Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Thẩm quyền của tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------***-------

BỘ TƢ PHÁP

LÊ THỊ OANH

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN VỀ TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------***-------

BỘ TƢ PHÁP

LÊ THỊ OANH

THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN VỀ TRANH CHẤP
KINH DOANH THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phan Hữu Thư

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Lê Thị Oanh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.


BLTTDS :
TTDS :
TAND :

Bộ luật Tố tụng dân sự
Tố tụng dân sự
Tòa án Nhân dân

HN& GĐ :

Hôn nhân và gia đình

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TTHS
TTHC
HĐTP
TNHH

:

:
:
:
:

Tố tụng hình sự

Tố tụng hành chính
Hội đồng thẩm phán
Trách nhiệm hữu hạn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1.

Tính cấp thiết của đề tài................................................................................. 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................... 3

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 4

4.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài ....................................................... 4

5.

Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 5

6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .................................................. 5


7.

Bố cục của luận văn ....................................................................................... 6

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN
CỦA TÒA ÁN VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI ................ 7
1.1 Khái niệm thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại: ......... 7
1.2 Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh
thương mại: ............................................................................................................... 14
1.3 Cơ sở phân định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại:15
1.3.1Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động tư pháp 15
1.3.2 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và các nguyên tắc hiến định
trong hoạt động của Tòa án ....................................................................................... 18
1.3.3 Căn cứ vào những yêu cầu khách quan của thực tiễn đối với việc giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại ........................................................................... 21
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH, THƢƠNG MẠI THEO BỘ LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015.................................................................................... 26
2.1 Thẩm quyền của tòa án theo loại việc ................................................................. 27
2.1.1 Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ
chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. ..................... 28
2.1.2 Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ
chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận. ........................................................... 31
2.1.3 Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về
chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty. ............................... 36


2.1.4 Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công
ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng

quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của
công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp
nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của công
ty. ............................................................................................................................... 36
2.1.5 Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật. ............... 39
2.2 Thẩm quyền của Tòa án các cấp ........................................................................ 40
2.3 Thẩm quyền theo lãnh thổ và thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn .... 45
2.3.1 Thẩm quyền theo lãnh thổ ................................................................................ 45
2.3.2 Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn ................................................ 48
CHƢƠNG 3. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THẨM
QUYỀN CỦA TÒA ÁN VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ VIỆC XÁC ĐỊNH
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH
THƢƠNG MẠI........................................................................................................ 51
3.1 Thực trạng áp dụng quy định về thẩm quyền của tòa án về tranh chấp kinh
doanh thương mại:..................................................................................................... 51
3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc xác định thẩm quyền của Tòa án
về tranh chấp kinh doanh thương mại: ...................................................................... 68
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường đặc biệt là khi nước ta đã gia nhập
tổ chức thương mại thế giới (WTO), các quan hệ kinh doanh ngày càng phát sinh đa
dạng, phong phú và phức tạp hơn. Gắn liền với sự phát triển của các quan hệ kinh

doanh thương mại thì tranh chấp kinh doanh thương mại sẽ xảy ra càng ngày càng
nhiều, từ đó đòi hỏi pháp luật phải có một cơ chế hiệu quả để giải quyết các tranh
chấp, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể tham gia vào các
hoạt động kinh doanh thương mại. Đồng thời là công cụ để Nhà nước quản lý trật tự
xã hội, kinh tế.
Sự phát triển của nền kinh tế tạo ra sự hình thành những phương thức giải quyết
tranh chấp thuận lợi, nhanh chóng, linh hoạt và chính xác, các phương thức giải
quyết đều đảm bảo quyền tự định đoạt, quyền dân chủ và bình đẳng của các bên
tranh chấp. Hiệu quả việc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại có ý nghĩa
quan trọng để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Một cơ chế để giải quyết
tranh chấp kinh doanh, thương mại thuận lợi, đạt hiệu quả nhanh chóng, đáng tin
cậy và minh bạch là nhân tố quan trọng trong việc xây dựng một môi trường kinh
doanh lành mạnh cho sự phát triển kinh tế.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nâng cao
hiệu quả xét xử của Tòa án luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm.
Trong xu hướng cải cách nền tư pháp ở nước ta hiện nay thì Tòa án được coi là
trung tâm. Điều này đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết 08/ NQ- TW ngày
02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị
quyết 48/ NQ- TW ngày 24/05/2005 về chiến lược xây dựng và hệ thống hoàn thiện
pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020; và được nhấn mạnh
trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 (sau đây gọi là Nghị quyết 49). Nghị quyết 49 được
ban hành là kết quả nối tiếp những nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư


2

pháp trong thời gian tới, những đề cập toàn diện nhiệm vụ cải cách tư pháp trong
giai đoạn từ 2006 đến 2020 nhằm góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ đất nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền

Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế của đất nước. Cải cách tư
pháp với mục tiêu “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được
tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.
BLTTDS năm 2004 ra đời không chỉ là văn bản pháp luật có trình độ pháp điển
hóa cao, thống nhất cả tố tụng dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân
và gia đình, mà quan trọng hơn là tạo hành lang pháp lý, đáp ứng yêu cầu giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại được đúng đắn, nhanh chóng và kịp thời. Tuy
nhiên sau một thời gian áp dụng BLTTDS năm 2004, nhất là trong giải quyết các
tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục tố tụng tư pháp đã sớm bộc lộ những
vướng mắc, hạn chế. Ngày 25/11/2015, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật
Tố tụng dân sự sửa đổi (BLTTDS năm 2015). BLTTDS năm 2015 tiếp tục kế thừa
những quy định còn phù hợp, đồng thời đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới
nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
2011), bảo đảm tính thống nhất và phù hợp với hệ thống pháp luật. Một trong
những nội dung cơ bản trong BLTTDS năm 2015 là sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền
của Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, trong đó có các tranh chấp kinh
doanh thương mại. BLTTDS năm 2015 có hiệu lực thi hành ngày 01/07/2015, tính
đến nay đã hơn một năm áp dụng giải quyết các tranh chấp về kinh doanh thương
mại. Nhưng sau hơn một năm áp dụng BLTTDS năm 2015 về giải quyết các tranh
chấp kinh doanh thương mại thì nhận thấy vẫn chưa khắc phục được hết những hạn
chế, khó khăn của BLTTDS năm 2004 (sửa đổi bổ sung năm 2011). Đó là thực tiễn
việc giải quyết tranh kinh doanh thương mại bằng con đường Tòa án vẫn cho thấy
quyền và lợi ích các bên đương sự chưa được đảm bảo và hoạt động xét xử của Tòa
án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc dẫn đến việc giải quyết án kéo dài, không đạt
được hiệu quả cao, dễ gây phiền hà, mệt mỏi cho các đương sự.


3


Xuất phát từ những yêu cầu trên, tôi chọn “ Thẩm quyền của Tòa án về tranh
chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” để thực hiện luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các vấn đề liên quan đến giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, trong
đó có nội dung về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại đã
được đề cập với những mức độ khác nhau trong một số công trình nghiên cứu độc
lập hoặc là các bài viết về vấn đề này. Chẳng hạn như:
*Trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời:
-

Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Đào Văn Hội với đề tài: “ Giải quyết
tranh chấp kinh tế trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam” bảo vệ
2003.

-

Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Kim Vinh với đề tài: “ Pháp luật
về giải quyết tranh chấp kinh doanh bằng con đường Tòa án ở Việt Nam”
bảo vệ 2003.

-

Bài viết “ Xác định thẩm quyền theo vụ việc của Tòa án” của Tiến sĩ Phan
Chí Hiếu đăng trên tạp trí Nghiên cứu lập pháp số 2 năm 2004.
*Sau khi BLTTDS năm 2004 ra đời đến nay được thay thế bởi BLTTDS

năm 2015:
-


Tác giả Viên Thế Giang với bài: “ Thẩm quyền giải quyết kinh doanh theo
Bộ luật tố tụng dân sự 2004” đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật số 12
năm 2005.

-

Tiến sĩ Phan Chí Hiếu với bài “ Thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh theo Bộ luật Tố tụng dân sự và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi
hành” đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 12 năm 2005.

-

Tác giả Vũ Hồng Vân với bài “ Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh
doanh, thương mại của Tòa án theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2004” đăng trên
tạp trí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội số 4 năm 2008.


4

-

Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn Thị Hiên với đề tài “ Thẩm
quyền dân sự theo loại việc của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại” bảo vệ năm 2014…

Đây đều là các công trình nghiên cứu trước khi BLTTDS năm 2015 ra đời. Tuy
nhiên sau khi BLTTDS năm 2015 ra đời có một số điểm mới về thẩm quyền của
Tòa án về tranh chấp kinh doanh, thương mại cần được nghiên cứu và luận giải.
Bản luận văn “Thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại

và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” là công trình được nghiên cứu một cách chuyên
sâu, toàn diện về cả lý luận, pháp lý và thực tiễn vấn đề này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề
lý luận cơ bản về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại;
những quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại; thực trạng áp dụng và một kiến nghị nhằm nâng
cao hiệu quả của việc xác định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh
thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp
kinh doanh thương mại và có sự phân biệt với thẩm quyền của Trọng tài thương mại
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại; nghiên cứu về quy định của
pháp luật tố tụng Việt Nam về thẩm quyền tranh chấp kinh doanh thương mại, cụ
thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Thủ tục phúc thẩm, thủ tục giám đốc
thẩm, thủ tục tái thẩm , thủ tục đặc biệt không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận
văn.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài đặt ra mục tiêu làm rõ các quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm
quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại và thực tiễn áp dụng tại Tòa
án. Trên cơ sở luật thực định và thực tiễn áp dụng, luận văn sẽ xác đinh, đánh giá


5

những hạn chế và nguyên nhân gây tác động xấu đến quá trình giải quyết tranh chấp
kinh doanh, thương mại nhằm nâng cao giải pháp hiệu quả việc xác định thẩm
quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại.
Để đạt mục tiêu trên đề tài đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
-


Làm rõ các vấn đề lý luận về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh
doanh thương mại;

-

Phân tích các quy định của BLTTDS năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại;

-

Chỉ ra những hạn chế trong quy định của pháp luật Tố tụng dân sự về thẩm
quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại có thể gặp trong thực
tiễn;

-

Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại không hiệu quả;

-

Đưa ra một số kiến nghị nhằm đảm bảo thực thi các quy định của BLTTDS
về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu và hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, để đạt được mục tiêu đề tài đặt ra,
luận văn đã sử dụng phối hợp các phương pháp chuyên ngành như: Phương pháp
phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tiễn.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
-Ý nghĩa khoa học:
+ Đưa ra và đánh những điểm mới về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp
kinh doanh thương mại được quy định trong BLTTDS năm 2015.
+ Chỉ ra những hạn chế còn tồn tại về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp
kinh doanh thương mại được quy định trong BLTTDS năm 2015


6

+ Đưa ra giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao hiệu quả việc xác định thẩm
quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại.

-Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu có thể được dùng để làm tài liệu tham khảo cũng như
tạo những gợi ý có những giá trị cho các nhà làm luật hoàn thiện hơn về hệ
thống pháp luật về tranh chấp kinh doanh thương mại.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
được kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thẩm quyền của Tòa án về tranh
chấp kinh doanh thương mại.
Chương 2: Quy định về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh
thương mại theo Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Chương 3: Thực trạng quy định của pháp luật về thầm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả việc xác định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương
mại.



7

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN
VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH THƢƠNG MẠI
1.1 Khái niệm thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thƣơng mại:
Trong bộ máy nhà nước mỗi cơ quan đều thực hiện các chức năng khác nhau.
Khái niệm thẩm quyền gắn liền với chức năng nhiệm vụ của các cơ quan tổ chức
trong bộ máy Nhà nước, vì thế Nhà nước trao cho các cơ quan này những thẩm
quyền riêng và có sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của chúng. Tòa án với chức
năng xét xử không phải là ngoại lệ. Tòa án là cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải
quyết các loại tranh chấp, yêu cầu trong đó có tranh chấp kinh doanh thương mại.
Việc quy định thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án về tranh
chấp kinh doanh thương mại nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo
quyền tiếp cận công lý của công dân, tạo điều kiện thuận lợi cho họ có thể thực hiện
quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Để có thể hiểu rõ thẩm
quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại thì chúng ta cần làm rõ các
khái niệm đó là: tranh chấp kinh doanh thương mại, thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại.
Về nguyên tắc TAND có thẩm quyền giải quyết nhiều loại tranh chấp khác
nhau, trong đó có tranh chấp kinh doanh thương mại. Thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại tuy đều phát sinh trong hoạt động tố tụng dân sự
nhưng do nó gắn liền với tính chất quan hệ pháp luật kinh doanh thương mại nên
cũng có những đặc điểm khác biệt cơ bản so với thẩm quyền dân sự khác. Vì vậy,
khi nghiên cứu về khái niệm thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh
thương mại cần xem xét khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại.
Trong nghiên cứu khoa học luật, chúng ta thường đề cập đến các khái niệm
tranh chấp kinh tế, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp thương mại hoặc tranh chấp
kinh doanh thương mại. Xét ở những khía cạnh nhất định, chúng là những khái
niệm có nội hàm rộng hẹp khác nhau.



8

Tranh chấp thương mại hay tranh chấp kinh doanh là thuật ngữ quen thuộc
trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên khái niệm này mới
được sử dụng rộng rãi và phổ biến ở nước ta trong những năm gần đây. Trước đây,
khi nền kinh tế Việt Nam còn mang nặng tính bao cấp, các quan hệ kinh tế tập thể
và mang tính quốc hữu. Các quan hệ kinh tế chủ yếu phát sinh giữa các chủ thể nằm
trong sự quản lý của Nhà nước, lúc này chưa có thuật ngữ “ tranh chấp kinh doanh
thương mại” mà chỉ đề cập đến tranh chấp kinh tế để chỉ các tranh chấp nói trên.
Thuật ngữ “ tranh chấp kinh tế” là một thuận ngữ có nội hàm rộng, bao gồm cả
yếu tố quản lý và yếu tố chính trị - xã hội liên quan đến hoạt động kinh doanh. Theo
đó, khái niệm tranh chấp kinh tế đã được một số nhà nghiên cứu đưa ra như sau:
“ Tranh chấp kinh tế là những tranh chấp xảy ra trong quá trình kinh doanh hoặc
liên quan đến hoạt động kinh doanh, thể hiện sự bất đồng về quan điểm, sự không
thống nhất về lợi ích kinh tế của các bên về thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ kinh tế”
“ Tranh chấp kinh tế là sự bất đồng, mâu thuẫn xung đột về quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể kinh tế liên quan đến lợi ích kinh tế trong quá trình kinh doanh”
Qua một số khái niệm mà các nhà nghiên cứu đưa ra, có thể thấy rằng các nhà
nghiên cứu cho dù phản ánh dưới tên gọi khác nhau song đều có những điểm chung
khi đưa ra khái niệm tranh chấp kinh doanh.
“ Tranh chấp kinh tế là sự bất đồng chính kiến về một sự kiện pháp lý, là sự mâu
thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia vào
quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau”
“ Tranh chấp kinh doanh được hiểu là những mâu thuẫn bất đồng ý kiến giữa các
chủ thể kinh doanh với nhau hoặc với các bên có liên quan khi họ tham gia quan hệ
kinh doanh, phát sinh do một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa
vụ pháp lý của mình”.



9

Các nội dung đưa ra đều phản ánh nội dung: Tranh chấp kinh doanh là sự bất
đồng, mâu thuẫn, xung đột về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể, hoặc các bên liên
quan khi họ tham gia quan hệ kinh doanh. Tranh chấp này phát sinh khi một hoặc
các bên không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình.
Ngoài ra, khi có sự ra đời của Luật Thương mại 1997, bên cạnh các thuật ngữ
“tranh chấp kinh doanh”, “tranh chấp kinh tế” còn xuất hiện thêm thuật ngữ “ tranh
chấp thương mại”. Theo Điều 238 Luật Thương mại thì “ tranh chấp thương mại là
tranh chấp phát sinh do viêc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng trong hợp
đồng thương mại”, tức là sự thỏa thuận giữa thương nhân với thương nhân, thương
nhân với các bên có liên quan nhằm xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
giữa các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và
xúc tiến thương mại.
Trên thực tế, khi xây dựng về thẩm quyền của Tòa án trong BLTTDS 2004, đã
có nhiều tranh luận xung quanh nội hàm của hai thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh”
và “tranh chấp thương mại”. Có ý kiến thì cho rằng nội hàm của “tranh chấp thương
mại” hẹp hơn “ tranh chấp kinh doanh” căn cứ theo Điều 238 và Điều 4 Luật Doanh
nghiệp 2005 : “ kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số, hoặc tất cả các
công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Do đó tranh chấp thương mại chỉ
là một dạng của dạng tranh chấp kinh doanh, nó phát sinh từ hoạt động kinh doanh
và có quan hệ chặt chẽ với hoạt động kinh doanh. Trong khi đó có luồng quan điểm
cho rằng “ tranh chấp thương mại” rộng hơn “tranh chấp kinh doanh”, quan điểm
này phù hợp với pháp luật quốc tế. Từ sự bất đồng quan điểm dẫn tới việc BLTTDS
2004 đã dùng biện pháp tình thế khi xây dựng các quy định trong BLTTDS đó là sử
dụng ghép hai thuật ngữ “ tranh chấp kinh doanh, thương mại”.
Về cơ bản tranh chấp kinh doanh thương mại có đặc điểm sau:

+ Các bên tranh chấp (chủ thể tranh chấp) thường là các doanh nghiệp hoặc giữa
các chủ thể liên quan đến thành lập, tổ chức, hoạt động của các doanh nghiệp.


10

+ Nội dung tranh chấp phát sinh từ những hoạt động kinh doanh của các chủ thể.
+ Các tranh chấp này chính là sự biểu hiện ra bên ngoài, là sự phản ánh của những
xung đột về mặt lợi ích kinh tế của các bên.
Ở nước ta, trong cơ chế quản lý tập trung, kế hoạch trước đây, do các doanh
nghiệp bị đặt trong quan hệ cấp phát – giao nộp theo chỉ tiêu pháp lệnh của cấp trên,
Nhà nước lo “đầu vào” và lo cả “đầu ra”, vì vậy doanh nghiệp không có quyền và
cũng không quan tâm đến mối quan hệ hợp đồng với các bạn hàng của mình. Mặc
dù vậy, trong cơ chế đó vẫn có những tranh chấp xảy ra. Tranh chấp kinh tế lúc đó
là biểu hiện những mâu thuẫn nội bộ của một hệ thống kinh tế phát triển thống nhất
nhưng vẫn còn chưa có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất; những tranh chấp này cũng có tính tác động dây truyền với
nhau, một tranh chấp xuất hiện kéo theo nhiều tranh chấp khác, do quá trình sản
xuất xã hội là liên tục. Chính vì vậy, giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là một
nhu cầu tất yếu khách quan.
Tùy thuộc vào trình độ phát triển của các quan hệ kinh tế xã hội và do những
ảnh hưởng của những đặc điểm về phong tục, tập quán, cơ chế giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại được pháp luật của mỗi quốc gia quy định không giống
nhau. Tuy nhiên xuất phát từ đặc trưng riêng của hoạt động kinh doanh là mục đích
lợi nhuận và nhu cầu điều chỉnh của pháp luật, việc giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại có thể bằng phương thức như thương lượng, hòa giải, trọng tài và
tòa án. Có thể nói rằng, mỗi hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh,
thương mại đều có những đặc điểm và hạn chế nhất định, chỉ có các đương sự và
luật sư của họ mới hiểu rõ cần đến hình thức giải quyết tranh chấp nào trong những
vụ việc cụ thể. Thực tiễn giải quyết tranh chấp kinh doanh hiện nay ở các nước trên

thế giới như Anh- Mỹ, Đức, Pháp… thì các hình thức như thương lượng, hòa giải,
trọng tài chiếm ưu thế, còn ở Việt Nam thì việc giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại bằng con đường Tòa án đóng vai trò quan trọng nhất, được các chủ thể
tranh chấp lựa chọn. Việc đưa tranh chấp ra xét xử Tòa án có nhiều ưu điểm nhưng
cũng có những nhược điểm nhất định. Giải quyết tranh chấp bằng Tòa án là hình


11

thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán Nhà nước thực hiện. Tòa án nhân
danh quyền lực nhà nước. Do đó các đương sự thường tìm đến sự trợ giúp của Tòa
án như một giải pháp để bảo vệ có hiệu quả các quyền, lợi ích của mình khi họ thất
bại trong việc sử dụng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải và cũng không muốn đưa
vụ tranh chấp của họ để giải quyết bằng trọng tài1. So với phương thức giải quyết
tranh chấp bằng con đường trọng tài thì giải quyết tranh chấp tại Tòa án đã bộc lộ
nhiều ưu thế hơn hẳn về trình tự thủ tục tố tụng chặt chẽ, tính khả thi của hiệu lực
phán quyết. Thông thường thì hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương
mại thông qua Tòa án được tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng
không có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không thỏa thuận đưa vụ tranh chấp
ra giải quyết tại trọng tài. Bên cạnh đó theo tinh thần của Luật Trọng tài thương mại
2010 và Nghị quyết số 01/2014/NQ- HĐTP thì khi đã có thỏa thuận trọng tài và
thuộc quy định tại Điều 2 Luật trọng tài thì luôn dành quyền ưu tiên cho trọng tài có
thẩm quyền giải quyết thể hiện sự tôn trọng rất cao về thỏa thuận của hai bên trong
việc lựa chọn Trọng tài giải quyết.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin thì mỗi cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền trong một lĩnh vực nhất định. Phạm vi hoạt động và quyền năng
pháp lý của cơ quan Nhà nước do pháp luật quy định được hiểu là thẩm quyền của
các cơ quan Nhà nước đó. Trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì Tòa án là cơ quan
thực hiện quyền tư pháp chủ yếu. Tòa án thực hiện thẩm quyền của mình trong việc
xét xử vụ án hình sự, vụ việc dân sự, HN& GĐ, lao động, kinh tế, hành chính, và

giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật để bảo vệ pháp chế XHCN;
bảo vệ chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ quyền tài sản của Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhâm phẩm của công
dân 2, 3 . Việc nghiên cứu để đưa ra khái niệm khoa học về thẩm quyền của tòa án
có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về thẩm quyền
của Tòa án.

1

Nguyễn Như Phát, “ Pháp luật tô tụng và các hình thức tố tụng kinh tế” ,Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
11/2001, tr.32.
2
Luật tổ chức tòa án nhân dân 2002, Nxb . CTQG, Hà Nội.
3
Luật tổ chức tòa án nhân dân 2014, Nxb. CTQG, Hà Nội.


12

Thuật ngữ “thẩm quyền” theo nghĩa nguyên thủy bắt nguồn từ tiếng La tinh là
“compotenia”, gồm có hai nghĩa là, phạm vi các quyền hạn của các cơ quan, người
có chức vụ nào đó, hoặc phạm vi những kiến thức kinh nghiệm mà ai đó có. Ý
nghĩa đầu trong khoa học pháp lý và quản lý thường được hiểu bằng thuật ngữ
“thẩm quyền pháp lý”, ý nghĩa thứ hai là “thẩm quyền chuyên môn”.4
Dưới góc độ ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng việt định nghĩa “thẩm quyền” là
quyền xem xét để kết luận và định đoạt một vấn đề pháp luật5. Theo cách giải nghĩa
này, thẩm quyền được hiểu là việc một cơ quan Nhà nước được phép tự mình nhận
sự việc và đưa ra ý kiến riêng để giải quyết vấn đề một cách phù hợp theo quy định
của pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, theo từ điển Luật học của Việt Nam, thẩm quyền là tổng

hợp các quyền và nghĩa vụ hành động và quyết định của các cơ quan, tổ chức thuộc
bộ máy Nhà nước do pháp luật quy định6. Trong từ điển luật học của Pháp, thuật
ngữ thẩm quyền (competence) được hiểu là khả năng mà pháp luật trao cho cơ quan
công quyền hoặc cơ quan tài phán thực hiện công việc nhất định hoặc thẩm cứu và
xem xét một vụ kiện7. Trong từ điển Luật học của Mỹ, thẩm quyền được hiểu là một
khả năng cơ bản và tối thiểu để cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một việc
gì theo pháp luật8. Điểm chung của Tòa án đều được các nước thừa nhận là quyền
xem xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn trong
việc ra các quyết định khi giải quyết các vụ việc đó. Quyền xem xét giải quyết vụ
việc và quyền ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó là hai nội dung quan trọng
có mối quan hệ mật thiết với nhau tạo thành thẩm quyền của Tòa án.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm thẩm quyền đã được nhiều tác giả nghiên cứu
và cũng có nhiều quan niệm khác nhau về thẩm quyền của Tòa án. Trong TTDS,
theo TS. Lê Thị Hà thì thẩm quyền của tòa án là “ toàn bộ những quyền do pháp

4

Trần Quang Anh (2016), Thẩm quyền của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp về dân sự, khóa luận tốt
nghiệp 2016.
5
6

Từ điển Tiếng Việt , Viện ngôn ngữ học , Nxb. Đà nẵng, 2003, tr.922.

Từ điển Luật học (1999), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, tr. 459.
Lexique des termes juridique, Dalloz, 2001. Tr. 122.
8
Black’s Law dictionary, West Publishing Co. 2001. Tr. 298.
7



13

luật quy định theo đó tòa án tiến hành xem xét, giải quyết những vụ việc cụ thể theo
quy định của pháp luật”.9 Trong TTHS, TS.Nguyễn Đức Mai quan niệm thẩm
quyền của Tòa án là một thể thống nhất bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ
với nhau đó là thẩm quyền về mặt hình thức và thẩm quyền về nội dung. Thẩm
quyền về hình thức của Tòa án được thể hiện ở thẩm quyền xét xử và giới hạn
(phạm vi) xét xử của các cấp Tòa án đối với các vụ án. Thẩm quyền về nội dung (
hay quyền hạn) của Tòa án xác định Tòa án có quyền quyết định các vấn đề cụ thể
về các vụ án khi xem xét chúng. Trong TTHC, thẩm quyền của Tòa án là “ phạm vi
thực hiện quyền lực Nhà nước của Tòa án trong việc giải quyết các hành chính
giữa một bên là công dân, tổ chức và bên kia là cơ quan công quyền, theo thủ tục tố
tụng hành chính nhằm đảm bảo và bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân”.10
Như vậy có thể thấy rằng, các tác giả đều thừa nhận thẩm quyền của Tòa án bao
gồm các quyền khác nhau của Tòa án khi giải quyết vụ việc, đó là Tòa án sẽ xác
định cụ thể những loại vụ việc nào thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và Tòa
án có quyền ra những quyết định gì khi giải quyết vụ việc đó.
Dựa trên những tìm hiểu và phân tích trên về thẩm quyền và thẩm quyền của
Tòa án có thể hiểu một cách đơn giản như sau : “ Thẩm quyền của Tòa án là quyền
mà Tòa án dựa trên các quy định của pháp luật được phép xem xét giải quyết một
vụ việc cụ thể trong các lĩnh vực khác nhau như hành chính, hình sự hay dân sự,
nhằm đưa các bản án, quyết định khi giải quyết vụ việc đó” .
Theo đó, qua tìm hiểu khái niệm về thẩm quyền của tòa án và khái niệm tranh
chấp kinh doanh thương mại có thể đưa ra khái niệm thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại trong tố tụng dân sự như sau: “Thẩm quyền của
Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại là quyền mà Toà án xem xét giải
quyết các tranh chấp về kinh doanh thương mại và quyền ra các quyết định khi xem


9

Lê Thị Hà (2005), Phân cấp thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự trong hệ thống tòa án ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Hà Nội, tr 15.
10
Giáo trình Luật tố tụng hành chính Việt Nam(2008), Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAND, Hà
Nội,tr. 70.


14

xét, giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định của pháp luật
TTDS”.
1.2 Ý nghĩa của việc xác định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh
doanh thƣơng mại:
Thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại đã được quy
định trong pháp luật TTDS một cách cụ thể và phù hợp. Các quy định này có tác
động trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của đương sự cũng như lợi ích của Nhà nước và
các bên liên quan. Quy định về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh
thương mại có những ý nghĩa sau:
Một là, các quy đinh về thẩm quyền về tranh chấp kinh doanh thương mại là cơ
sở pháp lý để Tòa án thụ lý, giải quyết các vụ việc về tranh chấp kinh doanh thương
mại. Trong kinh doanh, thương mại việc xảy ra những tranh chấp hay yêu cầu mà
các bên không thương lượng được là không thể tránh khỏi, vì thế Tòa án là cơ quan
không thể thiếu để giải quyết những vụ việc đó. Xác định đúng thẩm quyền của Tòa
án về tranh chấp kinh doanh thương mại sẽ là yếu tố quan trọng, đầu tiên cho việc
giải quyết đúng đắn các tranh chấp, yêu cầu về kinh doanh thương mại tại TAND.
Tòa án nhân dân là cơ quan sử dụng quyền lực Nhà nước, có chức năng xét xử
và giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong xã hội. Các quy định về thẩm quyền
của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại là cơ sở pháp lý để quy định cho

Tòa án có quyền xem xét và giải quyết các tranh chấp trên. Từ đó phân biệt được
thẩm quyền của Tòa án mình với Tòa án khác, với các cơ quan Nhà nước khác.
Hai là, các quy định về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh, thương
mại là cơ sở để đương sự thực hiện quyền khởi kiện, để yêu cầu Tòa án giải quyết
các tranh chấp kinh doanh thương mại theo thủ tục TTDS. Khi các tổ chức tham gia
vào quan hệ kinh doanh thương mại mà thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm mà
không tự giải quyết được, những quy định này sẽ giúp các cá nhân, tổ chức xác định
được những yêu cầu, tranh chấp của mình có được giải quyết tại Tòa án theo thủ tục


15

tố tụng dân sự hay không? Giải quyết tại Tòa án nào? Điều này còn đảm bảo cho
quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân từ đó bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mình.
Ba là, các quy định về thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương
mại là cơ sở để phân định các loại thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc, phân định
thẩm quyền của Tòa án với thẩm quyền của các tổ chức Trọng tài thương mại, phân
định thẩm quyền của Tòa án các cấp, theo lãnh thổ cũng như theo sự lựa chọn của
nguyên đơn.
Ngoài ra, việc quy định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thương
mại giúp xác định thẩm quyền của tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại một
cách hợp lý và khoa học có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định những điều kiện
về chuyên môn, nghiệp vụ cần thiết của đội ngũ cán bộ ở mỗi Tòa án và các điều
kiện khác, trên cơ sở đó có kế hoạch đáp ứng bảo đảm cho Tòa án thực hiện được
chức năng, nhiệm vụ.
1.3 Cơ sở phân định thẩm quyền của Tòa án về tranh chấp kinh doanh thƣơng
mại:
Việc phân định thẩm quyền của Tòa án nói chung và thẩm quyền của Tòa án về
tranh chấp kinh doanh thương mại nói riêng phải dựa vào những cơ sở có tính khoa
học được đúc kết từ những thực tiễn khách quan. Do đó, các nhà làm luật đã phải

cân nhắc và dự liệu mọi khả năng, tình huống để xây dựng quy định thẩm quyền
cho mỗi cấp Tòa án. Như vậy, để quy định và phân định thẩm quyền của Tòa án,
cần dựa vào các cơ sở sau:
1.3.1 Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hoạt động tư
pháp
Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị được
khẳng định trong suốt quá trình lịch sử trong 87 năm kể từ khi thành lập. Điều này
cũng được thể hiện tại Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam 2013 đã khẳng định tuyệt
đối vai trò của Đảng lên Nhà nước và xã hội:


16

“ Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại
biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả
dân tộc, theo chủ nghĩa Mác- Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo của Nhà nước và xã hội.”
Đảng đã đề ra các chủ trương, vạch ra đường lối, phương hướng phát triển xã
hội, hoàn thiện nhà nước cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật để thực hiện
nguyện vọng của toàn thể nhân dân. Thực tế, pháp luật là sự thể chế hóa đường lối
chính sách của Đảng thành những quy định chung, thống nhất trong toàn xã hội.
Trong lĩnh vực pháp luật về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại, các
đường lối, chính sách thể hiện trong nghị quyết của Đảng luôn là căn cứ để các nhà
làm luật xây dựng các quy định pháp luật phù hợp. Năm 1972, Hội nghị Ban chấp
hành TW Đảng đã ra nghị quyết trong đó chỉ rõ cần phải: “xóa bỏ lối quản lý hành
chính cùng cấp, thực hiện quản lý kinh doanh theo phương thức xã hội chủ nghĩa,
khắc phục cách quản lý thủ công, phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ
chức của nền công nghiệp lớn”. Đến cuối năm 1973, Ban chấp hành TW Đảng
cũng đề ra nhiệm vụ: “phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện các
nghị quyết đó của Ban chấp hành TW Đảng, chính phủ đã ban hành ra hai nghị

quyết đó là Nghị định số 54/NĐ-CP ngày 10/03/1975 về chế độ hợp đồng kinh tế và
Nghị định 75/NĐ-CP ngày 14/04/1975 về điều lệ tổ chức và hoạt động của Trọng
tài kinh tế. Theo đó, trọng tài kinh tế có chức năng quản lý công tác hợp đồng kinh
tế với nội dung: giữ vững tính kỷ luật nhà nước về hợp đồng kinh tế, giải quyết các
tranh chấp hợp đồng kinh tế và xử lý các vi phạm hợp đồng kinh tế.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986 ) đã đưa ra chủ trương với quyết tâm:
Triệt để xóa bỏ cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp chuyển sang nền kinh tế nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó,Đảng ta đã đặt ra nhiệm vụ phải cải cách Bộ máy
Nhà nước nhằm xây dựng bộ máy gọn nhẹ và làm cho hoạt động của Nhà nước nói
chung và hoạt động tư pháp nói riêng có hiệu quả cao. Trước nhiệm vụ đó, ngày
28/12/1993, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật tổ
chức Tòa án nhân dân (TAND), thành lập Tòa kinh tế thuộc hệ thống TAND. Ngày


17

16/03/1994, Quốc hội đã thông qua pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế đã quy định thẩm quyền giải
quyết các vụ án kinh tế của Tòa án với phạm vi rộng hơn các văn bản pháp luật
trước đó.
Ngày nay, cùng với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế xã hội và thực tiễn
xét xử thì những quy định về thẩm quyền của Tòa án các cấp được quy định trong
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế không còn phù hợp nữa. Trước tình
hình đó, Đảng đã có nhiều Nghị quyết về công tác tư pháp trong đó nhấn mạnh đến
việc phân định thẩm quyền của các cấp Tòa án. Cụ thể là Nghị quyết số 08/NQ-TW
ngày 02/01/2002 về “ Một số vấn đề trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian
tới” và Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/ 06/2005 về “ Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020”, đã định hướng cải cách tư pháp theo hướng tăng thẩm quyền
xét xử cho Tòa án cấp huyện, việc xét xử sơ thẩm chủ yếu ở Tòa án cấp huyện. Việc

mở rộng xét xử sơ thẩm cho Tòa án cấp huyện tạo điều kiện giảm bớt áp lực cho
Tòa án cấp tỉnh, nhằm nâng cao chất lượng xét xử, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét
xử. Và văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng: “Cụ thể hóa đầy đủ các nguyên tắc hiến định về chức năng, nhiệm vụ của
Tòa án nhân dân và hoạt động xét xử. Tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử; bảo
đảm nguyên tắc độc lập, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo, của đương sự”11. Đại hội XII nhấn mạnh 5 nhiệm vụ cải
cách tư pháp cơ bản đối với tòa án, trong đó nhấn mạnh vai trò của hoạt động xây
dựng pháp luật, bảo đảm Tòa án thực sự là cơ quan xét xử và thực hiện quyền tư
pháp mà Hiến pháp đã quy định. Đồng thời, Tòa án phải được tổ chức phù hợp với
chức năng, nhiệm vụ và bảo đảm ba nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động
là độc lập trong xét xử, tranh tụng trong xét xử và bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo, của đương sự. Đại hội XII cũng nhấn mạnh nguyên tắc xét xử theo thẩm
quyền của Tòa án mà không phụ thuộc vào đơn vị hành chính lãnh thổ. Quan điểm
này phù hợp với xu thế cải cách khách quan của Việt Nam và thế giới đối với hệ
thống Tòa án.

11

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội(2016), tr 115.


18

Như vậy, những quy định chiến lược này là kết quả của hoạt động nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực hiện của Đảng, việc quan tâm theo đường lối của Đảng là một
trong những yêu cầu cơ bản không thể thiếu khi xây dựng các quy định về thẩm
quyền của Tòa án.
1.3.2 Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và các nguyên tắc hiến
định trong hoạt động của Tòa án

Ở mỗi quốc gia khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
văn hoá mà việc xây dựng pháp luật của mỗi quốc gia thường không giống nhau. Hệ
thống Tòa án của các quốc gia trên thế giới thì có quy định khác nhau về cách thức
tổ chức và hoạt động, cho nên hệ thống các cơ quan trong bộ máy tổ chức nhà nước
đó sẽ có những đặc thù riêng biệt. Do đó, Tòa án Việt Nam cũng có những đặc thù
về mặt tổ chức và hoạt động. Những đặc thù này có tác động trực tiếp đến việc phân
định thẩm quyền của tòa án về tranh chấp kinh doanh thương mại.
Ở Việt Nam, từ khi có chính quyền cách mạng, các Tòa án là những cơ quan
thuộc hệ thống bộ máy nhà nước được đảm nhiệm chức năng là xét xử. Điều 127 –
Hiến pháp 1992 quy định rằng: “ Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định là những cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
Theo quy định tại Điều 3 Luật Tổ chức TAND 2014, theo đó hệ thống Tòa án của
Việt Nam bao gồm:
- Tòa án nhân dân tối cao.
- Tòa án nhân dân cấp cao.
- Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
- Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
- Tòa án quân sự.
Quy định này đòi hỏi pháp luật tố tụng phải có quy định để phân định thẩm quyền
cho từng cấp của Tòa án, vụ việc nào thuộc thẩm quyền xử lý của TAND cấp
huyện, vụ việc nào thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh,…


19

Theo quy định tại Điều 30, Điều 38, Điều 45 Luật Tổ chức TAND 201412 thì ở
TAND cấp cao, TAND cấp tỉnh lại được tổ chức thành các tòa chuyên trách và
TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương tùy thuộc vào quy
mô về công việc và đội ngũ thẩm phán, công chức từng đơn vị của Tòa án; ở những

đơn vị có số lượng công việc lớn, biên chế nhiều thì có thể thành lập Tòa chuyên
trách. Các Tòa án chuyên trách có thẩm quyền xử lý, giải quyết các loại công việc
cụ thể. Với cách tổ chức như vậy đòi hỏi phải sự phân định thẩm quyền các Tòa
chuyên trách trong cùng một cấp Tòa án. Điều này cho thấy pháp luật tố tụng cần
phân định những tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của Tòa Dân sự, những tranh
chấp nào thuộc thẩm quyền của Tòa Kinh tế, những tranh chấp nào thuộc thẩm
quyền Tòa Lao động…
Hệ thống Tòa án Việt Nam được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ. Vì
vậy, theo cách tổ chức này thì tất cả các tỉnh; các huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh và tương đương ở Việt Nam đều có TAND. Hiện nay, Việt Nam có 64
tỉnh và 673 huyện, tương ứng với nó, chúng ta có 64 TAND cấp tỉnh và 673 TAND
cấp huyện. Cách thức tổ chức như vậy dẫn đến phải có sự phân định thẩm quyền
của Tòa án về giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại theo lãnh thổ, hoặc theo
sự lựa chọn của nguyên đơn, nghĩa là phải xác định cụ thể Tòa án của địa phương
nào có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đó. Qua đó, các quyền và lợi ích của
đương sự được đảm bảo, việc giải quyết vụ việc của tòa án cũng được đúng đắn,
nhanh chóng , đảm bảo lợi ích của Nhà nước, tránh được sự chồng chéo trong việc
thực hiện thẩm quyền giữa các Tòa án cùng cấp.
Hai cấp xét xử là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của hệ
thống tư pháp ở nước ta nói chung, trong đó có tư pháp dân sự. Nguyên tắc thực
hiện chế độ hai cấp xét xử là quan điểm chung có hướng chỉ đạo trong tổ chức tố
tụng. Nguyên tắc này được tổ chức thực hiện bằng các quy định cụ thể của thủ tục
tố tụng trong pháp luật tố tụng của mỗi quốc gia. Thủ tục tố tụng càng chính xác thì
nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử càng phát huy hiệu quả của nó trong bảo
đảm xét xử đúng đắn, khách quan vụ án và bảo vệ có hiệu quả quyền của người
12

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân số 62/2014/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2014.



×