát triển là hết sức cần thiết.
3.4.2 Đô thị hóa
Tạo điều kiện thu hút đầu tư cho các đô thị: để phát triển đô thị với đầy đủ
các chức năng, nhiệm vụ thì rất cần chínhsách riêng cho đô thị, nhất là cơ chế
mời gọi đầu tư hạ tầng, tránh tình trạng “lấy đất đổi hạ tầng” làm teo tóp quỹ đất

của các đô thị. Tốc độđô thị hóa ngày càng nhanh, nếu đầu tư không theokịp tốc
độ phát triển sẽ phát sinh nhiều bất cập khó giải quyết. Do vậy, cần hỗ trợ các
địaphương mời gọi đầu tư hạ tầng đô thị, tạo động lực thúc đẩy kinh tế địa
phương, vùngphát triển.
Để Cần Thơ là trung tâm vùng thì rất cần Trung ương hỗ trợ nguồn vốn
ngân sách và tạo điều kiện chothành phố tiếp cận vốn ODA để đầu tư các dự án
lớn có sức lan tỏa vùng; kết nối với cáctrục đô thị thúc đẩy toàn vùng ĐBSCL
phát triển.
Các địa phương cần phối hợp với bộ để rà soát, điều chỉnh quy hoạch cho
phù hợp trong tình hình mới, nhất là các địa bàn có định hướngphát triển đô thị.
Thành phố Cần Thơ là đô thị hạt nhân của vùng, nhất thiết phải quản lý chặt
chẽquy hoạch, đảm bảo tính thống nhất. Các địa phương cần phối hợp để đề xuất
chươngtrình đào tạo và nâng cao trình độ cho cán bộ ngành xây dựng.
Để thích ứng với biến đổi khí hậu, trong chiến lược phát triển hệ thống đô
thị vùng, các địa phương nên lựa chọn các mô hình đô thị nông nghiệp với mô
17


hình đa dạng, có gốc từ di sản định cư truyền thống để xây dựng chiến lược chủ
đạo cho vùng nhằm thích ứng tốt nhất với biến đổi khí hậu trong tương lai. phải
phân nhóm và xây dựng mạng lưới đô thị nông nghiệp vùng gồm: đô thị sông
nước, đô thị thủy sản, đô thị dịch vụ nông nghiệp, đô thị trang trại, đô thị nông
nghiệp với du lịch, đô thị lâm nghiệp, đô thị biển đảo. Đặc biệt, cần có đô thị
nông nghiệp thông minh để tạo động lực mới cho tương lai ĐBSCL ứng phó với
kịch bản biến đổi khí hậu.
Trong phát triển đô thị, cần liên kết để chủ động ứng phó với biến đổi khí
hậu, sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên trong cải tạo, nâng cấp và phát triển đô thị;
tăng cường sự phối hợp trong điều hành, quản lý phát triển đô thị ứng phó với
biến đổi khí hậu.
Các đô thị vùng ĐBSCL cần tập trung giải quyết các vấn đề mang tính

chất liên vùng từ công tác lập quy hoạch, lập chương trình, kế hoạch, dự án ưu
tiên và cơ chế chính sách liên kết phát triển vùng, cũng như triển khai các dự án
cấp vùng; tăng cường tiếp cận nguồn vốn ODA để thực hiện các dự án nâng cấp
hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội cấp vùng để ứng phó biến đổi khí hậu. Cũng như
tăng cường ứng phó với biến đổi khí hậu, khu vực ĐBSCL cần thúc đẩy nghiên
cứu khoa học, phát trển đô thị nước, đô thị sinh thái, quản lý nguồn nước, chống
xâm nhập mặn và phòng chống khả năng ngập, sụt lún, mất đất do nước biển
dâng của vùng.
Đối với các đô thị vùng thượng lưu ĐBSCL, mô hình phát triển đô thị
theo nguyên tắc thích ứng với lũ. Do việc thích ứng tổng thể của vùng này là giữ
lũ và chuyển lũ nên các đô thị cần hạn chế phát triển tập trung, dành không gian
chứa nước và các kênh chuyển nước kết nối với các hồ lớn
Để hạn chế tác động kép của lũ và nước biển dâng, Các đô thị trung tâm
ĐBSCL cần có giải pháp phát triển đô thị vùng này là một mặt dành không gian
giữ nước tạm thời, mặt khác cần kiểm soát lũ bằng đê bao, cống kiểm soát lũ,
triều cường. Đối với đô thị ven biển, chịu tác động của nước biển dâng, triều
cường, xâm nhập mặn thì phát triển đô thị phi tập trung, gắn với không gian mở,
dựa trên khung thiên nhiên rừng ngập mặn, sông nước.
3.4.3 Di dân
Để hạn chế tình trạng di dân khỏi ĐBSCL, cần thực hiện các chính sách
đồng bộ từ thích ứng với biến đổi khí hậu đến tạo chính sách phát triển kinh tế,
xã hội tạo điều kiện cho người dân ĐBSCL có cuộc sống ổn định hơn. Cụ thể:
Cần xem xét lại các kịch bản BĐKH, làm cơ sở cho việc xây dựng các kế
hoạch, chiến lược di dân, tái định cư có tổ chức và các chính sách hỗ trợ tương
ứng. Vấn đề di cư và tái định cư cũng như các biện pháp tăng cường thích ứng
18


với BĐKH cần được lồng ghép vào chính sách, chiến lược, quy hoạch ở Trung
ương và địa phương, kể cả nơi đi và nơi đến.

Đẩy mạnh thực hiện các chương trình cấp quốc gia và cấp địa phương để
cải thiện điều kiện sống, giải pháp sinh kế và khả năng chống chịu cho người di
cư, tái định cư, cộng đồng di dời và cộng đồng tiếp nhận tái định cư.
Thực hiện các nghiên cứu cần thiết để đưa ra các mô hình sinh kế mới,
phù hợp với điều kiện hạn hán, thiếu nước…
Tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế để xây dựng và thực hiện cơ
chế chia sẻ nguồn nước một cách hợp lý giữa các quốc gia vùng Mê Kông mở
rộng (Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam), trong đó có vấn đề
xây dựng, vận hành các công trình thủy lợi, hồ chứa và thủy điện một cách có
trách nhiệm.
3.4.4 Công nghiệp hỗ trợ
Trước hết, tiếp tục phổ biến, nâng cao nhận thức rằng coi phát triển công
nghiệp hỗ trợ là khâu đột phá để nâng cao năng lực cạnh tranh và các ngành
công nghiệp chủ lực, đóng góp phát triển bền vững trong dài hạn. Trên cơ sở
chọn lọc, các tiềm năng, lợi thế so sánh của Việt Nam; phát huy tối đa năng lực
đầu tư của các thành phần kinh tế, đặc biệt là các đối tác chiến lược - các công ty,
tập đoàn đa quốc gia ; và định hướng tập trung theo một số nhóm ngành công
nghiệp để phát huy tối đa hiệu quả cạnh tranh. Cần phải xây dựng lộ trình phát
triển CNHT đặt ở tầm chiến lược quốc gia, với phạm vi phát triển của CNHT
phải được giới hạn với những cân nhắc kỹ càng về mạng lưới sản xuất khu vực
Việt Nam có thể tham gia và định vị chuỗi giá trị toàn cầu.
Hai là, nghiên cứu xây dựng các cơ chế khuyến khích tài chính hấp dẫn
hơn cho đầu tư vào CNHT đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là, tăng cường chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp, nhất là
các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
Bốn là, thực hiện đồng bộ các giải pháp bổ sung và liên quan khác,
thôngvqua: Cần hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các mối liên kết trong nước và
quốc tế; tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.


19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
FTU (2010), Công nghiệp hỗ trợ: kinh nghiệm từ các nước và giải pháp
cho Việt Nam, Nhà xuất bản Thông tin và Truyền thông
Lê Xuân Sang (2007) (đồng chủ biên), Điều chỉnh chính sách thuế và trợ
cấp sau khi gia nhập WTO: Lý luận, kinh nghiệm quốc tế và định hướng chính
sách cho Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, tháng 6/2007.
Lê Xuân Sang (2009) (Đề tài cấp bộ 2008), „Đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài từ các nước đang phát triển và chuyển đổi: Lý luận, kinh nghiệm thực tiễn
và định hướng chính sách cho Việt Nam‟, Hà Nội 2009.
Lê Xuân Sang (2011) (thành viên đề tài cấp bộ, Đề án Bộ Kế hoạch và
Đầu tư), „Phát triển cụm công nghiệp, khu công nghiệp gắn với phát triển công
nghiệp hỗ trợ tạo mạng liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị‟, Hà Nội,
tháng 12/2011.
MPI (2011), Dự thảo Đề án đổi mới và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế giai đoạn 2011-2020.
Nguyễn Đình Phan, Ngô Thắng Lợi (2007), Giáo trình Kinh tế và Quản lý
công nghiệp, Nxb Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Nguyễn Văn Nam, Ngô Thắng Lợi (2010), Chính sách phát triển bền vững
các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà
Nội.
Quyết định số 1483/QĐ-TTG ngày 26 tháng 8 năm 2011 về ban hành
Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển.
Quyết định số 49/2010/QĐ-TTg về việc phê duyệt danh mục công nghệ
cao được ưu tiên đầu tư phát triển và Danh mục sản phẩm công nghệ cao được
khuyến khích phát triển.
Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, tr 242
VDF (2006), Báo cáo của VDF “Công nghiệp phụ trợ Việt Nam dưới góc

nhìn của các nhà sản xuất Nhật Bản”.
VDF (T2/2010), „Điều tra so sánh bối cảnh biện pháp chính sách và kết
quả phát triển Công nghiệp Hỗ trợ ở ASEAN (Malaysia và Thái Lan so sánh với
Việt Nam)‟.

20


×