Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về thủ tục phá sản doanh nghiệp lào và việt nam dưới góc độ so sánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.35 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

THIPPHACHAN SIOUDOMPHAN

PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
LÀO VÀ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ SO SÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số

: 60.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN VIẾT TÝ

HÀ NỘI- NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học PGS.TS. Nguyễn Viết Tý, người đã tận tâm, nhiệt tình
chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động


viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Thipphachan SIOUDOMPHAN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.

Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN

Thipphachan SIOUDOMPHAN


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHNCND

: Cộng hòa dân chủ nhân dân


CHXHCN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

DN

: Doanh nghiệp

DN, HTX

: Doanh nghiệp, hợp tác xã

HNCN

: Hội nghị chủ nợ

TCTD

: Tổ chức tín dụng

TTPS

: Thủ tục phá sản

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XHCN


: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn ....................... 4
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn .......................................................... 4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn ...................................................... 4
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn.................. 5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn ............................................ 5
8. Bố cục (các chương) của luận văn .......................................................... 6
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ THỦ TỤC PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP............................................................................................. 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm của phá sản ..................................................... 7
1.1.1. Khái niệm phá sản ........................................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm của phá sản ................................................................. 10
1.2. Khái quát về thủ tục phá sản .......................................................... 11
1.2.1. Khái niệm thủ tục phá sản ........................................................... 11
1.2.2. Đặc điểm của thủ tục phá sản...................................................... 13
1.2.3. Nội dung pháp luật về thủ tục phá sản ........................................ 15
1.2.4. Vai trò của thủ tục phá sản .......................................................... 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ................................................................................ 18

CHƯƠNG 2. SO SÁNH THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP THEO PHÁP
LUẬT PHÁ SẢN LÀO VÀ VIỆT NAM HIỆN HÀNH......................................... 19


2.1. Những điểm tương đồng về thủ tục phá sản doanh nghiệp theo
pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành ...... 19
2.1.1. Những điểm tương đồng về thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá sản
............................................................................................................. 19


2.1.2. Những điểm tương đồng về chủ thể tham gia quá trình giải quyết
yêu cầu phá sản .................................................................................... 20
2.1.3. Những điểm tương đồng trong trình tự giải quyết yêu cầu phá sản . 24
2.2. Những điểm khác biệt về thủ tục phá sản doanh nghiệp theo pháp
luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành ............... 29
2.2.1. Sự khác biệt trong những quy định về thẩm quyền giải quyết yêu
cầu phá sản ........................................................................................... 29
2.2.2. Sự khác biệt trong quy định về chủ thể tham gia quá trình giải
quyết yêu cầu phá sản ........................................................................... 30
2.2.3. Sự khác biệt trong trình tự giải quyết yêu cầu phá sản ................ 35
2.2.4. Trình tự giải quyết yêu cầu phá sản trong trường hợp đặc biệt .... 48
2.3. Một số nhận xét, đánh giá rút ra từ việc so sánh thủ tục phá sản
doanh nghiệp giữa pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt
Nam hiện hành ....................................................................................... 51
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ................................................................................ 54

CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
PHÁ SẢN CỦA LÀO RÚT RA TỪ VIỆC SO SÁNH GIỮA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP LÀO VÀ VIỆT NAM ........................................................... 55

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật phá sản, pháp luật về thủ tục
phá sản của Đảng, Nhà nước Lào .......................................................... 55
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục phá sản
doanh nghiệp của nước CHDCND Lào ................................................. 58

3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Phá sản Lào năm 1994
liên quan đến thủ tục phá sản chung ..................................................... 59
3.2.2. Bổ sung một số thủ tục phá sản đặc biệt vào Luật phá sản (1994)... 72
KẾT LUẬN.................................................................................................... 76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 78


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự do cạnh tranh và phá sản là những thuộc tính vốn có của kinh tế thị
trường. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào không đáp ứng được
những đòi hỏi nghiệt ngã của thương trường, của sức ép cạnh tranh sẽ bị đào
thải. Để loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài, mất khả năng thanh
toán các khoản nợ đến hạn, đồng thời phòng ngừa, khắc phục những hậu quả, rủi
ro mà những doanh nghiệp này có thể gây ra cho nền kinh tế, mỗi quốc gia đều
phải xây dựng và thực thi một cơ chế phá sản có hiệu quả. Tuy nhiên, do tính
chất nhạy cảm và mức độ ảnh hưởng rộng tới nhiều đối tượng khác nhau trong
đời sống kinh tế nên cơ chế phá sản luôn đòi hỏi sự can thiệp mềm dẻo, linh hoạt
của Nhà nước, phù hợp với những yêu cầu thực tiễn mà hoạt động kinh doanh
đặt ra. Tuyên bố phá sản một con nợ chỉ là giải pháp cuối cùng nếu việc tái cấu
trúc lại con nợ không đạt được kết quả thông qua thủ tục phá sản.
Trong bối cảnh Việt Nam và Lào đang đẩy mạnh công cuộc hội nhập
kinh tế quốc tế. Pháp luật phá sản của hai nước cũng đang từng bước được
hoàn thiện để phù hợp với công cuộc hội nhập này.
Luật Phá sản là một đạo luật dành cho sự thất bại trong kinh doanh.
Cầu viện tới thủ tục phá sản là điều không hề mong muốn của giới thương
nhân. Tuy nhiên, pháp luật phá sản lại là một bộ phận vô cùng quan trọng nếu
không muốn nói là không thể thiếu trong khung pháp lý của một nền kinh tế

thị trường. Sự thiếu hiệu quả của pháp luật phá sản sẽ tác động xấu đến cấu
trúc của nền kinh tế và làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư.
Luật phá sản đầu tiên của nước CHDCND Lào được ban hành (1994),
sau hơn 20 năm thực hiện, đã bộc lộ rất nhiều hạn chế so với sự phát triển của


2
nền kinh tế thị trường Lào hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tham
khảo pháp luật phá sản các nước, đặc biệt là Việt Nam, trở nên vô cùng quan
trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật phá sản của Lào.
Xuất phát từ những tương đồng về mặt lịch sử và văn hóa, pháp luật
Việt Nam nói chung, pháp luật phá sản Việt Nam nói riêng, có rất nhiều ảnh
hưởng đến pháp luật Lào. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về thủ
tục phá sản doanh nghiệp Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” làm đề
tài Luận văn thạc sĩ Luật học, với hi vọng, bằng sự so sánh phân tích, đối
sánh giữa các quy định của pháp luật phá sản Lào và Việt Nam hiện hành
để đưa ra những kiến nghị hữu ích trong quá trình sửa đổi pháp luật phá
sản Lào trong tương lai.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã từ lâu, việc nghiên cứu về phá sản và pháp luật phá sản không còn
là một hướng nghiên cứu xa lạ ở Việt Nam và Lào.
Ở Việt Nam, do sự phát triển của nền kinh tế, đã có rất nhiều các công
trình nghiên cứu công phu về chùm chủ đề này được công bố, trong đó có
những công trình tiêu biểu như: “Giáo trình Luật Kinh tế”, “Giáo trình Luật
thương mại” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Luật Hà Nội,
Đại học Kinh tế quốc dân, Đại học Mở Hà Nội, Đại học Công nghiệp thành
phố Hồ Chí Minh và các sách tham khảo như: “Pháp luật phá sản của Việt
Nam 2005” của PGS.TS Dương Đăng Huệ; “Báo cáo rà soát, đánh giá thực
tiễn thi hành Luật phá sản năm 2004” do Bộ Tư pháp xây dựng; hoặc các bài
viết như: “Đi tìm triết lý của Luật phá sản” của PGS.TS Phạm Duy Nghĩa;

“Luật phá sản năm 2004 với việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt
Nam” của PGS.TS Dương Đăng Huệ; “Một số ý kiến về dự thảo Luật phá sản
(sửa đổi)” của PGS.TS Dương Đăng Huệ - Cao Đăng Vinh…; cho tới các
khóa luận tốt nghiệp bậc cử nhân, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ đã bảo vệ


3
thành công. Tuy nhiên, các công trình và bài viết này chỉ đề cập đến những
nội dung cơ bản của thủ tục phá sản nói chung mà chưa nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện và hệ thống về các khía cạnh pháp lý của thủ tục phá
sản trên cơ sở so sánh với pháp luật các nước, trong đó có CHDCND Lào.
Đặc biệt, từ khi Luật Phá sản Việt Nam (2014) có hiệu lực đến nay, mới chỉ
có một vài công trình nghiên cứu phân tích các quy định của Luật về thủ tục
phá sản, trong đó, chủ yếu đánh giá trong mối tương quan so sánh với Luật
Phá sản Việt Nam (2004), chứ chưa đánh giá, so sánh với pháp luật các nước
trên thế giới, đặc biệt là chưa có công trình nào so sánh nội dung thủ tục phá
sản của Luật Phá sản Việt Nam (2014) với Luật phá sản Lào (1994).
Ở nước CHDCND Lào, từ khi Luật phá sản Lào (1994) ra đời, đã có rất
nhiều công trình, bài viết đánh giá về nội dung các quy định của Luật, đặc
biệt, bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, khi nền kinh tế Lào có những
bước chuyển mình cùng thời đại, khi Lào xác định xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì yêu cầu sửa đổi Luật phá sản ngày
càng được quan tâm. Do đó, những công trình ra đời đánh giá những bất cập
trong các quy định của pháp luật và kiến nghị các giải pháp hoàn thiện pháp
luật. Tuy nhiên, những công trình này còn lẻ tẻ dưới dạng các bài nghiên cứu,
nội dung chỉ đề cập tới một vài khía cạnh nhỏ trong thủ tục phá sản, và đặc
biệt, những bài viết này, chưa có điều kiện tìm hiểu sâu sắc kinh nghiệm của
các nước, đặc biệt là Việt Nam trong quá trình sửa đổi Luật phá sản.
Từ tình hình nghiên cứu trên, có thể nói, có thể nói, Đề tài “Pháp luật
về thủ tục phá sản doanh nghiệp Lào và Việt Nam dưới góc độ so sánh” là

công trình đầu tiên ở cả Việt Nam và Lào đề cập đến vấn đề này.


4
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là những quy định về thủ tục
phá sản doanh nghiệp theo pháp luật phá sản Lào và Việt Nam hiện hành,
hay nói cách khác, những quy định về thủ tục phá sản doanh nghiệp theo
Luật Phá sản Lào (1994) và Luật Phá sản Việt Nam (2014) dưới góc độ
nghiên cứu luật học so sánh.
* Phạm vi nghiên cứu luận văn
Về phương diện lý luận, luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc
điểm của thủ tục phá sản, pháp luật và vai trò của pháp luật về thủ tục phá sản.
Về phương diện luật thực định, luận văn tập trung nghiên cứu những
quy định của Luật phá sản Lào (1994) và Luật Phá sản Việt Nam (2014) về
trình tự, các bước, các thủ tục để tiến hành một vụ phá sản dưới góc độ so
sánh những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai đạo Luật phá sản này.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Đề tài được thực hiện với mục đích nghiên cứu: nghiên cứu, hệ thống
hóa những quan điểm lý luận về thủ tục phá sản doanh nghiệp; nghiên cứu
làm sáng tỏ các quy định về thủ tục phá sản của pháp luật phá sản Lào và Việt
Nam hiện hành (Luật Phá sản Lào (1994) dưới góc độ so sánh với Luật phá
sản Việt Nam (2014)). Tìm kiếm một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật phá sản Lào về thủ tục phá sản doanh nghiệp.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục tiêu của đề tài, luận văn triển khai trả lời những câu
hỏi cơ bản sau:
(1) Những điểm tương đồng và khác biệt về thẩm quyền giải quyết yêu
cầu phá sản giữa sản giữa pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt

Nam hiện hành?


5
(2) Những điểm tương đồng và khác biệt về chủ thể tham gia quá trình
giải quyết yêu cầu phá sản giữa pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản
Việt Nam hiện hành?
(3) Những điểm tương đồng và khác biệt trong trình tự giải quyết yêu cầu
phá sản giữa pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành?
(4) Những nhận xét, đánh giá nào được rút ra từ việc so sánh thủ tục
phá sản giữa pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa MacLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật bao gồm phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các
văn kiện đại hội Đảng, quan điểm của Đảng và Nhà nước của cả CHXHCN
Việt Nam và CHDCND Lào đối với nền kinh tế nói chung và hoạt động của
doanh nghiệp nói riêng.
Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương
pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh, hệ thống hoá pháp luật và phương
pháp luật học so sánh. Luận văn tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định
trong các văn bản pháp luật của Lào dưới góc độ so sánh với pháp luật Việt
Nam về thủ tục phá sản để đánh giá thực trạng, những khó khăn, vướng mắc
trong việc giải quyết các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Trên cơ sở
đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định về thủ
tục giải quyết phá sản doanh nghiệp ở Lào trong giai đoạn hiện nay. Sự vận
dụng một cách nhuần nhuyễn các phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu trên sẽ
góp phần đưa đến thành công của luận văn.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật về thủ tục giải quyết
phá sản doanh nghiệp, luận văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề



6
xuất các giải pháp nhằm giải quyết một cách nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả
của các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Cụ thể, luận văn có những
đóng góp mới sau đây:
Một là, nghiên cứu, phân tích các quy định của thủ tục giải quyết phá
sản theo quy định của Luật Phá sản năm 1994, so sánh, phân tích thủ tục giải
quyết phá sản theo Luật Phá sản Lào năm 1994 và Luật Phá sản Việt Nam
năm 2014.
Hai là, Rút ra các bài học kinh nghiệm của pháp luạt Việt Nam về thủ
tục phá sản mà pháp luật Lào cần học tập trong quá trình sửa đổi Luật phá sản
Lào năm 1994 phù hợp với yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế.
Ba là, đánh giá và xác định những hạn chế trong các quy định của pháp
luật Lào về thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp. Trên cơ sở định hướng
sửa đổi pháp luật phá sản của Nhà nước CHND Lào và Đảng NDCM Lào, tác
giả kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp nhằm xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu
quả cho việc giải quyết phá sản doanh nghiệp.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phá sản và thủ tục phá sản doanh
nghiệp;
Chương 2: So sánh thủ tục phá sản doanh nghiệp theo pháp luật phá
sản Lào và Việt Nam hiện hành;
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục phá sản
của Lào rút ra từ việc so sánh giữa pháp luật phá sản doanh nghiệp Lào và
Việt Nam.



7
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁ SẢN VÀ THỦ TỤC PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm của phá sản
Để có một cái nhìn tổng quát nhất về khái niệm thủ tục phá sản, cần
phải đi từ khái niệm có liên quan, gắn bó mật thiết và là tiền đề cho khái niệm
thủ tục phá sản, đó là khái niệm “phá sản” hay còn gọi là khái niệm “doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn” hoặc khái niệm “doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản”.
1.1.1. Khái niệm phá sản
Trong nền kinh tế thị trường thì thuật ngữ “phá sản” (hay còn gọi là
“vỡ nợ”) xảy ra khá phổ biến, bởi nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có sự
cạnh tranh rất khốc liệt, cộng với nguồn lực cho đầu tư kinh doanh, sản xuất
ngày càng trở nên khan hiếm. Tuy nhiên, thuật ngữ “phá sản” đã xuất hiện từ
trước khi nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển như ngày nay.
Thuật ngữ “phá sản” được bắt đầu nhắc đến ở các nước châu Âu thời
kỳ La Mã cổ đại, nó được gọi là “Bankruptcy” hoặc “Banqueroute” có nguồn
gốc từ cụm từ “Banca Rotta” có nghĩa là “chiếc ghế bị gãy”, bởi lẽ ở thời kỳ
La Mã cổ đại, các thương gia thường tổ chức các “hội nghị thương gia”,
thương gia nào mất khả năng thanh toán nợ thì cũng đồng thời mất luôn
quyền tham dự hội nghị, vì vậy chiếc ghế mà thương ra đó ngồi tại hội nghị sẽ
bị đem ra khỏi hội trường. Các con nợ tại thời điểm đó thường “bỏ trốn” để
khỏi phải trả các khoản nợ. Trước tình hình đó, Nhà nước La Mã đã đứng ra
cưỡng chế tài sản của con nợ để thanh toán cho chủ nợ. Tuy nhiên, đây là
cách thức chỉ phù hợp khi con nợ chỉ nợ một chủ nợ. Còn nếu con nợ cùng
một lúc nợ và phải trả nợ cho nhiều người thì tranh chấp sẽ xảy ra (tranh chấp
xảy ra giữa các chủ nợ do tài sản của con nợ thường không đủ để thanh toán



8
cho các chủ nợ), do vậy Nhà nước La Mã mới quyết định giao cho Tòa án địa
phương đứng ra quản lý tài sản của con nợ và phân chia tài sản này cho các
con nợ tùy theo vốn và lãi của mỗi chủ nợ đã cho con nợ vay. Dần dần, để
bảo đảm tính cưỡng chế cao hơn, những hoạt động này được xây dựng thành
các quy định trong Luật Phá sản của Nhà nước La Mã cổ đại.
Ở một góc độ khác, có nhiều người cho rằng thuật ngữ “phá sản” bắt
nguồn từ chữ “Ruin” trong tiếng La-tinh, có nghĩa là “sự khánh tận”. Đây là
thuật ngữ dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một nhà kinh
doanh. Tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn (Insolvency) là biểu
hiện trực tiếp cho tình trạng mất cân đối đó của nhà kinh doanh.
Cho đến ngày nay, mỗi nhà nước lại có những quan điểm, cũng như các
quy định pháp luật khác nhau về phá sản (tình trạng doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn), bởi lẽ, mỗi Nhà nước lại được tổ chức và hoạt
động trên hệ thống quan điểm chính trị, điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau.
Trên thế giới hiện nay, có hai luồng quan điểm chính về việc sử dụng thuật
ngữ “phá sản”:
- Quan điểm “định lượng”: Quan điểm này chỉ ra rằng, một doanh
nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản, khi không thanh toán được một
hoặc một vài món nợ đến hạn có giá trị tối thiểu được ấn định trong pháp luật
phá sản của quốc gia theo quan điểm này.
- Quan điểm “định tính”: Quan điểm này cho rằng, việc xác định tình
trạng phá sản không phụ thuộc vào giá trị khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp
không trả được, một doanh nghiệp bị coi là lâm vào tình trạng phá sản nếu
tổng số nợ của doanh nghiệp vượt quá khả năng thanh toán cùa doanh nghiệp
đó tài một thời điểm nhất định.
Dưới hai quan điểm này, thì pháp luật phá sản hiện hành của nước
CHDCND Lào và nước CHXHCN Việt Nam đi theo hai quan điểm khác nhau:



9
- Luật Phá sản (1994) của nước CHDCND Lào, không sử dụng thuật
ngữ “phá sản” mà sử dụng thuật ngữ “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán”
và tại Điều 2 của Luật này, định nghĩa về doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán như sau: “Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp đang
đối mặt với khó khăn hay đang chịu thua lỗ trong hoạt động kinh doanh của
mình và đã sử dụng tất cả các biện pháp tài chính cần thiết nhưng không thể
giải quyết được các khoản nợ đến hạn”. Như vậy, Luật Phá sản (1994) của
nước CHDCND Lào định nghĩa về doanh nghiệp mất khả năng thanh toán
(hay phá sản) dựa trên quan điểm “định tính”. Đây là một điểm khác biệt rất
lớn giữa pháp luật phá sản hiện hành của nước CHDCND Lào và nước
CHXHCN Việt Nam.
- Luật Phá sản (2014) của Việt Nam lần đầu tiên đưa ra định nghĩa về
phá sản tại khoản 2 Điều 4 như sau: “Phá sản là tình trạng doanh nghiệp, hợp
tác xã mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố
phá sản” và để làm rõ hơn định nghĩa phá sản tại khoản 1 Điều 4 của Luật
này đưa ra định nghĩa thế nào là DN, HTX mất khả năng thanh toán: “Doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp, hợp tác xã
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 3 tháng kể từ
ngày đến nợ thanh toán. Như vậy, đây là một thay đổi rất lớn về định nghĩa
phá sản (xây dựng được định nghĩa về phá sản) khi đi theo quan điểm “định
lượng” của Luật Phá sản (2014) của Việt Nam so với Luật Phá sản (2004) và
Luật Phá sản (1993).
Về bản chất, phá sản hay vỡ nợ xuất phát từ tình trạng mất khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn phải trả của con nợ có liên quan. Do đó, nó
tạo nên nghĩa vụ của con nợ và quyền (truy đòi nợ) của các chủ nợ. Để giải
quyết tình trạng này, giữa chủ nợ và con nợ đã cùng nhau tìm ra những
phương thức giải quyết khác nhau: hoặc là tự giải quyết thông qua thương



10
lượng, đàm phán, hoặc là với sự giúp đỡ của một cá nhân hoặc tập thể nào đó,
đôi khi là chính quyền địa phương nơi con nợ cư trú hay nơi con nợ tiến hành
các hoạt động kinh doanh. Quá trình giải quyết “phá sản”, đảm bảo nghĩa vụ
của chủ nợ và “giải thoát” trách nhiệm cho con nợ yêu cầu phải có sự can
thiệp của pháp luật để hài hòa lợi ích của cả hai.
Tuy nhiên, dù cho pháp luật các nước có sử dụng thuật ngữ “lâm vào
tình trạng phá sản”, hay thuật ngữ “doanh nghiệp mất khả năng thanh toán” hay
một thuật ngữ nào khác; dù có đi theo quan điểm “định lượng” hay quan điểm
“định tính” để định nghĩa về phá sản thì về bản chất, xuất phát điểm của phá
sản vẫn là dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp.
1.1.2. Đặc điểm của phá sản
Nhìn nhận khái niệm phá sản dưới giác độ doanh nghiệp mật khả năng
thanh toán nợ đến hạn, có thể rút ra phá sản có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, mất khả năng thanh toán không có nghĩa là doanh nghiệp
hoàn toàn cạn kiệt về tài sản, doanh nghiệp có thể có nhiều tài sản nhưng vẫn
lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Điển hình như trường
hợp, doanh nghiệp có nhiều hàng hóa tồn đọng do không bán được và lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
Thứ hai, mất khả năng thanh toán không chỉ là hiện tượng doanh
nghiệp không thanh toán được nợ mà nó còn thể hiện doanh nghiệp đang lâm
vào tình trạng tài chính tuyệt vọng, không có giải pháp để trả được nợ, trừ khi
có sự can thiệp của Tòa án hoặc sự giúp đỡ của các chủ nợ.
Thứ ba, do tình hình tài chính trong các doanh nghiệp, quy mô của
doanh nghiệp rất khác nhau nên pháp luật không quy định mất khả năng thanh
toán cụ thể một khoản nợ bao nhiêu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản; có
doanh nghiệp nợ chỉ vài trăm triệu đã không thể trả được nợ nhưng cũng có
doanh nghiệp nợ tới vài tỷ, thậm chí vài trăm tỷ vẫn có khả năng thanh toán.



11
Thứ tư, bản chất của việc mất khả năng thanh toán có thể không trùng
với biểu hiện bên ngoài là trả được nợ hay không. Nhiều doanh nghiệp không
trả được nợ nhưng điều này chỉ có tính chất nhất thời trong khi hoạt động của
doanh nghiệp vẫn diễn ra bình thường. Ngược lại, có những doanh nghiệp sự
trả nợ chỉ là trá hình, che đậy tình trạng tài chính tuyệt vọng của doanh
nghiệp, họ phải sử dụng nhiều cách thức gian trá để bù đắp ngân quỹ như vay
nặng lãi, thế chấp tài sản v.v..
1.2. Khái quát về thủ tục phá sản
1.2.1. Khái niệm thủ tục phá sản
Cũng như các thủ tục khác trong đời sống và pháp lý, TTPS là hoạt
động cần được tiến hành theo những trình tự nhất định để đạt được những kết
quả mong muốn của phá sản. Vậy thủ tục là gì? Thủ tục ở đây được hiểu là
“Cách thức đã định để thực hiện một hoạt động nhất định”1. Ngoài ra, cũng
có thể hiểu thủ tục là tổng hợp những buộc cần được thực hiện theo trình tự
nhất định để hoàn thành một hoạt động nào đó. Một doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản là hệ quả của việc sản xuất, kinh doanh không hiệu quả trên
thị trường. Từ thực tiễn đã hình thành những thủ tục rất đa dạng để giải quyết
tình trạng phá làm ăn thua lỗ của doanh nghiệp. Về cơ bản thì đây là những
thủ tục được xây dựng mang tính linh hoạt, mềm dẻo dựa trên cơ chế thị
trường, nhưng để bảo đảm hiệu quả thủ tục giải quyết doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản cần phải có sự can thiệp của Nhà nước.
Đứng dưới góc độ của các chủ nợ, có thể hiểu TTPS là tổng hợp các
bước mà doanh nghiệp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần phải thực hiện
theo trình tự nhất định để thanh toán các khoản nợ đến hạn khi đã rơi vào tình
trạng không còn khả năng chi trả khi được các chủ nợ yêu cầu. Do vậy, TTPS

1


Từ điển bách khoa Việt Nam (2011)., NXB. Từ điển Bách khoa


12
là một trong những cách thức để chủ nợ thực hiện quyền đòi nợ của mình đối
với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Để bảo đảm các công việc của TTPS được thực hiện theo đúng trình tự
và đạt hiệu quả, pháp luật các quốc gia thường đưa ra những quy định về
TTPS và đây là nội dung cốt lõi của pháp luật phá sản. Tuy nhiên, pháp luật
các quốc gia là không đưa ra định nghĩa về thủ tục phá sản, mà chỉ đưa ra các
quy định về thủ tục phá sản, trong đó có pháp luật phá sản hiện hành của nước
CHDCND Lào và pháp luật phá sản của nước CHXHCN Việt Nam.
- Đối với Việt Nam, Luật Phá sản (2014) không có điều luật riêng quy
định về TTPS mà TTPS nằm rải rác trong các quy định của Luật này. TTPS
theo quy định của Luật Phá sản (2014) chỉ bao gồm hai thủ tục chính là thủ
tục phục hồi hoạt động kinh doanh và thủ tục tuyên bố phá sản. Thanh lý tài
sản được thực hiện sau khi có quyết định tuyên bố DN, HTX phá sản là một
hoạt động để thi hành quyết định tuyên bố phá sản chứ không còn là một thủ
tục riêng biệt được tiến hành trước khi ra quyết định tuyên doanh nghiệp phá
sản như trước nữa. TTPS sẽ kết thúc sau khi thi hành xong quyết định tuyên
bố phá sản. Đối với DN, HTX mất khả năng thanh toán, không nhất thiết phải
thực hiện lần lượt hai thủ tục nêu trên để được phá sản. Tòa án có thể tuyên
bố DN, HTX phá sản theo thủ tục rút gọn được quy định tại Điều 105 Luật
Phá sản (2014).
- Đối với Lào, Luật Phá sản năm 1994 cũng không có một điều luật nào
định nghĩa về TTPS mà TTPS được nằm trong các quy định của Luật này. TTPS
theo Luật này bao gồm những hoạt động sau: Nộp đơn hoặc yêu cầu tuyên bố
phá sản; xem xét đơn hoặc yêu cầu tuyên bố phá sản; Phục hồi hoạt động của
doanh nghiệp; Tuyên bố phá sản và thanh lý tài sản. Tuy nhiên, theo Luật này thì
không có TTPS rút gọn cũng như không có TTPS áp dụng trong những trường

hợp đặc biệt như Luật Phá sản (2014) của nước CHXHCN Việt Nam.


13
Nói tóm lại, về bản chất TTPS là thủ tục tư pháp được thực hiện bởi
Tòa án với tư cách là cơ quan tư pháp tiến hành, đối tượng của tố tụng phá
sàn là quan hệ pháp lý phát sinh giữa chủ nợ (bên có quyền được thanh toán)
và con nợ (bên có nghĩa vụ thanh toán). Do vậy, có thể hiểu TTPS như sau:
Thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp đặc biệt do Tòa án tiến hành khi có
yêu cầu của người có quyền nộp đơn, nhằm giải quyết tranh chấp lợi ích về
tài sản phát sinh giữa chủ nợ và con nợ, do con nợ mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đã đến hạn2.
1.2.2. Đặc điểm của thủ tục phá sản
Mặc dù là một thủ tục tố tụng nhưng TTPS khác với thủ tục giải quyết
vụ việc dân sự, kinh tế ở chỗ, TTPS được coi là một thủ tục tố tụng tư pháp
đặc biệt. Chính tính chất đặc biệt về thủ tục tố tụng mà TTPS có những đặc
điểm sau:
Thứ nhất, TTPS là một thủ tục đòi nợ tập thể, tại đó, tất cả các chủ nợ
liên kết với nhau để giải quyết vấn đề công nợ của những con nợ, vốn là các
chủ thể rơi vào trạng thái phá sản, thất bại trong việc hoàn lại các khoản vay.
Các chủ thể này có thể vẫn còn tài sản để thanh lý bù đắp cho các khoản vay
nhưng cá biết có những chủ thể không còn tài sản gì để bù đắp. Sở dĩ nói phá
sản là một thủ tục đòi nợ tập thể vì các chủ nợ của doanh nghiệp mất khả
năng thanh toán, trong quá trình giải quyết vụ việc phá sản, không tự xé lẻ ra
để đòi nợ riêng. Họ cùng tham gia vào một thiết chế chung để tiến hành đòi
nợ hay đảm bảo quyền lợi của mình, gọi là HNCN. Ngoài ra, khi giải quyết
vấn đề phá sản của doanh nghiệp, thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó
được bán thanh lý, đưa vào quỹ chung và trả cho các chủ nợ theo một thứ tự

2


Vũ Huy Hoàng (2015), Thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;


14
ưu tiên nhất định mà luật phá sản quy định. Do vậy, trong bất cứ trường hợp
nào, phá sản cũng là một thủ tục mang tính tập thể cao3.
Thứ hai, TTPS không chỉ nhắm đến mục đích đòi nợ mà còn chú trọng
đến việc giúp đỡ để con nợ có thể phục hồi hoạt động kinh doanh. Xu hướng
chung của pháp luật phá sản trên thế giới là chú trọng giải quyết hai vấn đề cơ
bản: (i) phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán; và (ii) thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản để bù đắp các khoản nợ.
Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mất khả năng thanh
toán là thủ tục rất quan trọng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hết sức để giúp
doanh nghiệp đó thoát khỏi tình trạng khó khăn, cải thiện được tình trạng nợ
nần và từng bước thoát khỏi thảm cảnh phá sản. Thực tế thì bất kỳ nhà nước
nào cũng quan tâm đến việc phục hồi hoạt động doanh nghiệp bởi suy cho
cùng doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản thì quyền và lợi ích hợp pháp
của các chủ nợ mới không bị đe dọa, môi trường đầu tư, kinh doanh của nhà
nước vì thế mà cũng được cải thiện.
Thứ ba, kết thúc TTPS thường là sự chấm dứt tồn tại của một chủ thể
kinh doanh. Phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc biệt, theo đó các chủ nợ và
người có quyền, nghĩa vụ liên quan tiến hành thủ tục tống tụng tư pháp để yêu
cầu tòa án can thiệp nhằm thu hồi các khoản nợ của mình. Có những trường
hợp doanh nghiệp phục hồi các hoạt động kinh doanh một cách thành công
nhưng nhìn chung hậu quả pháp lý của phá sản là các doanh nghiệp liên quan
bị chấm dứt tồn tại, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó bị thanh lý để trả cho
các chủ nợ. Trong trường hợp này, phá sản có ý nghĩa khá tiêu cực.
Thứ tư, thanh toán nợ trong TTPS được tiến hành trên cơ sở số tài sản

còn lại của doanh nghiệp. Điều này này khác với nguyên tắc trong dân sự là
3

Vũ Huy Hoàng (2015), Thủ tục phá sản theo Luật Phá sản năm 2014, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.


15
phải trả đủ nợ, nghĩa là nợ bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu. Ngược lại, trong
việc thanh lý tài sản phá sản, nếu tài sản có lớn hơn hoặc bằng tài sản nợ thì
đương nhiên các chủ nợ được thanh toán đầy đủ, còn nếu số tài sản có nhỏ
hơn số tài sản nợ thì con nợ cũng chỉ dùng số tài sản đó để trả nợ mà thôi.
Phần nợ còn thiếu thì các chủ nợ phải chịu rủi ro theo tỷ lệ nhất định. Tuy
nhiên, nguyên tắc này không áp dụng với các doanh nghiệp có chế độ trách
nhiệm vô hạn như doanh nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh.
Thứ năm, TTPS là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp và khá phức
tạp. Điều này thể hiện ở việc tòa án phải tham gia vào hầu hết các thủ tục giải
quyết phá sản, từ ra quyết định mở TTPS đến giám sát hoạt động của các doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán, rà soát, xem xét phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh, xử lý tài sản của doanh nghiệp có tranh chấp… Do đó, tố tụng phá
sản đòi hỏi phải có luật riêng và luôn là một thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt.
1.2.3. Nội dung pháp luật về thủ tục phá sản
Pháp luật về phá sản là tập hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh
những mối quan hệ xã hội phát sinh từ hoặc liên quan đến tình trạng phá sản
của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp gặp khó khăn trong hoạt động kinh doanh, như đã
phân tích ở trên, thường trải qua nhiều giai đoạn từ hình thành, phát triển,
hưng thịnh và tiêu vong. Khi gặp khó khăn, doanh nghiệp nào cũng phải tìm
kiếm giải pháp tháo gỡ để vượt qua. Để hạn chế những tác động tiêu cực cho
xã hội, cho chủ nợ, cho người lao động…, pháp luật phải đưa ra những quy

định, những nguyên tắc hướng dẫn doanh nghiệp sao cho tình trạng phá sản
được giải quyết theo một trật tự đã được luật hóa. Như vậy, pháp luật về phá
sản là hệ thống các quy định, các nguyên tắc, các thủ tục pháp lý đã được luật
hóa nhằm điều chỉnh những mối quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến toàn
bộ quy trình phá sản của một doanh nghiệp.


16
Với cách hiểu này, pháp luật về phá sản thường có nội dung là đưa ra
những quy định xác định rõ khái niệm về phá sản, về đối tượng áp dụng luật
phá sản, về điều kiện để bị tuyên bố phá sản, về mở thủ tục phá sản, về giải
quyết hậu quả pháp lý liên quan đến phá sản, về vai trò, chức năng, nhiệm vụ
của chủ nợ, của Tòa án, của tổ quản lý, thanh lý tài sản và về thủ tục, điều
kiện phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản …
Từ cách tiếp cận đó, giờ đây khái niệm về phá sản được xác định rõ
trong luật phá sản với nội dung đầy đủ hơn. Tuy nhiên, cũng như pháp luật
nói chung, pháp luật phá sản các nước thường có nội dung không hoàn toàn
giống nhau. Do đó, cách hiểu về phá sản theo luật các nước cũng khác nhau.
Một cách bao quát nhất, phá sản được hiểu là một quy trình, một thủ tục pháp
lý, một trường hợp mà, khi có một doanh nghiệp lâm vào tình trạng quẫn bách
về mặt kinh doanh, theo yêu cầu của chủ nợ (hoặc có khi là theo yêu cầu của
bản thân con nợ hoặc của các chủ thể khác), Tòa án tuyên bố doanh nghiệp đó
bị phá sản. Sau khi tuyên bố như vậy, Tòa án sẽ cử ra một Thẩm phán hoặc
một số cán bộ chuyên trách thay mặt cho Tòa án quản lý toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp này và tập hợp các chủ nợ để yêu cầu họ xem xét và có biện
pháp, có phương án để “xử lý” doanh nghiệp và tài sản của doanh nghiệp đó
để đem chia cho các chủ nợ.
Với cách hiểu như trên về phá sản, rõ ràng pháp luật về phá sản sẽ phải
giải quyết hàng loạt vấn đề, từ khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,
nộp đơn đề nghị Tòa án mở thủ tục phá sản… cho đến khi thanh lý xong tài

sản của doanh nghiệp đó. Nói cách khác, một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ
nếu chưa được Tòa án mở thủ tục phá sản thì những quy định của pháp luật
phá sản chưa ảnh hưởng đến doanh nghiệp này. Điều này có nghĩa là khi
chưa mở thủ tục phá sản thì doanh nghiệp này vẫn có thể bị chủ nợ bắt giữ,
truy đòi tài sản và thậm chí có thể bị chủ nợ áp dụng cả “luật rừng” để trừng


17
trị. Chỉ khi được Tòa án mở thủ tục phá sản, doanh nghiệp con nợ mới chính
thức được pháp luật bảo vệ.
1.2.4. Vai trò của thủ tục phá sản
Để việc phá sản được tiến hành một cách có trật tự, đúng pháp luật thì
phá luật phá sản cần có những quy định cụ thể về trình tuệ, thủ tục tiến hành
phá sản DN. Những quy định này là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành phá
sản DN, HTX, bảo đảm vụ việc được giải quyết đúng pháp luật.
Pháp luật phá sản ở cả Việt Nam và Lào được ban hành chậm so với
các nước trên thế giới và trong khu vực, nhưng đã góp phần quan trọng vào
việc hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các
DN, đảm bảo trật tự, kỹ cương trong lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường
kinh doanh trở nên lành mạnh hơn, đồng thời cũng góp phàn hoàn thiện hệ
thống pháp luật kinh tế trong thời kỳ đổi mới.
Việc áp dụng đúng thủ tục phá sản sẽ đóng góp một vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ nợ và người lao động. Trong
kinh doanh, việc nợ nần lẫn nhau là hiện tượng bình thường, ít DN có thể
tránh khỏi. Khi có nợ thì chủ nợ đương nhiên được quyền đòi nợ thông quan
mọi hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa
án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc kiện tụng ra Tòa án không thể
giải quyết một cách thỏa đáng quyền lợi của các chủ nợ, nhất là khi con nợ
mất khả năng thanh toán. Pháp luật phá sản ra đời đã quy định về thủ tục phá
sản, một thủ tục đòi nợ đặc biệt của các chủ nợ. Có thể nói, điều mà các chủ

nợ lo ngại nhất là con nợ không thể trả lại các khoản nợ đã vai của mình. Tuy
nhiên, thông qua thủ tục phá sản, các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản sản sẽ
có cơ hội được phục hồi, trở lại tình trạng ban đầu, có khả năng thanh toán
các khoản nợ của chủ nợ. Còn nếu doanh nghiệp không thể phục hồi, bị tuyên


18
bố phá sản thì các thài sản của doanh nghiệp cũng được thanh lý toàn bộ để
trả nợ cho các chủ nợ.
Đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, áp dụng thủ tục phá
sản là một giải pháp tránh việc các chủ nợ tự do tranh giành “xiết nợ”, ngăn
cản các chủ nợ đòi nợ theo kiểu mạnh ai nấy đòi, từ đó dẫn đến tình trạng mất
trật tự xã hội4. Thủ tục phá sản là do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến
hành, đảm bảo cho việ thực thi được thống nhất, trật tự bằng mọi cách tạo
điều kiện cho con nợ khắc phục khó khăn, khôi phục hoạt động sản xuất kinh
doanh bình thường hoặc tạo điều kiện cho con nợ rút khỏi thương trường một
cách có trật tự.
Tóm lại, có thể thấy việc phá sản nếu không được quy đinh cụ thể vê
trình tự, cách thức có thể dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng về kinh tế - xã
hội. Các hậu quả này nhiều khi là nguyên nhân của tình trạng lộn xộn trong
đời sống xã hội. Vì vậy, quá trình phá sản nhất thiết phải được tiến hành một
cách quy củ, trật tự thông qua mộ trình tự, thủ tục giải thích một vụ phá sản.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Thủ tục phá sản là thủ tục tư pháp đặc biệt do Tòa án tiến hành khi có
yêu cầu của người có quyền nộp đơn, nhằm giải quyết tranh chấp lợi ích về
tài sản phát sinh giữa chủ nợ và con nợ, do con nợ mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đã đến hạn.
Nội dung của thủ tục phá sản bao gồm các bước cần được các chủ thể
tham gia phá sản tiến hành để giải quyết vụ phá sản doanh nghiệp.
Thủ tục phá sản doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong bảo về lợi ích

của các chủ nợ, con nợ, người lao động cũng như lợi ích chung của xã hội.

4

Đồng Thái Quang (2004), “Thủ tục giải quyết phá sản theo luật phá sản (2004)”, Luận văn thạc sĩ luật học,
Trường địa học Luật Hà Nội, tr 17.


19
CHƯƠNG 2
SO SÁNH THỦ TỤC PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT
PHÁ SẢN LÀO VÀ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
2.1. Những điểm tương đồng về thủ tục phá sản doanh nghiệp theo
pháp luật phá sản Lào và pháp luật phá sản Việt Nam hiện hành
2.1.1. Những điểm tương đồng về thẩm quyền giải quyết yêu cầu phá
sản
Theo thông lệ chung, cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp là Tòa án. Tuy nhiên, do tổ chức hệ thống Tòa án và
cơ quan tài phán ở mỗi nước khác nhau nên việc giao cho tòa án nào giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản không phải giống nhau. Ví dụ, ở hầu hết các
nước Châu Âu lục địa, thẩm quyền giải quyết phá sản thuộc về tòa thương
mại. Một số nước như Mỹ, Thụy Điển, Nam Tư… lại thành lập tòa phá sản
riêng. Có những nước như Nga thì việc giải quyết phá sản thuộc chức năng
của tòa án trọng tài. Ngược lại, ở Trung Quốc, Malaysia… tính chất của một
vụ phá sản được pháp luật coi như một vụ kiện dân sự nên thẩm quyền thuộc
về Tòa án dân sự.
Tương tự với thông lệ của các nước trên thế giới, cả Việt Nam và Lào
hiện nay đều quy định thẩm quyền giải quyết phá sản được quy định thuộc về
Tòa án nhân dân. Theo đó, trước đây, ở Việt Nam, Điều 30 Luật tổ chức
TAND (2002) quy định Tòa kinh tế TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung

ương có nhiệm vụ và quyền hạn giải quyết việc phá sản theo quy định của
pháp luật. Tương tự như vậy, ở Lào, mặc dù Luật phá sản Lào (1994) chỉ
dùng thuật ngữ chung chung “Tòa án”, nhưng căn cứ vào những quy định của
Luật Doanh nghiệp Lào (2014) và Luật Tổ chức TAND (2003), thì TAND có
thẩm quyền giải quyết việc phá sản là TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương. Quy định này là hợp lý, bởi:


×