Tải bản đầy đủ (.pptx) (55 trang)

BÀI GIẢNG PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.54 KB, 55 trang )

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
TS. VŨ VĂN CƯƠNG – TRUNG TÂM TƯ VẤN PHÁP LUẬT


KẾT CẤU BÀI GIẢNG
I.KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ THUẾ

II.KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ

III.NỘI DUNG PL QUẢN LÝ THUẾ Ở VN


I. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ THUẾ
Khái niệm quản lý thuế
Cơ chế quản lý thuế
Mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế
Mục tiêu, phương pháp quản lý thuế


1.1.CÁC QUAN NIỆM VỀ QUẢN LÝ THUẾ
Theo nghĩa rộng: quản lý thuế là tất cả các hoạt động của nhà
nước liên quan đến thuế. Bao gồm hoạt động tổ chức điều hành
quá trình thu nộp thuế vào NSNN, hoạt động xây dựng chiến lược
phát triển hệ thống thuế, ban hành pháp luật thuế và cả hoạt động
kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền thuế của các tổ chức thụ
hưởng NSNN.
Theo nghĩa hẹp: quản lý thuế là quản lý hành chính nhà nước về thuế,
bao gồm việc tổ chức, quản lí, điều hành quá trình thu nộp thuế (hoạt
động chấp hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền - cơ quan quản
lý thuế) trong quản lý thu, nộp thuế cho nhà nước từ các tổ chức, cá
nhân là đối tượng nộp thuế đã được xác định trong các luật thuế.


Theo Luật thưc định :(Điều 3, Luật Quản lý thuế ): Quản lý thuế gồm:
“Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế; thủ tục hoàn thuế, miễn
thuế, giảm thuế; xoá nợ tiền thuế, tiền phạt; quản lý thông tin về người
nộp thuế; kiểm tra thuế, thanh tra thuế; cưỡng chế thi hành quyết định
hành chính thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; giải quyết khiếu nại, tố
cáo về thuế”


1.2.Các đặc trưng cơ bản của quản lý thuế
1/ Bản chất quản lí thuế là một bộ phận của quản lý tài chính công
Do thuế là khoản thu mang tính bắt buộc biện pháp quản thuế chủ yếu là biện pháp
quản lý hành chính. Tuy nhiên, trong xã hội hiện đại theo xu hướng thu hẹp biện
pháp quản lý hành chính cưỡng bức, mở rộng biện pháp quản lý mang tính phục
vụ, dịch vụ.

2/ Về chủ thể trong quản lý thuế: là cơ quan quản lý thuế( cơ quan thuế, cơ quan
hải quan)… Do thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là tài sản quốc gia để phục
vụ lợi ích cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia quản lý thuế là trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong xã hội.
3/ Đối tượng chịu sự quản lý thuế của nhà nước là người nộp thuế được xác định trong các
Luật thuế do nhà nước ban hành. Ngoài ra, đối tượng chịu sự quản lý thuế của nhà nước
còn gồm: tổ chức, cá nhân khấu trừ thuế; tổ chức, cá nhân làm thủ tục về thuế thay người
nộp thuế và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc thực hiện pháp luật về
thuế.


1.2. Các đặc trưng cơ bản của quản lý thuế

Quản lý thuế là hoạt động đặc thù, được điều
chỉnh bằng luật chuyên ngành (Luật Quản lý thuế)


Quản lý thuế có tính chuyên môn kỹ thuật phức tạp, hiệu quả quản
lý thuế phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ năng lực của bộ máy
quản lý thuế; điều kiện cơ sở vật chất của ngành thuế; trình độ ý
thức chấp hành pháp luật thuế của người dân; sự hoàn thiện của
hệ thống pháp luật thuế và các thể chế quản lý kinh tế xã hội có liên
quan...


2. Cơ chế quản lý thuế
Trên thế giới có 2 loại cơ chế quản lý thuế
chính:
Cơ chế cơ quan thuế tính thuế (official
asessment)
Cơ chế người nộp thuế tự tính thuế (self
asessment), hay còn gọi là cơ chế người nộp
thuế tự khai, tự nộp thuế.


2.1.Cơ chế cơ quan thuế tính thuế:
Cơ chế này đòi hỏi cán bộ thuế phải kiểm tra tất cả các tờ khai thuế, các khoản phải thu
dựa trên những số liệu mà cơ quan thuế có được để xác định số thuế chính thức phải
nộp và ra thông báo thuế cho người nộp thuế.
Cơ chế này thể hiện sự ít tin tưởng của cơ quan thuế đối với người nộp thuế. Cách thức
quản lý thuế này mang tính áp đặt, nặng về sử dụng quyền lực của cơ quan quản lý thuế
đối với người nộp thuế.
Việc cơ quan thuế tính thuế thường gây ra nhiều tranh cãi, bất đồng giữa cơ quan quản
lý và người nộp thuế về cách thức xác định số thuế phải nộp.
Người nộp thuế phải chờ đợi cơ quan thuế tính và ra thông báo mới có thể nộp thuế,
làm ảnh hưởng đến tiến độ thu thuế.

Việc xác định số thuế phải nộp trở thành trách nhiệm pháp lý của cơ quan thuế, do đó,
không khuyến khích người nộp thuế tự giác tuân thủ.
Hơn nữa, với sự gia tăng số lượng của người nộp thuế ngày càng nhanh chóng, cơ chế cơ
quan thuế tính thuế đòi hỏi nguồn nhân lực của cơ quan thuế phải tăng lên tương ứng,
dẫn đến chi phí quản lý thuế rất cao.


2.3. Cơ chế tự khai, tự nộp thuế:
Cơ chế quản lý thuế được thực hiện trên nền tảng sự tuân thủ tự giác về nghĩa vụ thuế của người nộp
thuế. Người nộp thuế căn cứ các qui định của pháp luật thuế để xác định nghĩa vụ thuế của mình, tự kê
khai thuế, nộp tờ khai đúng hạn và nộp thuế theo số đã tính vào NSNN. Người nộp thuế có trách nhiệm
lưu giữ chứng từ, sổ sách kế toán để chứng minh các số liệu đã kê khai.
Cơ quan thuế có nhiệm vụ hỗ trợ, hướng dẫn để người nộp thuế hiểu rõ chính sách thuế, các thủ tục về
thuế, từ đó tự thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Cơ quan thuế tập trung nguồn lực để giám sát chặt
chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của người nộp thuế, thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát
hiện, xử lý kịp thời, đúng đắn những hành vi gian lận, trốn thuế của người nộp thuế.

Việc kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế đối với người nộp thuế được thực hiện trên cơ sở
phân tích thông tin, đánh giá những rủi ro để lựa chọn chính xác những trường hợp cần thanh
tra, kiểm tra. Điều này sẽ giúp khắc phục được việc thanh tra, kiểm tra tràn lan gây lãng phí
nguồn lực cho cơ quan thuế và gây phiền hà cho người nộp thuế.
Tuy nhiên, thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế cơ quan quản lý thuế thực hiện quản lý giám sát
chặt chẽ bằng phương pháp hiệu quả hơn. Cơ chế này tạo nên sự kết hợp hài hoà vai trò của cơ
quan quản lý thuế như một cơ quan công quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thuế
với vai trò một cơ quan cung cấp dịch vụ thuế cho cộng đồng DN và xã hội.


3. Mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế
Thứ nhất, mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế


Mô hình tổ chức quản lý thuế là việc xác định
cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý thuế theo một
nguyên tắc chủ đạo nhất định, đồng thời xác
Thứ hai, mô định
hình tổ chức
bộ máy theo
nhóm
nộp thuế
số lượng
các
bộngười
phận,
chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn cho từng bộ phận trong cơ cấu
tổ chức đó; thực hiện phân bổ nguồn nhân lực
một cách hợp lý nhằm hình thành bộ máy
quản lý thuế phù hợp, đảm bảo tính thống
Thứ ba,nhất,
mô hìnhthực
tổ chức hiện
bộ máy đầy
theo chức
đủ,năng
có hiệu quả các chức
năng quản lý thuế.

Thứ tư, mô hình kết hợp giữa các mô hình quản lý thuế


Thứ nhất, mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế

Đây là mô hình trong đó, bộ máy quản lý thuế được tổ chức thành từng bộ phận
riêng biệt để quản lý một hoặc một số loại thuế cụ thể. Mỗi phòng thực hiện tất
cả các chức năng để quản lý loại thuế mà phòng đó được phân công quản lý thu
đối với tất cả các đối tượng nộp thuế. ưu điểm:

- Tạo điều kiện để chuyên sâu quản lý từng sắc thuế, hiểu rõ phương pháp quản
lý sắc thuế một cách hiệu quả nhất, cho phép từng phòng tự phát triển các
chương trình chuyên sâu phù hợp nhất theo yêu cầu quản lý của từng sắc thuế.
- Phản ứng kịp thời với những thay đổi của luật thuế hay những biện pháp quản lý đối với

từng sắc thuế. Khi một sắc thuế nào đó thay đổi qui trình quản lý thì chỉ phải thay đổi trong
một phòng quản lý sắc thuế đó hoặc khi có sắc thuế mới phát sinh thì chỉ cần thành lập thêm
một phòng mới để quản lý sắc thuế đó. Ngoài ra, khi tổng kết đánh giá được tính hiệu quả của
từng sắc thuế, thấy rõ được ưu điểm, nhược điểm của từng sắc thuế để kịp thời có sự điều
chỉnh thích hợp.

Mô hình này phù hợp với các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, có môi trường tài chính
có nhiều biến động và có các qui định khác nhau về thủ tục quản lý đối với từng loại thuế.


Mô hình tổ chức quản lý theo sắc thuế có những nhược điểm sau:

- Chi phí quản lý cao, hiệu suất quản lý thấp vì các chức năng quản lý bị chồng chéo giữa các bộ phận. Mỗi bộ phận đều phải
thực hiện đầy đủ các chức năng quản lý trong khi có những chức năng có thể chỉ do một bộ phận quản lý hoặc mỗi bộ phận
phải có một hệ thống chương trình phầm mềm riêng phục vụ quản lý…

- Gây khó khăn trong việc tuân thủ luật thuế của người nộp thuế, bởi vì để hiểu và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế (nghĩa vụ
nộp nhiều loại thuế khác nhau), họ phải cần đến sự hỗ trợ của nhiều bộ phận trong cùng một cơ quan thuế. Dẫn đến chi phí
tuân thủ pháp luật của người nộp thuế và của cơ quan thuế cao.


- Dễ xảy ra sự thông đồng giữa người nộp thuế và cán bộ quản lý thuế do mỗi bộ phận hoạt động độc lập với các bộ phận khác,
làm cho sự kiểm tra, kiểm soát giữa các bộ phận kém hiệu quả.

- Bộ máy quản lý thuế khá cồng kềnh.

Mô hình này được áp dụng ở Việt Nam vào đầu những năm 90 và chủ yếu thực hiện ở cấp cơ quan Tổng cục Thuế.Do thời gian
này, chính sách thuế thường xuyên thay đổi, bổ sung và hoàn thiện. Nhiều sắc thuế mới được nghiên cứu áp dụng. Việc áp
dụng mô hình tổ chức bộ máy quản lý theo sắc thuế là phù hợp.


Thứ hai, mô hình tổ chức bộ máy theo
nhóm người nộp thuế

Là mô hình trong đó mỗi phòng/ ban chịu trách
nhiệm cung cấp đầy đủ các dịch vụ và quản lý
một nhóm người nộp thuế nhất định. Chẳng
hạn, Phòng quản lý thuế các DN lớn, phòng
quản lý thuế các DN vừa, nhỏ; phòng quản lý
thuế DN ngành công nghiệp, phòng quản lý
thuế ngành Hàng không, Điện lực…hoặc phòng
quản lý thuế khu vực kinh tế quốc doanh,
phòng quản lý thuế khu vực kinh tế dân
doanh…

Mỗi phòng thực hiện tất cả các chức năng quản lý
để quản lý thu tất cả các sắc thuế mà người nộp
thuế phải có nghĩa vụ với Nhà nước.
Mô hình này chỉ phù hợp khi việc thực hiện các
chức năng cơ bản của cơ quan quản lý thuế đã
đạt đến trình độ cao, đội ngũ cán bộ có kỹ năng.

Để mô hình này áp dụng có hiệu quả thì cơ quan
quản lý thuế phải tăng cường các chương trình
kiểm tra, giám sát nội bộ và giám sát chặt chẽ
chất lượng quản lý cũng như các quy trình thủ tục
hành chính nhằm đảm bảo tính thống nhất và
công bằng trên phạm vi toàn quốc.
Ở Việt Nam, năm 2010 đã thành lập Vụ quản lý
thuế DN lớn thuộc Tổng cục thuế để QL


Ưu điểm của mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm người nộp thuế
- Đáp ứng yêu cầu quản lý thuế phù hợp với đặc điểm của từng loại đối tượng nộp thuế. Do

nắm rõ được đặc điểm của nhóm người nộp thuế nên cơ quan quản lý có thể áp dụng quy trình
thủ tục quản lý thuế phù hợp, nâng cao và khuyến khích tính tuân thủ tự nguyện của người nộp
thuế, tăng hiệu suất công việc của cán bộ thuế nhằm đạt được mục tiêu quản lý thuế hiệu quả
nhất.

- Tạo điều kiện thực hiện phương pháp quản lý và phân bổ nguồn lực phù hợp với những rủi ro

về quản lý thuế đối với các nhóm người nộp thuế khác nhau, tạo sự an toàn cho NSNN. Thông
thường, phòng quản lý các đối tượng nộp thuế lớn thường được bố trí những cán bộ có năng
lực, có trình độ và kinh nghiệm quản lý cao nhằm giám sát chặt một số đối tượng nộp thuế có
số thu lớn. Sự sắp xếp này nhằm tạo ra những biện pháp quản lý phù hợp với một nhóm đối
tượng nộp thuế đặc biệt, nâng cao hiệu quả quản lý đối với các nguồn thu lớn của NSNN.

- Là cơ sở giao nhiệm vụ rõ ràng và giám sát thực hiện, đánh giá mức độ hoàn thành
nhiệm vụ thu ngân sách đối với một hoặc một số nhóm người nộp thuế. Ví dụ: khi
xảy ra thất thu thuế hoặc không hoàn thành dự toán thu NSNN ở một loại DN hoặc
một ngành nghề nào đó thì có thể qui ngay trách nhiệm thuộc bộ phận nào.



Nhược điểm của mô hình tổ chức bộ máy theo nhóm người nộp thuế

- Không đáp ứng được yêu cầu quản lý thuế khi số lượng và qui mô của người nộp thuế
thường xuyên tăng lên, hoạt động kinh doanh ngày càng mở rộng, đa dạng, phức tạp với hình
thức sở hữu khác nhau.

- Dễ xảy ra sự không thống nhất trong việc chỉ đạo thực hiện các luật thuế, các biện pháp
quản lý của cùng một sắc thuế nhưng đối với mỗi nhóm người nộp thuế khác nhau, tạo ra sự
không công bằng về thuế giữa những người nộp thuế.

- Bộ máy quản lý cồng kềnh, chi phí quản lý cao do mỗi bộ phòng đều phải thực hiện đầy đủ
các chức năng quản lý đối với nhóm người nộp thuế do phòng quản lý.

- Dễ dẫn đến quản lý chuyên quản khép kín, móc ngoặc, tham nhũng, tiêu cực nếu không có
sự giám sát chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên.


Thứ ba, mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng
Là mô hình trong đó cơ quan quản lý thuế tổ chức bộ máy thành các bộ phận riêng rẽ để thực hiện một
hoặc một số chức năng nhất định trong qui trình quản lý đối với tất cả các loại thuế, như: Phòng tuyên
truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế, Phòng xử lý tờ khai và dữ liệu về thuế, Phòng cưỡng chế và quản
lý thu nợ, phòng Thanh tra thuế...). Mỗi phòng thực hiện một hoặc một số chức năng quản lý thuế có
quan hệ mật thiết với nhau để quản lý đối với tất cả các đối tượng nộp thuế theo chức năng được phân
công thực hiện.

Để áp dụng có hiệu quả mô hình này đòi hỏi bộ phận tuyên truyền, hỗ trợ phải hoạt động có hiệu quả
để giải quyết kịp thời các vướng mắc cho người nộp thuế. Hệ thống thông tin phải kịp thời và thông
suốt để các bộ phận chức năng sử dụng phục vụ tốt cho công việc của mình.


Mô hình này được áp dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển, các nước có nền kinh tế chuyển đổi và
mức độ tuân thủ pháp luật thuế còn thấp, đồng thời số lượng người nộp thuế tăng nhanh mà thiếu hụt
cán bộ quản lý có kỹ năng.


Ưu điểm của mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng

- Thích

ứng với mọi sự thay đổi về chính sách thuế và người nộp thuế.

- Hiệu quả cao do công tác quản lý được chuyên môn hoá, chuyên sâu, chuyên nghiệp theo từng chức

năng. Mỗi phòng/ban sắp xếp cán bộ sẽ phù hợp năng lực của từng loại cán bộ hơn. CB có kỹ năng
đặc biệt sẽ xử lý các vấn đề liên quan đến các loại thuế mới, hoặc vấn đề mới phát sinh, các chuyên
gia cao cấp tập trung xử lý các vấn đề phức tạp, còn công việc thường ngày do cán bộ có trình độ thấp
hơn xử lý.

- Tạo điều kiện cho người nộp thuế tăng cường tính tự giác và giảm chi phí tuân thủ thuế
của người nộp thuế, giảm chi phí quản lý của cơ quan Thuế.

- Giảm thiểu hiện tượng tiêu cực, tham nhũng trong quản lý thuế do sự kiểm tra, giám sát
giữa các bộ phận cùng thực hiện qui trình quản lý thuế.


Nhược điểm của mô hình tổ chức bộ máy theo chức năng

Chưa hoàn toàn thích ứng trong điều kiện trình độ hiểu biết pháp luật thuế và trình độ tự giác
thực hiện nghĩa vụ thuế của người dân nói chung và của người nộp thuế nói riêng còn thấp và

trong cơ chế giao chỉ tiêu pháp lệnh thu ngân sách.

Do đặc tính phân đoạn trong công tác quản lý dễ dẫn tới việc mỗi bộ phận chức năng chỉ tập
trung vào một khía cạnh hẹp của người nộp thuế và tách biệt với công việc của các bộ phận khác,
thiếu bộ phận để tập hợp, điều phối hoạt động của các bộ phận chức năng quản lý với nhau.

Nếu người đứng đầu cơ quan thuế không quản lý chặt chẽ, cán bộ thuế trách nhiệm không cao,
để xảy ra thất thu thuế hoặc không hoàn thành dự toán Nhà nước giao thì khó qui trách nhiệm
cho tổ chức và cá nhân nào, vì cả 4 khâu quản lý thuế đều liên quan đến việc hoàn thành nhiệm
vụ thu ngân sách.


Thứ tư, mô hình kết hợp giữa các mô hình quản lý thuế
Để phát huy ưu điểm và khắc phục những tồn tại của các mô hình quản lý thuế trên,
nhiều nước trên thế giới áp dụng mô hình quản lý thuế kết hợp quản lý vừa theo chức
năng vừa theo nhóm đối tượng và theo sắc thuế. Thông thường có một số hình thức
kết hợp sau:

1- Sắc thuế - Chức năng - Qui mô đối tượng; với mô hình này nguyên
tắc quản lý theo sắc thuế được coi trọng nhất.
2- Chức năng - Qui mô đối tượng - Sắc thuế, với mô hình này nguyên
tắc quản lý theo chức năng được coi trọng nhất.
3- Đối tượng (qui mô, ngành nghề) - Chức năng - Sắc thuế, với mô hình
này nguyên tắc quản lý theo đối tượng được coi trọng nhất.
Trong 3 hình thức kết hợp trên, hình thức thứ 2 và thứ 3 được áp dụng
rộng rãi và có ưu điểm hơn.


Mô hình kết hợp Chức năng - Qui mô đối tượng - Sắc thuế:


Theo mô hình này, trong cơ quan quản lý thuế thành lập các bộ phận quản lý theo từng chức năng quản lý thuế
(bộ phận hỗ trợ người nộp thuế; bộ phận quản lý việc kê khai và kế toán thuế; bộ phận quản lý nợ và cưỡng
chế thu nợ thuế; bộ phận kiểm tra, thanh tra thuế). Trong mỗi bộ phận quản lý theo chức năng nêu trên lại
hình thành các bộ phận quản lý đối với từng loại nhóm đối tượng nộp thuế (lớn, vừa, nhỏ hoặc theo từng
ngành kinh tế: hàng không, điện lực, ngân hàng...). Ví dụ: Bộ phận hỗ trợ DN lớn; bộ phận thanh tra các tập
đoàn, các tổng công ty.

Tuy nhiên, cũng có những chức năng được thành lập để quản lý đối với tất cả các người nộp thuế, như: bộ
phận kê khai, kế toán thuế sẽ quản lý việc kê khai của tất cả các đối tượng nộp thuế và theo dõi kết quả thu
thuế trong toàn ngành.

Bên cạnh các bộ phận quản lý thuế theo chức năng, một số sắc thuế (chủ yếu là thuế thu nhập cá nhân, thuế
tài sản) lại được thành lập bộ phận quản lý riêng, độc lập để quản lý các sắc thuế này. Trong bộ phận quản lý
theo sắc thuế, cũng thành lập các bộ phận quản lý theo từng chức năng như hỗ trợ người nộp thuế, kê khai
thuế thu nhập cá nhân, thanh tra thuế thu nhập cá nhân...


Mô hình kết hợp Đối tượng - Chức năng - Sắc thuế:

Hiện nay, một số nước tiên tiến trên thế giới đang áp dụng mô hình quản lý theo nhóm đối
tượng chia theo qui mô (lớn, vừa, nhỏ) hoặc theo nhóm ngành kinh tế quan trọng (Điện
lực, Hàng không, Bảo hiểm, Ngân hàng, Bưu chính viễn thông...). Trong mỗi bộ phận quản
lý theo đối tượng lại thành lập các bộ phận quản lý theo chức năng để quản lý và thu thuế
đối với người nộp thuế đó (như các bộ phận: Hỗ trợ; Kê khai và kế toán thuế; Quản lý nợ
thuế; Thanh tra, kiểm tra thuế).

Bên cạnh đó, một số sắc thuế (chủ yếu là thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản) lại được
thành lập bộ phận quản lý riêng, độc lập để quản lý các sắc thuế này và trong từng bộ
phận quản lý theo sắc thuế lại hình thành bộ phận quản lý theo từng chức năng.



4. Mục tiêu và phương pháp quản lý thuế
4.1 Mục tiêu của quản lý thuế
- Tập trung huy động đầy đủ và kịp thời các khoản thu cho NSNN dựa vào khai thác cơ sở
thuế hiện tại và tìm kiếm, khuyến khích cơ sở thuế tiềm năng, tiết giảm chi phí quản lý thuế
của nhà nước và chi phí tuân thủ của người nộp thuế.
- Phát huy tốt nhất vai trò của công cụ thuế trong nền kinh tế thị trường như vai trò ổn
định kinh tế vĩ mô, đảm bảo công bằng trong phân phối thu nhập và điều tiết các hoạt động
sản xuất kinh doanh theo mục tiêu của nhà nước đã định trong từng thời kỳ.

Tăng cường sự tuân thủ thuế của người nộp thuế một cách
đầy đủ, kịp thời và tự nguyện theo các quy định của luật thuế.
-

- Góp phần bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa các chủ thể nộp thuế khác nhau trong
thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, bảo đảm môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo
động lực thúc đấy kinh tế tăng trưởng và phát triển.
- Quản lý thuế không chỉ có mục tiêu bảo đảm những quyền và lợi ích cho nhà nước mà
còn bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người nộp thuế.


4.2 Phương pháp quản lý thuế
Xét về bản chất thuế và việc quản lý thuế là quyền của nhà nước, quản lý thuế thuộc
loại quản lý hành chính nhà nước, phương pháp quản lý thuế được áp dụng chủ yếu
là mệnh lệnh hành chính bắt buộc. Trong một thời kỳ dài với quan niệm theo hướng
tuyệt đối hoá này, chỉ có quyền lực và cưỡng chế mới là biện pháp quản lý thuế có
hiệu quả nhất. Với phương thức quản lý thuế này đã là nguyên nhân chính dẫn đến
nạn quan liêu, tham nhũng và vô số các tiêu cực khác trong hệ thống cơ quan quản
lý thuế và công chức thuế.


Cho đến thập kỷ 60 của thế kỷ 20 quản lý thuế ở hầu hết quốc gia vẫn theo theo
quan điểm truyền thống: Người nộp thuế luôn có vị trị là đối tượng bị quản lý,
bị cai trị, mọi cải cách trong quản lý thuế đều tập trung vào những yếu tố bên
trong của bộ máy quản lý thuế nhằm tăng cường hoạt động của những cơ quan
này trong hoạt động thu thuế để đảm bảo nguồn thu cho NSNN.


4.2 Phương pháp quản lý thuế

Kinh tế thị trường phát triển, dân chủ được mở rộng, trình độ dân trí được nâng cao, số lượng người nộp thuế tăng
nhanh cùng với nhiều đặc điểm phức tạp, vượt quá khả năng quản lý của cơ quan quản lý thuế… nhiều quốc gia
chuyển sang áp dụng quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế.

Hệ thống quản lý thuế có hiệu lực, hiệu quả là phải đạt được sự vui lòng hợp tác của đa số những
người nộp thuế. Cơ quan quản lý thuế giúp đỡ người nộp thuế tuân thủ, đáp ứng những yêu cầu của
họ, tạo điều kiện cho họ tuân thủ nghĩa vụ thuế hơn là tiêu tốn quá nhiều nguồn lực vào việc dùng sức
mạnh quyền lực để ngăn chặn và hạn chế đối tượng trốn thuế, gian lận

Để đạt mục tiêu này cần thay đổi chiến lược và phương pháp quản lý thuế theo hướng tiếp cận mới đó là: “Phải coi
người nộp thuế là khách hàng của cơ quan quản lý thuế” đây là cơ sở căn bản cho mọi giải pháp đổi mới quản lý thuế.


4.2. Phương pháp quản lý thuế

Khái niệm tuân thủ trên được
đo bằng 3 yếu tố:
(1) tính đầy đủ,
(2) tính tự nguyện
(3) Tính đúng thời hạn.


Cơ quan thuế cần phân biệt mức
độ tuân thủ của từng nhóm đối
tượng diễn ra ở mức độ nào? Từ
đó, có phương pháp quản lý
thích hợp đối với từng nhóm
người nộp thuế


×