Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Thực trạng giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng tại tòa án nhân dân thành phố thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.03 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THU HIỀN

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA VIỆC NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG
TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ THU HIỀN

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA VIỆC NAM NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG
TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THỊ LAN

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Trần Thị Thu Hiền


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Luật HN&GĐ

Luật Hôn nhân và gia đình

BLDS

Bộ luật dân sự


BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

ĐKKH

Đăng ký kết hôn

GCNQSDĐ

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

TP

Thành phố

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA VIỆC CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG .................................................. 8
1.1. Khái niệm chung về chung sống như vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp
lý của việc chung sống như vợ chồng ..................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm nam nữ chung sống như vợ chồng .................................................. 8
1.1.2. Khái niệm giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ
chồng ........................................................................................................................ 16
1.2. Sơ lược pháp luật điều chỉnh quyền và lợi ích của nam, nữ chung sống như
vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp lý ............................................................... 18
1.2.1. Giai đoạn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và giải quyết hậu
quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng ......................................... 18
1.2.2. Giai đoạn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và giải quyết hậu
quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng ......................................... 20
1.2.3. Giai đoạn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và giải quyết hậu
quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng ......................................... 22
1.3. Pháp luật hiện hành về giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung
sống như vợ chồng .................................................................................................. 25
1.3.1. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng không
trái pháp luật ............................................................................................................. 25
1.3.1.1. Về quan hệ nhân thân ............................................................................. 25
1.3.2.2. Về quan hệ tài sản ................................................................................... 26
1.3.2.3. Về quan hệ giữa cha, mẹ và con ............................................................. 27
1.3.2. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng trái
pháp luật ................................................................................................................... 34
1.3.2.1. Giải quyết về dân sự ............................................................................... 34



1.3.2.1.1. Về quan hệ nhân thân ...................................................................... 35
1.3.2.1.2. Về quan hệ tài sản ........................................................................... 35
1.3.2.1.3. Về quan hệ giữa cha, mẹ và con ..................................................... 36
1.3.2.2. Giải quyết về hành chính ........................................................................ 36
1.3.2.3. Giải quyết về hình sự .............................................................................. 37
1.3.3. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng và
được pháp luật công nhận là vợ chồng..................................................................... 38
1.3.3.1. Về quyền nhân thân ............................................................................ 39
1.3.3.2. Về quan hệ tài sản ............................................................................. 39
1.3.3.3. Về quan hệ giữa cha, mẹ và con ......................................................... 40
Kết luận chương 1 .................................................................................................. 41
Chương 2. GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NAM NỮ
CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
THANH HOÁ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ........................................................... 42
2.1. Giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng tại Toà án
nhân dân thành phố Thanh Hoá ........................................................................... 42
2.1.1. Những vấn đề còn vướng mắc trong việc giải quyết hậu quả pháp lý của việc
nam nữ chung sống như vợ chồng tại toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá ........ 45
2.1.2. Một số vụ việc điển hình ................................................................................ 48
2.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả điều chỉnh hậu quả pháp lý của việc
nam nữ chung sống như vợ chồng ........................................................................ 54
2.2.1. Về bổ sung cơ sở pháp lý ............................................................................... 55
2.2.2. Về giải quyết các hậu quả cụ thể.................................................................... 58
Kết luận chương 2 .................................................................................................. 63
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Chung sống như vợ chồng - hay tình trạng nam, nữ tổ chức chung sống với
nhau mà không đăng ký kết hôn - là một hiện tượng xã hội đã và đang tồn tại trong
xã hội Việt Nam và đang có xu hướng tăng về cả số lượng và tính chất quan hệ.
Tình trạng này diễn ra không chỉ đối với các cặp nam nữ từ trước ngày 03/01/1987
do hoàn cảnh chiến tranh hay trình độ pháp luật còn thấp mà ngay cả với cả cặp
nam nữ sau khi có Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có đủ các điều kiện để đăng
ký kết hôn mà không đăng ký, đặc biệt đối với giới trẻ thế hệ sinh năm từ 19801990 đang hướng đến quan niệm mới về cuộc sống, tình bạn, tình yêu, hôn nhân với
sự thể hiện tự do và cởi mởi hơn so với các thế hệ trước. Có thể nói tình trạng nam,
nữ chung sống với nhau như vợ chồng là một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội
nước ta và ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi
đất nước đang trong quá trình đẩy mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực
hiện chính sách mở cửa, giao lưu với tất cả các quốc gia trên thế giới, mặt trái của
nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi không nhỏ tới quan điểm về tình yêu và hôn
nhân; với tâm lý ngại đi đăng ký kết hôn bởi lý do không muốn thực hiện các thủ
tục hành chính, con người với lối sống tự do, phóng túng, không muốn bị ràng buộc
về mặt pháp lý. Việc chung sống này thể hiện dưới các dạng thức khác nhau đã tạo
ra nhiều hậu quả không tốt đối với đời sống hôn nhân và gia đình.
Điều này đã trở thành vấn đề nổi cộm không chỉ với gia đình mà đối với cả xã
hội, vì nó phá vỡ nguyên tắc, chuẩn mực liên quan đến hôn nhân như thiếu sự tham
gia và chứng kiến của gia đình, xã hội và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc đăng ký kết hôn trước khi họ trở thành vợ chồng của nhau. Mặt khác, quan hệ
hôn nhân của họ không có ràng buộc về mặt pháp lý vậy khi có tranh chấp xảy ra
hay quyền lợi các bên bị xâm phạm mà có yêu cầu giải quyết ly hôn, pháp luật sẽ
giải quyết như thế nào?


2


Luật hôn nhân và gia đình 2014 ra đời là một bước tiến quan trọng trong hệ
thống pháp luật của nước ta nói chung, trong lĩnh vực hôn nhân gia đình nói riêng.
Luật đã có những quy định cụ thể điều chỉnh đối với trường hợp nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng. Thời gian qua, Cùng với đó liên ngành Toà án, Viện
kiểm sát, Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của
Luật HN&GĐ quy định hướng dẫn giải quyết đối với trường hợp nam, nữ chung
sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nhưng vẫn chưa có quy định đầy đủ
về giải quyết hậu quả của tình trạng này đã dẫn tới việc giải quyết các tranh chấp
trở lên phức tạp, quyền lợi của các bên chưa được đảm bảo, công tác xét xử của
Tòa án gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật.
Vì vậy, nghiên cứu các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký
kết hôn và hậu quả pháp lý của tình trạng này nhằm nâng cao ý thức pháp luật của
nhân dân trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Đặc biệt, nghiên cứu các quy định
của pháp luật đối với các trường hợp chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn còn nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử của Tòa án nhân dân đối với các
tranh chấp hôn nhân và gia đình nói chung và tranh chấp liên quan đến việc chung
sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn nói riêng là vô cùng cần thiết.
Nghiên cứu và phân tích những quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình
năm 2014 trong vấn đề giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn là đòi hỏi khách quan và cấp thiết hiện nay, điều
này giúp nâng cao ý thức pháp luật của người dân trong việc xác lập quan hệ hôn
nhân, nâng cao hiệu quả trong công tác xét xử của Tòa án trong lĩnh vực hôn nhân
và gia đình. Từ đó góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước ta, xây dựng
gia đình hạnh phúc, tiến bộ, xã hội phát triển. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả
lựa chọn đề tài: “Thực trạng giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung
sống như vợ chồng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá” làm Luận văn
thạc sĩ của mình.



3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề chung sống như vợ chồng đã, đang và sẽ luôn tồn tại trong xã hội
chúng ta. Nhằm hạn chế và giải quyết hậu quả của thực trạng này, pháp luật Việt
Nam đã có nhiều quy định liên quan đến việc chung sống như vợ chồng để góp
phần điều chỉnh suy nghĩ và hành vi của các cá nhân, đồng thời giúp cho các cơ
quan thi hành pháp luật áp dụng đúng và thống nhất pháp luật.
Thời gian qua, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề nam nữ
chung sống như vợ chồng sau:
Một số giáo trình, sách chuyên khảo điển hình như: “Giáo trình Luật hôn nhân
và gia đình Việt Nam” (2014)- Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội;“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật hôn nhân và gia đình năm
2000” của PGS.TS.Nguyễn Văn Cừ- ThS.Ngô Thị Hường (2002), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội;“Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm
2000” của TS.Đinh Thị Mai Phương (2004), Nxb Chính trị quốc gia; “Bình luận
khoa học Luật HN&GĐ Việt Nam”của tác giả Nguyễn Ngọc Điện (2002), Nxb trẻ,
Hồ Chí Minh;…
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Giải quyết vấn đề hôn nhân thực
tế theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000” do PGS.TS. Nguyễn Văn Cừ - trưởng
bộ môn Luật hôn nhân và gia đình Trường đại học Luật Hà Nội làm chủ biên;
Một số khoá luận tốt nghiệp đại học, luận văn thạc sĩ: Lê Thị Thu Trang
(2010),Vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng dưới góc độ bảo vệ phụ nữ và trẻ
em, khoá luận tốt nghiệp, trường đại học Luật Hà Nội, Hoàng Hạnh Nguyên (2011),
Những khía cạnh pháp lý của thực tế chung sống như vợ chồng không đăng ký kết
hôn ở Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Khoa luật- đại học quốc gia Hà Nội; Nông Thị
Hồng Yến (2015), Hậu quả pháp lý của việc nam, nữ chung sống như vợ chồng theo
pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam hiện hành, luận văn thạc sĩ, Khoa luật- đại
học quốc gia Hà Nội; Nguyễn Thị Phương Thảo (2015), Chung sống như vợ chồng Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Hà Nội…



4

Ngoài ra còn có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành với nội dung
liên quan đến vấn đề chung sống như vợ chồng, đó là: bài viết “Vấn đề hôn nhân
thực tế theo Luật hôn nhân gia đình Việt Nam” của tác giả PGS.TS. Nguyễn Văn
Cừ (Tạp chí luật học số 5/2000); “Về sự điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ chung
sống như vợ chồng” của tác giả Thái Trung Kiên (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
1/2005); “Cần có hướng dẫn thống nhất về thụ lý yêu cầu ly hôn hay không công
nhận vợ chồng và thủ tục giải quyết” của tác giả Đoàn Đức Lương (Tạp chí Kiểm
sát số 9/2005); “Những vướng mắc trong việc thụ lý giải quyết ly hôn với những
trường hợp chung sống như vợ chồng không có đăng ký kết hôn”, tác giả Đào Mai
Hường - Tòa án nhân dân; “Vấn đề chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn theo pháp luật về hôn nhân và gia đình”, tác giả Bùi Huyền (Dân chủ và Pháp
luật.- Số chuyên đề Sửa đổi, bổ sung Luật hôn nhân và gia đình năm 2000/2013);
“chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn: thực trạng và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật”, tác giả Lê Thu Trang (Tạp chí Kiểm sát số 7/2017);…
Nhóm giáo trình, sách bình luận thường không đi sâu vào vấn đề chung sống
như vợ chồng mà chỉ tập trung vào các khía cạnh chính của hôn nhân - gia đình là
kết hôn, ly hôn.
Ngoài ra, về mặt đời sống xã hội, chung sống như vợ chồng được nghiên cứu
một cách khá toàn diện nhưng còn thiếu tập trung, thường mỗi một bài nghiên cứu
của một tổ chức, cá nhân cụ thể chỉ nghiên cứu về một nhóm đối tượng nhất định
như: chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ dưới góc độ “sống thử”; chung sống
như vợ chồng giữa những người đồng giới, chuyển giới của các tổ chức bảo vệ
quyền lợi cho đối tượng này;…
Như vậy, có thể thấy, dưới cả hai góc độ là xã hội và pháp luật, dù không
nhiều nhưng cũng đã xuất hiện các công trình khoa học nghiên cứu về chung sống
như vợ chồng. Tuy nhiên, nghiên cứu về hậu quả pháp lý của việc chung sống như

vợ chồng cũng như thực tiễn áp dụng là chưa có nhiều công trình và bài viết đề cập
đến.Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình đã được
công bố trước đó, luận văn đi sâu vào nghiên cứu khía cạnh thực trạng giải quyết
hậu quả pháp lý của việc chấm dứt việc chung sống như vợ chồng.


5

3. Mục tiêu nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và
pháp luật về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng và thực
tiễn giải quyết tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá; qua đó đề xuất một số ý
kiến để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giải quyết hậu quả pháp lý của việc
chung sống như vợ chồng trong việc xét xử tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá.
- Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
+ Làm rõ những vấn đề lý luận để đưa ra khái niệm về chung sống như vợ chồng;
+ Làm rõ các trường hợp chung sống như vợ chồng;
+ Khái quát pháp luật Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1959 đến trước năm
2014 quy định về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng;
+ Phân tích, đánh giá quy định của Luật hôn và nhân gia đình năm 2014 giải
quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng;
+ Tìm hiểu thực tiễn áp dụng xét xử của Toà án nhân dân thành phố Thanh
Hoá về giải quyết quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng trong 05
năm (từ năm 2013 đến năm 2016), 6 tháng đầu năm 2017 và qua các vụ án cụ thể.
+ Trên cơ sở tìm hiểu những vấn đề lý luận và thực trạng thực thi pháp luật
như trên, đề xuất các giải pháp hoàn thiện cụ thể những kiến nghị nhằm hoàn thiện
khung pháp lý và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hôn nhân gia đình.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Dưới góc độ phạm vi nghiên cứu của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung
nghiên cứu về một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chung sống như vợ

chồng; quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề này, đặc biệt là các
quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và các văn bản hướng dẫn luật
này; thực tiễn giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng tại Toà
án nhân dân thành phố Thanh Hoá.
Trong đó, tác giả còn trích dẫn và phân tích một số vụ án điển hình mà Toà án
nhân dân thành phố Thanh Hoá đã giải quyết, số liệu thống kê thực tế về chung sống
như vợ chồng trong nhiều giai đoạn khác nhau để bài viết thêm tính thuyết phục.


6

5. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu về vấn đề hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ
chồng khi ly hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; nêu và
phân tích các hạn chế của pháp luật; nghiên cứu thực tiễn các vấn đề liên quan đến
việc chung sống như vợ chồng. Từ đó, tác giả nêu lên những đề xuất nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật.
6. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở là các phương pháp luận của chủ nghĩa Mac-Lenin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và nhà nước ta về hôn nhân gia đình,
Luận văn được thực hiện thông qua các phương pháp như sau:
- Phương pháp phân tích: được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến
hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng;
- Phương pháp tổng hợp: Được sử dụng để khái quát hóa nội dung cần
nghiên cứu, đưa ra hướng nghiên cứu một cách có lô-gic để làm sáng tỏ vấn đề
cần nghiên cứu;
- Phương pháp so sánh: Được sử dụng để nghiên cứu, xem xét pháp luật Việt
Nam qua các thời kỳ về việc chung sống như vợ chồng là liên hệ với pháp luật của
một số quốc gia khác trên thế giới;
- Phương pháp thống kê: được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn

hoạt động xét xử của ngành Toà án, qua số liệu của các cơ quan khác trong quá
trình triển khai các quy định của Luật hôn nhân và gia đình nói chung và các quy
định về hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng nói riêng. Trên cơ sở
các số liệu đó, giúp ta tìm ra mối liên hệ giữa các quy định của pháp luật với thực
tiễn áp dụng đã thực sự đi vào đời sống và phát huy tác dụng hay chưa? Từ đó, đưa
ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hậu quả pháp lý của việc chung sống như
vợ chồng với thực tiễn đời sống xã hội.
7. Ý nghĩa nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ra đời đã quy định về việc giải quyết hậu
quả việc nam, nữ chung sống như vợ chồng trong ba Điều luật: Điều 14, 15 và 16.


7

Ngoài ý nghĩa là một công trình nghiên cứu riêng của hậu quả pháp lý của việc
chung sống như vợ chồng để hoàn thành chương trình học tập và báo cáo tốt nghiệp
lớp Cao học ứng dụng Luật dân sự khoá 23 của trường Đại học Luật Hà Nội, việc
nghiên cứu đề tài còn có ý nghĩa đi sâu phân tích các quy định của pháp luật cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật đối với những trường hợp chung sống như vợ
chồng ở tỉnh Thanh Hoá, để từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm mục đích
xây dựng và hoàn thiện pháp luật.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho người học ở các cơ
sở đào tạo luật của Việt Nam trong chuyên ngành luật hôn nhân và gia đình. Đồng
thời có thể làm tài liệu tham khảo cho Thẩm phán, Kiểm sát viên nghiên cứu, vận
dụng và thực hiện trong thực tiễn công tác. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo
trong việc hoàn thiện quy định của pháp luật, cho việc xây dựng các quy chế hoạt
động của Toà án nhân dân cũng như các quy chế phối hợp liên ngành, phục vụ cho
công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, bồi dưỡng cán bộ của Toà án. Luận văn cũng
là một nguồn tài liệu cho những bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.
8. Kết cấu của luận văn

Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có
nội dung chính như sau:
Chương 1: Khái quát chung về giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống
như vợ chồng.
Chương 2: Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ
chồng tại Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số kiến nghị.


8

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT HẬU QUẢ PHÁP LÝ
CỦA VIỆC CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG
1.1. Khái niệm chung về chung sống như vợ chồng và giải quyết hậu quả
pháp lý của việc chung sống như vợ chồng
1.1.1. Khái niệm nam nữ chung sống như vợ chồng
Theo Đại từ điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý1, “chung” được hiểu là cùng
với nhau làm gì đó, như vậy, “chung sống” là cùng sống với nhau. “Vợ chồng” là
danh từ chỉ vợ và chồng nói chung. Từ đây, gộp nghĩa của hai từ lại ta có thể hiểu,
“chung sống như vợ chồng” là việc cùng sống với nhau và coi nhau như vợ chồng
mặc dù chưa đăng ký kết hôn.
Trên thực tế, có nhiều khái niệm chung sống như vợ chồng như:
Dưới góc nhìn của những nhà xã hội, văn hóa, chung sống như vợ chồng là
việc sống thử - chung sống phi hôn nhân, theo đó các cặp nam nữ về sống chung
với nhau như vợ chồng, nhưng không tổ chức hôn lễ cũng như đăng ký kết hôn.
Dưới góc độ pháp lý thuật ngữ “chung sống như vợ chồng” chỉ quan hệ vợ
chồng mà khi xác lập quan hệ đó các bên nam nữ không tiến hành đăng ký kết hôn
theo quy định của pháp luật. Mặc dù, không có giấy chứng nhận kết hôn nhưng các
bên nam nữ vẫn chung sống với nhau như vợ chồng và thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và xã hội.

Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, hai quan điểm kể trên đều chưa bao quát được
toàn bộ các trường hợp chung sống như vợ chồng và đặc điểm của nó.
Bởi, thứ nhất, về mặt chủ thể, ở cả hai khái niệm đều chỉ nói tới nhóm chủ thể
duy nhất là nam - nữ. Nhưng trong thực tế, ta không thấy hiếm gặp các trường hợp
chung sống như vợ chồng giữa nam - nam; nữ - nữ; người chuyển giới nhưng chưa
tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính, mặc dù ở cả phương diện sinh học và
pháp luật đều đang mang một giới tính nhưng lại chung sống với người cùng giới
Nguyễn Như Ý và đ.t.g (1996), Từ điển Tiếng Việt thông dụng, NXB Giáo Dục, Hà Nội, tr.399

1


9

tính đó của mình. Ví dụ như những trường hợp vì không có đủ khả năng tài chính,
lo sợ các vấn đề y tế mà không tiến hành phẫu thuật chuyển giới, nhìn bề ngoài và
trên giấy tờ là nam nhưng vẫn yêu và sống chung với một nam giới khác. Ngoài ra,
đối với người chuyển giới còn có trường hợp người đó đã phẫu thuật chuyển đổi
giới tính, nghĩa là về mặt hình hài người đó hoàn toàn khác biệt với giới tính ghi
trong các giấy tờ tùy thân mà pháp luật quy định. Khi đó, việc chung sống giữa họ
sẽ được thực hiện với một người khác giới tính hiện có của mình. Như vậy, hai khái
niệm đã làm hẹp phạm vi chủ thể cần có.
Thứ hai, là về hành vi chung sống. Trong việc chung sống như vợ chồng phải
có chứng cứ là hai người đã và đang chung sống với nhau như vợ chồng về mặt
thực tế, nếu không có hành vi chung sống thì vấn đề công nhận vợ chồng cũng
không cần phải đặt ra. Trong thực tế việc xác định nam nữ chung sống như vợ
chồng gặp nhiều khó khăn. Căn cứ để làm chuẩn mực cho việc đánh giá về hành vi
chung sống như vợ chồng của các bên hết sức đa dạng và phong phú. Vì vậy, tổng
hợp qua thực tiễn xét xử của Toà án ta có thể chia thành hai nhóm biểu hiện của
hành vi chung sống như vợ chồng là tổ chức chung sống công khai, có thể tổ chức

lễ cưới hoặc không, có thể có đời sống tình dục hoặc không, cùng tiến hành chăm
sóc, yêu thương lẫn nhau. Hoặc là việc chung sống lén lút, không công khai, cũng
có thể có đời sống tình dục hoặc không và vẫn coi nhau như vợ chồng mà chăm sóc
nhau. Như vậy, một khái niệm hoàn chỉnh phải nêu bật lên được cả hai nhóm hành
vi là công khai và không công khai. Tuy nhiên, đọc hai khái niệm nêu trên, ta không
thấy xuất hiện yếu tố hành vi chung sống.
Thứ ba là về hậu quả của hành vi. Đây là một yếu tố quan trọng, giúp ta phân
biệt được chung sống như vợ chồng với một vài các hiện tượng khác như ngoại
tình, cặp bồ. Ta có thể kể tới một số hậu quả trên thực tế như: có con chung, có tài
sản chung,… Tuy nhiên, trên góc độ thực tế, có thể nhận định rằng, việc có con
chung hay tài sản chung… là điều tất yếu xảy ra với những cặp chung sống như vợ
chồng. Và vì vậy, theo ý kiến của tác giả, không nhất thiết phải đề cập tới phương
diện này trong khái niệm.


10

Như vậy, từ ba phân tích kể trên, ta chưa có được một khái niệm hoàn chỉnh
cho chung sống như vợ chồng. Hiện nay, mặc dù trên nhiều lĩnh vực, phương diện,
có nhiều nhà nghiên cứu hay các luật sư, thẩm phán đã đưa ra quan điểm nhưng hầu
như vẫn chưa có một khái niệm nào là thực sự đầy đủ và bao hàm toàn bộ các
trường hợp cũng như biểu hiện của nó trên thực tế.
Luật hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 2014 ra đời đã quy
định tại Khoản 7 Điều 3 như sau: “Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ
chức cuộc sống chung và coi nhau là vợ chồng”. Như vậy, kể từ ngày
01/01/2015 (ngày Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực) thì đây là khái niệm
pháp lý chính thức dành cho người dân, người thực thi pháp luật và áp dụng pháp
luật. Tuy nhiên, căn cứ vào ba tiêu chí phân tích như trên, khái niệm mà Luật
HN&GĐ đưa ra vẫn chưa hoàn chỉnh và còn nhiều thiếu sót.
Chung sống như vợ chồng mà pháp luật thừa nhận chỉ tồn tại giữa nam và

nữ. Nhưng cần lưu ý rằng, việc xác định giới tính là nam hay nữ sẽ được căn cứ vào
các giấy tờ tùy thân như chứng minh thư, giấy khai sinh, hộ khẩu,… chứ không phải
căn cứ vào ngoại hình hay bản chất con người thật. Điều này đã vô tình làm thiếu đi
một nhóm các chủ thể khác. Đồng thời cũng là sự bất bình đẳng với những người
đồng giới, chuyển giới.
Về hành vi, ở đây luật chỉ nêu lên một cụm từ mơ hồ và khó hiểu là “tổ chức
cuộc sống chung”. Do đó, để hiểu một cách đầy đủ thì ta cần hiểu là việc có tổ chức
lễ cưới khi về chung sống như với nhau, việc nam nữ về chung sống với nhau có
được gia đình (một hoặc hai bên) chấp nhận, cùng chung sống dưới một mái nhà
một cách công khai hoặc không công khai, thường xuyên, có quan hệ tình dục với
nhau hoặc không.
Cụm từ “coi nhau là vợ chồng” cũng là cụm từ chung chung. Ta có thể tạm
hiểu đây là cách thức mà hai bên chung sống, đối xử với nhau và xuất phát từ đây sẽ
phát sinh ra hậu quả của hành vi như đã trình bày ở trên. Hai bên “coi nhau là vợ
chồng” nên chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình, họ trao cho nhau
những quyền và gánh vác các nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho các cặp đôi đã
đăng ký kết hôn như việc tôn trọng, yêu thương, vun đắp cuộc sống gia đình.


11

Một lần nữa, cần khẳng định rằng, luật thực định đã đưa ra một khái niệm
chưa hoàn chỉnh, chưa phù hợp với thực tiễn cuộc sống ngày nay. Khái niệm mà
Luật HN&GĐ quy định không chỉ chưa bao quát được toàn bộ các nhóm chủ thể
mà còn thiếu những thông tin cần thiết, cụ thể để nhận biết quan hệ này.
Căn cứ vào một loạt các phân tích kể trên, tác giả xin đưa ra khái niệm chung
sống như vợ chồng như sau: Chung sống như vợ chồng là việc hai cá nhân thoả
thuận chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn”
Thực tế trong những năm qua cho thấy tình trang nam nữ chung sống như vợ
chồng nhưng không đăng ký kết hôn xảy ra tương đối phổ biến. Có rất nhiều

nguyên nhân, lý do dẫn đến việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng
ý kết hôn, do vậy trên thực tế cũng tồn tại nhiều trường hợp chung sống như vợ
chồng trong xã hội. Mỗi loại hình chung sống lại mang trong mình căn nguyên khác
nhau từ đó cũng để lại những hậu quả khác nhau, do vậy cách giải quyết hậu quả
pháp lý cũng từ đó mà khác nhau. Căn cứ vào các quy định của Luật HN&GĐ,
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả xin đưa ra một số trường hợp chung
sống như vợ chồng đang tồn tại trong xã hội hiện nay:
* Nam nữ chung sống như vợ chồng không trái pháp luật
Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng không bị coi là trái pháp luật là
việc chung sống như vợ chồng không vi phạm các hành vi cấm quy định tại các các
điểm b,c và d Khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014:
- Không tảo hôn;
- Không chung sống như vợ chồng với người đang có vợ, có chồng hoặc
chung sống như vợ chồng hoặc chưa có vợ, chưa có chồng màchung sống như
vợ chồng với người đang có chồng, có vợ;
-

Không chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu về

trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mẹ nuôi với
con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu,
mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng.


12

Tuy nhiên, hiện nay pháp luật về hôn nhân gia đình chưa quy định cụ thể về
các trường hợp chung sống như vợ chồng cụ thể mà lại chỉ đề cập đến thuật ngữ:
“nam, nữ có điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như
vợ chồng” (khoản 1, Điều 14 Luật HN&GĐ 2014). Việc quy định về việc chung

sống như vợ chồng như vậy là chưa đầy đủ và chính xác, nội hàm của khái niệm
này chưa liệt kê đầy đủ các trường hợp chung sống như vợ chồng trên thực tế. Như
vậy, khái niệm đó hẹp hơn so với trường hợp chung sống như vợ chồng không trái
pháp luật ở trên.
* Nam nữ chung sống như vợ chồng trái pháp luật
Chung sống như vợ chồng trái pháp luật là việc nam nữ chung sống với nhau
nhưng không tiến hành đăng kí kết hôn (ĐKKH); đồng thời việc chung sống này vi
phạm quy định cấm của pháp luật tại Điều 5, Luật HN&GĐ năm 2014. Luật
HN&GĐ 2014 không quy định về như thế nào là chung sống như vợ chồng trái
pháp luật, tuy nhiên dựa trên điều luật đó cùng các văn bản hướng dẫn khác có liên
quan, ta có thể chia chung sống như vợ chồng trái pháp luật thành các trường hợp.
Thứ nhất, chung sống như vợ chồng khi một bên hoặc cả hai bên dưới tuổi luật
định (chưa đến tuổi kết hôn).
Độ tuổi là một trong những điều kiện đầu tiên trong việc kết hôn được quy
định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18
tuổi trở lên”.
Đồng thời, Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP
ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ
Tư pháp về hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật HN&GĐ (sau đây gọi là
TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP) cũng quy định “Nam từ đủ
20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 của
Luật HN&GĐ là trường hợp nam đã đủ hai mươi tuổi, nữ đã đủ mười tám tuổi trở
lên và được xác định theo ngày, tháng, năm sinh.
Trường hợp không xác định được ngày sinh, tháng sinh thì thực hiện như sau:
a) Nếu xác định được năm sinh nhưng không xác định được tháng sinh thì
tháng sinh được xác định là tháng một của năm sinh;


13


b) Nếu xác định được năm sinh, tháng sinh nhưng không xác định được ngày
sinh thì ngày sinh được xác định là ngày mùng một của tháng sinh.
Tảo hôn là việc lấy vợ, lấy chồng khi một bên hoặc cả hai bên chưa đủ tuổi kết
hôn theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 8 của luật này. Mặt khác điểm b khoản 2
Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cấm hành vi tảo hôn. Do đó có thể khẳng
định việc chung sống như vợ chồng dưới tuổi luật định không đăng kí kết hôn là
chung sống như vợ chồng trái pháp luật.
Nguyên nhân của tình trạng này là do phong tục tập quán của địa phương hay
là do nguyện vọng của hai bên gia đình mong muốn các con được thành lập gia đình
sớm, hoặc do tình yêu đôi lứa của hai bên nam nữ màhọ muốn chung sống với nhau
dù chưa đến tuổi được kết hôn. Tảo hôn không chỉ là việc nam, nữ kết hôn trước
tuổi luật định mà còn bao gồm cả trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng
trước tuổi luật định.
Thứ hai, chung sống như vợ chồng giữa nam và nữ mà một bên hoặc cả hai
bên đang có vợ, có chồng.
Tại Điểm c khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về cấm các
hành vi để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình :“người đang có vợ có chồng mà kết
hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng
mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”
Cùng theo quy định tại khoản 4 Điều 2 TTLT số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP thì “Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định tại điểm c khoản
2 Điều 5 của Luật HN&GĐ là người thuộc một trong các trường hợp sau đây:
“a) Người đã kết hôn với người khác theo đúng quy định của pháp luật
về hôn nhân và gia đình nhưng chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng)
của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
b) Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-011987 mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ
(chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết;
c) Người đã kết hôn với người khác vi phạm điều kiện kết hôn theo quy
định của Luật HN&GĐ nhưng đã được Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân



14

bằng bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và chưa ly hôn
hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ chết hoặc vợ (chồng) của họ không
bị tuyên bố là đã chết.”
Như vậy, có thể nói một người đang có vợ, có chồng được hiểu là khi người đó
đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp thì được coi là đang có vợ có chồng.
Nguyên nhân này là do mặt trái của nền kinh tế thị trường dẫn đến sự xuống
cấp về đạo đức, tác động đến quan hệ vợ chồng, nhiều giá trị tốt đẹp của gia đình
Việt Nam bị phá vỡ, hiện tượng ngoại tình diễn ra ngày một nhiều, ngoại tình không
chỉ có ở người chồng mà còn xảy ra ở người vợ. Tình trạng này làm hạnh phúc gia
đình không còn được bền vững.
Thứ ba, trường hợp thuộc điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014.
Điểm d khoản 2 Điều 5 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những
người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa những
người đã từng là cha, mẹ nuôi với con, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể,
cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng”.
Trường hợp này bị coi là chung sống trái pháp luật, các quan hệ này mang tính
chất “loạn luận” làm cho đời sau phải gánh chịu hậu quả do đời trước để lại, ảnh
hưởng tới chất lượng nòi giống. Do đó, pháp luật cấm hành vi này bởi nó sẽ làm
mất đi giá trị tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Tình trạng này thường diễn ra ở những
nơi có đồng bào dân tộc. Họ là những người có trình độ dân trí thấp, không hiểu
biết pháp luật. Tình trạng này dẫn đến nhiều trường hợp hôn nhân cận huyết, làm
ảnh hưởng không nhỏ tới giống nòi.
Như vậy, chung sống như vợ chồng nếu thuộc các hành vi quy định ở trên thì
sẽ là các hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật.
* Giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng và
được pháp luật công nhận là vợ chồng
Nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng có giá trị pháp lý là những trường

hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 (trước ngày Luật


15

HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực). Những trường hợp này thì dù họ đăng ký kết hôn
hay không thì thời kỳ hôn nhân của họ vẫn được tính từ thời điểm họ chung sống
với nhau.
Cũng tại điểm b khoản 4 Điều 2 sau đây gọi là TTLT số 01/2016/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BTP quy định:“Người đang có vợ hoặc có chồng” quy định
tại điểm c khoản 2 Điều 5 của Luật HN&GĐ năm 2014 là người thuộc trường hợp
sau đây: “Người xác lập quan hệ vợ chồng với người khác trước ngày 03-01-1987
mà chưa đăng ký kết hôn và chưa ly hôn hoặc không có sự kiện vợ (chồng) của họ
chết hoặc vợ (chồng) của họ không bị tuyên bố là đã chết” .
Và tại Khoản 3, Điều 25, thông tư số 15/2015/TT-BTP ngày ngày 16 tháng 11
năm 2015 của Bộ tư pháp quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch và
Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch, hướng dẫn về cách ghi
“Tình trạng hôn nhân” trong giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đối với trường hợp
chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 như sau: “Nếu là trường hợp
chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 và vẫn chung sống với
nhau mà chưa đăng ký kết hôn thì ghi “Hiện tại đang có vợ/chồng là bà/ông...”.
Như vậy, căn cứ vào những văn bản hướng dẫn trên thì trường hợp nam, nữ
chung sống như vợ chồng trước ngày 03/01/1987 vẫn được pháp luật thừa nhận
quan hệ hôn nhân. Theo đó, khi có yêu cầu ly hôn sẽ được thụ lý giải quyết việc ly
hôn nếu các bên có yêu cầu, quyền và nghĩa vụ của các bên được pháp luật giải
quyết như đối với trường hợp vợ chồng ly hôn. Quyền lợi của người phụ nữ sẽ được
bảo vệ như người vợ trong trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn. Nếu người vợ
đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì người chồng không
được quyền yêu cầu ly hôn, hay nói cách khác người chồng bị hạn chế quyền yêu
cầu ly hôn (Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014).2

Việc pháp luật quy định như vậy là hợp lý bởi:

Lê Thu Trang (2015), uyền lợi của các bên chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn mà
xin ly hôn, Tạp chí dân chủ và pháp luật;
2


16

Thứ nhất, quan hệ này được xác lập trong một thời điểm đặc biệt, trước khi có
Luật HN&GĐ năm 1986, chúng ta mất một khoảng thời gian dài đất nước bị chia
cắt. Điều này tác động không nhỏ tới vấn đề vi phạm thủ tục đăng ký kết hôn.
Thứ hai, các quan hệ được xác lập trước ngày 03/01/1987, tính đến thời điểm
Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực, đã trải qua một thời gian dài, mối quan hệ
giữa hai bên nam, nữ cũng đã ổn định. Bởi vậy công nhận giá trị pháp lý đối với
những trường hợp này là cần thiết để ổn định quan hệ hôn nhân gia đình tránh
những xáo trộn trong đời đống gia đình của họ.
1.1.2. Khái niệm giải quyết hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống
như vợ chồng
Giải quyết là việc lựa chọn các phương thức thích hợp để giải tỏa các mâu
thuẫn, bất đồng, hài hòa lợi ích của các chủ thể trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên
và quy định của pháp luật, giúp đảm bảo trật tự, ổn định xã hội .
Theo từ điển Tiếng Việt, hậu quả được hiểu là kết quả không hay về sau. Như
vậy, hiểu theo định nghĩa này, hậu quả của việc chung sống như vợ chồng chính là
những kết quả không hay khi giữa hai người chung sống như vợ chồng không còn
tình cảm và họ không còn muốn chung sống dưới một mái nhà, cùng nhau xây dựng
gia đình và chăm sóc con cái nữa. Thực tế nếu như trong quan hệ chung sống như
vợ chồng giữa hai người tham gia vào quan hệ luôn yêu thương và có một cuộc
sống hạnh phúc thì có lẽ, chung sống như vợ chồng sẽ mang lại cho cả hai bên
nhiều những niềm vui, sự lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống và tình yêu. Ngoài ra,

với các trường hợp chung sống như vợ chồng được coi là sống thử trước hôn nhân
thì nhìn chung, ta coi việc chung sống này như một cơ hội để ta có được lựa chọn
tốt nhất về người vợ, người chồng của mình trong tương lai. Đồng thời, việc chung
sống như vợ chồng do không đăng ký kết hôn nên không có ràng buộc, hai bên có
thể dễ dàng chấm dứt mối quan hệ bất kì lúc nào mình muốn mà không cần phải
thông qua một cơ quan, tổ chức nào cả.Tuy nhiên, nhìn chung, việc chung sống như
vợ chồng sẽ đem lại nhiều hệ quả xấu hơn là những hệ quả tích cực kể trên.


17

Về mặt pháp luật, hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng là tổng
hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản và
con cái giữa hai người chung sống như vợ chồng khi ly hôn.
- Về quan hệ nhân thân
Khi hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng do không có sự kiện pháp lý là
ĐKKH nên giữa hai bên không phát sinh quyền và nghĩa vụ về nhân thân. Khi thụ
lý giải quyết, Toà án sẽ tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng.
- Về quan hệ tài sản
Khi nam, nữ chung sống như vợ chồng có yêu cầu chấm dứt quan hệ, hay
tranh chấp về tài sản, con cái thì họ khó có thể thoả thuận thống nhất trong việc
phân chia tài sản, nuôi dưỡng con cái nên cần có một cơ quan Nhà nước có đủ thẩm
quyền tiến hành giải quyết việc giải quyết các hậu quả sau khi họ chung sống như
vợ chồng. Theo khoản 7 Điều 28 Bộ luật Tố Tụng dân sự năm 2015 (BLTTDS
2015) [3] quy định: “Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp
luật thuộc thẩm quyền giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ
chồng của Toà án”.
Khi một trong hai bên nam, nữ chung sống như vợ chồng có đơn gửi đến Toà
án yêu cầu giải quyết ly hôn và cùng với việc ly hôn họ yêu cầu giải quyết về tài sản

và con cái thì Toà án sẽ tiến hành thụ lý vụ án, thực hiện các thủ tục, quy trình tố
tụng đã được pháp luật Tố tụng quy đinh như: lấy lời khai, thu thập chứng cứ, hoà
giải, mở phiên toà….Các bước tố tụng này giúp Toà án có thể xem xét, đánh giá
chứng cứ, cân nhắc ký, quyết định về tính hợp pháp, hợp lý trong lời khai, chứng cứ
do các bên đưa ra để đưa ra các quyết định cuối cùng.
- Về quan hệ cha, mẹ và con:
Quan hệ giữa cha mẹ và con là một quan hệ thiêng liêng, được Nhà nước bảo
vệ và điều chỉnh bằng các quy định pháp luật.Thông thường quan hệ giữa cha mẹ và
con được phát sinh từ sự kiện sinh đẻ. Khi một đứa trẻ ra đời, quan hệ huyết thống
là căn cứ phát sinh quan hệ giữa cha mẹ và con.


18

Quan hệ cha mẹ và con là loại quan hệ xã hội đặc biệt hình thành giữa những
chủ thể có quan hệ gần gũi, gắn bó và thân thiết nhất trong gia đình.Pháp luật chỉ
điều chỉnh các quan hệ cơ bản, chủ yếu nhất trong quan hệ cha, mẹ và con.Nội dung
quan hệ pháp luật giữa cha mẹ và con là nghĩa vụ và quyền nhân thân; nghĩa vụ và
quyền tài sản của cha mẹ đối với con. Bên cạnh đó còn bao gồm cả nghĩa vụ và
quyền nhân thân, nghĩa vụ và quyền tài sản của con đối với cha mẹ.
Khi xác định quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái, luật chỉ dựa vào
sự tồn tại của quan hệ giữa cha mẹ - con cái, không phân biệt tính chất của quan hệ
đó theo tính chất của quan hệ giữa cha và mẹ, là vợ chồng hợp pháp hay chung sống
như vợ chồng. Sự kiện chấm dứt quan hệ giữa nam, nữ chung sống như vợ chồng,
nhưng quan hệ giữa cha mẹ và con cái về nguyên tắc không thay đổi. Cha mẹ vẫn
phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình đối với con cái, nhưng cách thức
thực hiện quyền và nghĩa vụ này có những đặc thù nhất định, không giống như
trong thời kỳ chung sống. Trong quan hệ giữa cha, mẹ và con thì cha và mẹ có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên, khi cha
mẹ chung sống như vợ chồng, việc thực hiện quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con

cái có sự khác nhau. Khi cha mẹ chấm dứt quan hệ chung sống, con chỉ có thể ở
cùng với một trong hai bên, do đó, sự gặp gỡ, chăm sóc, giáo dục,… của bên không
trực tiếp nuôi con sẽ ít nhiều bị hạn chế hơn so với bên kia. Con không sống chung
với cha, mẹ dưới một mái nhà không thể thụ hưởng sự chăm sóc, quan tâm, giáo
dục từ cha mẹ trong cùng những điều kiện như con sống chung với cha mẹ.
Như vậy, giải quyết hậu quả pháp lý của việc chung sống như vợ chồng là cách
thức mà pháp luật quy định để xử lý các quan hệ về nhân thân, tài sản, và con cái giữa
hai người nam, nữ chung sống như vợ chồng với nhau, giữa hai người nam, nữ chung
sống như vợ chồng với người thứ ba với con cái khi họ chấm dứt việc chung sống.
1.2. Sơ lược pháp luật điều chỉnh quyền và lợi ích của nam, nữ chung
sống như vợ chồng và giải quyết hậu quả pháp lý
1.2.1. Giai đoạn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và giải quyết
hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống như vợ chồng


19

Điều 11 Luật HN&GĐ năm 1959 quy định: “Việc kết hôn phải được Ủy ban
hành chính cơ sở nơi trú quán của bên người con trai hoặc bên người con gái công
nhận và ghi vào sổ kết hôn. Mọi hình thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt
pháp luật”
Như vậy, theo Luật HN&GĐ năm 1959, vấn đề ĐKKH là thủ tục bắt buộc để
hôn nhân có hiệu lực pháp luật, những trường hợp chung sống như vợ chồng không
ĐKKH sẽ không được Nhà nước thừa nhận. Tuy nhiên, đây là thời kì nước ta đang
trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, kéo dài suốt hơn 20 năm, việc mọi người tiến
hành kết hôn vẫn chỉ theo thông lệ, phong tục cũ mà chưa tiến hành tuân theo quy
định của pháp luật, hay nếu có muốn tuân theo thì đôi khi cũng không có điều kiện
để thực hiện: thiếu cơ sở vật chất, cán bộ,…. Mà theo pháp luật, nếu hôn nhân
không được công nhận, khi xảy ra các tranh chấp hay vấn đề phát sinh sẽ không
được pháp luật bảo hộ. Trong hoàn cảnh như vậy, Nhà nước không chỉ thừa nhận

những quan hệ hôn nhân có đăng kí là hợp pháp mà cả những quan hệ chung sống
như vợ chồng mà không vi phạm pháp luật cũng được coi là hợp pháp. Lúc này, để
bảo vệ quyền lợi của các bên nam, nữ song vẫn thể hiện được việc tuân thủ Luật
HN&GĐ về các điều kiện kết hôn, tại Thông tư số 112/NCPL ngày 19/8/1972 Toà
án nhân dân (TAND) tối cao hướng dẫn việc xử lý việc kết hôn vi phạm thủ tục
ĐKKH với nội dung sau: “Chỉ coi là hôn nhân thực tế việc kết hôn chưa đăng ký,
kết hôn mà hai bên nam nữ đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn khác chỉ vi
phạm thủ tục đăng ký kết hôn. Kể từ khi kết hôn đã thực sự chung sống công khai,
gánh vác chung công việc gia đình, được họ hàng, xã hội xung quanh coi như vợ
chồng”. “Hôn nhân thực tế” là thuật ngữ chỉ quan hệ vợ chồng mà khi xác lập quan
hệ đó các bên nam, nữ không tiến hành ĐKKH theo quy định của pháp luật. Mặc
dù, không có giấy chứng nhận kết hôn nhưng các bên nam, nữ vẫn chung sống như
vợ chồng và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình
và xã hội.
Thừa nhận quan hệ chung sống như vợ chồng không ĐKKH điều đó có nghĩa
quan hệ hôn nhân của hai bên nam, nữ được pháp luật bảo vệ. Theo tinh thần của


×