Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực trạng kết hôn giữa phụ nữ việt nam với người nước ngoài ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------***-------

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

THỰC TRẠNG KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM VỚI
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-------***-------

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

THỰC TRẠNG KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM VỚI
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 60380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Thị Hường

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn theo đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phượng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
CDVN:

Công dân Việt Nam

HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình

NNN:


Người nước ngoài

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP:

Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31
tháng 12 năm 2014 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật Hôn nhân và gia đình.

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP:

Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15
tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi
hành Luật hộ tịch.

Nghị quyết số 58/2017/NQ-CP:

Nghị quyết số 58/2017/NQ-CP của Chính
phủ ban hành ngày 04 tháng 07 năm 2017
về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính,
giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân
cư thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà
nước của Bộ Tư pháp.

Thông tư số 15/2015/TT-BTP:

Thông tư số 15/2015/TT-BTP của Bộ Tư
pháp ngày 16 tháng 11 năm 2015 quy định

chi tiết thi hành một số điều của Luật hộ
tịch và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ
quy định chi tiết một số điều và biện pháp
thi hành Luật hộ tịch.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM
VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM..................................................... 7

1.1 Khái niệm kết hôn ....................................................................................... 7
1.1.1. Định nghĩa kết hôn .................................................................................. 7
1.1.2. Ý nghĩa của việc kết hôn ......................................................................... 9
1.2. Quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài ........................ 10
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN GIỮA PHỤ
NỮ VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .... 19

2.1. Tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ở Việt
Nam hiện nay .................................................................................................. 19
2.1.1. Đánh giá chung ..................................................................................... 19
2.1.2. Tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài tại
các vùng miền.................................................................................................. 25
2.1.3. Nguyên nhân gia tăng việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người
nước ngoài ở Việt Nam hiện nay…………………………………………….32
2.2. Áp dụng pháp luật về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước
ngoài ở Việt Nam hiện nay ............................................................................. 34
2.2.1. Áp dụng pháp luật về việc đăng ký kết hôn .......................................... 34
2.2.2. Áp dụng pháp luật về điều kiện kết hôn ............................................... 48

Chương 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁT SINH TỪ VIỆC KẾT HÔN GIỮA PHỤ
NỮ VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP
NHẰM ĐẢM BẢO QUYỀN LỢI CHO PHỤ NỮ VIỆT NAM KHI KẾT HÔN
VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI .......................................................................... 55

3.1. Mặt trái của việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay .......................................................................................... 55


3.1.1. Kết hôn không dựa trên cơ sở tình yêu nam nữ .................................... 55
3.1.2. Những biểu hiện tiêu cực từ những cuộc hôn nhân giữa phụ nữ Việt
Nam với người nước ngoài ............................................................................. 60
3.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của phụ nữ Việt Nam khi kết
hôn với người nước ngoài ............................................................................... 63
3.2.1. Về áp dụng pháp luật............................................................................. 63
3.2.2. Về công tác xã hội ................................................................................. 67
KẾT LUẬN...................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, cùng với sự thành công của công cuộc đổi

mới với nhiều chính sách mở rộng hội nhập quốc tế của Đảng và nhà nước ta
đã làm cho đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện đáng kể. Cùng với sự

phát triển của quá trình giao lưu, hợp tác quốc tế, quan hệ kết hôn giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài cũng ngày càng trở nên phổ biến. Số
lượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài đang có xu hướng gia
tăng qua các năm làm phát sinh không ít vấn đề, ảnh hưởng tới cuộc sống gia
đình và xã hội. Bên cạnh những yếu tố tiến bộ, tích cực, việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài đang nảy sinh các hệ lụy như: Hiện
tượng lấy chồng là người nước ngoài vì mục đích kinh tế, để xuất ngoại, kết
hôn không xuất phát từ tình yêu nam nữ, sự tự nguyện… Những hiện tượng
này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
thuần phong mỹ tục của người Việt Nam. Ngoài ra, còn phải kể đến trường
hợp lợi dụng việc kết hôn với người nước ngoài nhằm buôn bán người…Có
rất nhiều nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan dẫn đến các hiện
tượng trên, trong đó sự bất cập của quy định pháp luật trong việc điều chỉnh
các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đóng vai trò không
nhỏ. Trước thực trạng trên, việc điều chỉnh quan hệ này trở thành một yêu cầu
cấp bách, quan trọng không chỉ làm ổn định và phát triển giao lưu dân sự
quốc tế mà còn góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ Việt
Nam khi kết hôn với người nước ngoài.
Để kịp thời điều chỉnh được các quan hệ hôn nhân và gia đình nói
chung, quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài nói
riêng, nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật như: Luật HN&GĐ
năm 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Hộ tịch năm 2014; Nghị
định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy
định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch; Thông tư số


2

15/2015/TT-BTP của Bộ tư pháp ngày 16 tháng 11 năm 2015 quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật hộ tịch... Điều này đã tạo điều kiện cho việc

kết hôn có yếu tố nước ngoài có cơ sở pháp lý để thực hiện, đồng thời tăng
cường sự quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố
nước ngoài. Do vậy, trong thời gian qua, số lượng công dân Việt Nam kết hôn
với người nước ngoài tăng nhanh về cả số lượng và ngày càng đa dạng về
phạm vi chủ thể. Tuy nhiên, trải qua quá trình áp dụng, những văn bản pháp
luật này đã bộc lộ một số vướng mắc, bất cập, chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam
với người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay là điều cần thiết. Trên cơ sở đó
đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về
kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài. Nhận thức được tầm
quan trọng đó, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề “ Thực trạng phụ nữ Việt
Nam kết hôn với người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài là vấn

đề có tính thời sự, vì vậy có không ít các công trình nghiên cứu, bình luận,
đánh giá về vấn đề này.
Trong nhóm luận văn có một vài công trình nghiên cứu như luận văn với
đề tài “Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn” của tác giả Tạ Tùng Hoa, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2014; “Pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài và thực tiễn thi hành tại tỉnh
Bắc Giang” của tác giả Nguyễn Thị Đà, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2016…
Khóa luận tốt nghiệp cũng có những đề tài nghiên cứu về vấn đề kết hôn có
yếu tố nước ngoài như “Kết hôn có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Trần Thị Thu Trang, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2012; “Kết hôn
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam” của tác giả Trần Thị Liên, Trường Đại
học Luật Hà Nội, 2016… Hầu hết các công trình nghiên cứu này đã nêu lên



3

các vấn đề cơ bản của pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này
chủ yếu nghiên cứu về việc xây dựng các quy định pháp luật Việt Nam hoặc
nghiên cứu dưới góc độ tư pháp quốc tế, lý giải về hiện tượng xung đột pháp
luật trong khi giải quyết quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Bên cạnh đó, trong nhóm sách, báo, tạp chí chuyên ngành luật cũng có
nhiều bài viết liên quan đến vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người
nước ngoài như: cuốn “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài ở
Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế” của Nông Quốc Bình và Nguyễn
Hồng Bắc, Nxb Tư pháp, năm 2006; bài viết của Đỗ Văn Chỉnh đăng trên tạp
chí Tòa án nhân dân, số 1 (1/2011) với nhan đề: "Kết hôn có yếu tố nước
ngoài và thực tiễn áp dụng pháp luật"…Ngoài ra còn có một số giáo trình và
bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình. Các sách, các bài viết nêu trên
đã phân tích, bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật về kết hôn có yếu
tố nước ngoài hoặc đi sâu nghiên cứu về một số vấn đề cụ thể tại địa bàn một
tỉnh trên cả nước nhưng lại ít đề cập đến thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật vào thực tế cuộc sống còn những điểm gì chưa được phù hợp, chưa
nghiên cứu được toàn diện các vấn đề công dân Việt Nam kết hôn với người
nước ngoài.
Như vậy, cho đến nay các công trình khoa học vẫn chưa nghiên cứu một
cách toàn diện và đầy đủ về thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với
người nước ngoài tại Việt Nam hiện nay, các vấn đề phát sinh từ quan hệ kết
hôn này và những giải pháp khắc phục nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho
người phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài. Do đó,
so với các công trình nghiên cứu đã từng công bố, đề tài luận văn này là hoàn
toàn không có sự trùng lặp về mặt nội dung.

3.

Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực tiễn áp dụng các quy định pháp

luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại các cơ quan có thẩm quyền của Việt


4

Nam và một số giải pháp nhằm khắc phục những bất cập, hoàn thiện các quy
định pháp luật để đảm bảo quyền lợi cho người phụ nữ Việt Nam trong quan
hệ kết hôn với người nước ngoài hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn tập trung vào một số vấn đề
như sau:
- Tình hình đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài mà chủ yếu là nữ công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài
trong ba năm từ năm 2014 đến năm 2016 tại ba vùng miền trên cả nước.
- Tìm hiểu một số vấn đề phát sinh, các hệ lụy của việc kết hôn giữa phụ
nữ Việt Nam với người nước ngoài.
4.

Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là: Đánh giá được thực trạng đăng ký

kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài tại Việt Nam trong thời
gian gần đây; Làm rõ được những điểm tiến bộ và những bất cập còn tồn tại
trong quy định của pháp luật khi điều chỉnh việc kết hôn có yếu tố nước
ngoài; Đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và đảm bảo được
quyền, lợi ích cho phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài.

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, luận văn cần phải giải quyết được
những nhiệm vụ cụ thể bao gồm:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam
với người nước ngoài tại Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài tại ba vùng miền trong cả nước trong khoảng thời gian ba năm từ
năm 2014 đến năm 2016.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về kết hôn giữa
phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về kết hôn có yếu
tố nước ngoài.
5.

Phương pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn


5

Luận văn đã nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu bao gồm: Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp so sánh, đối chiếu…Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu khác cũng
được sử dụng như phương pháp trích dẫn, thống kê, thu thập, xử lý thông tin
từ các nguồn tài liệu khác nhau.
6.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là một trong những công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống

các vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật điều chỉnh việc kết hôn
giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ

mang lại những ý nghĩa khoa học:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích khái niệm “kết hôn” đã được
pháp luật quy định, tác giả đã đưa ra khái niệm về kết hôn có yếu tố nước
ngoài, kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Việc đưa ra khái
niệm này trong tình hình hiện nay là điều cần thiết, đóng góp vào công tác
nghiên cứu và giảng dạy về pháp luật dân sự nói chung, pháp luật hôn nhân và
gia đình nói riêng.
Thứ hai, luận văn đã nghiên cứu được tình hình kết hôn giữa phụ nữ Việt
Nam với người nước ngoài trong những năm gần đây tại ba vùng miền trong
cả nước, đã phân tích, đánh giá được những ưu điểm và hạn chế trong quy
định của pháp luật hiện hành về vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài.
Thứ ba, luận văn đã đánh giá được những hệ luỵ, những vấn đề đặt ra của
thực trạng kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Đồng thời
đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kết hôn có yếu tố nước
ngoài và đảm bảo quyền, lợi ích cho phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người
nước ngoài.
Bên cạnh ý nghĩa khoa học, luận văn cũng mang những ý nghĩa thực tiễn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tư liệu mang tính lý luận và thực
tiễn sâu sắc để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, tham khảo, góp


6

phần sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước
ngoài. Đồng thời, kết quả nghiên cứu ngày cũng có thể được dùng làm tư liệu
học tập, tài liệu tham khảo và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo luật, sử dụng
trong các cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn, là tài liệu cho những người
làm công tác xã hội hoặc các cơ quan, tổ chức nghiên cứu về quan hệ kết hôn
có yếu tố nước ngoài…

7.

Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm

3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người
nước ngoài ở Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam
với người nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số vấn đề phát sinh từ việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam
với người nước ngoài ở Việt Nam và giải pháp nhằm đảm bảo quyền lợi cho
phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với người nước ngoài.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ VIỆT NAM VỚI
NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1.1 Khái niệm kết hôn
1.1.1. Định nghĩa kết hôn
Từ xa xưa tới nay, hôn nhân là một trong những yếu tố không thể thiếu
trong một xã hội, nó gắn kết giữa hai cá nhân khác giới với nhau cùng xây
dựng nên một cuộc sống hạnh phúc ấm no. Có thể hiểu, hôn nhân là sự kết
hợp của các cá nhân về mặt tình cảm, xã hội hoặc tôn giáo một cách ngẫu
nhiên và tự nhiên. Hôn nhân là kết quả của một tình yêu nam nữ nhưng đôi
khi cũng là kết quả của một cuộc hôn ước giữa hai gia đình hoặc hai dòng
tộc… Dù là kết quả của những nguyên nhân gì đi nữa, hôn nhân vẫn là một
mối quan hệ cơ bản trong một xã hội. Hôn nhân thường là sự kết hợp giữa

một người đàn ông được gọi là chồng và một người đàn bà được gọi là vợ. Ở
một số nước trên thế giới, nhất là các nước Hồi giáo, họ vẫn thừa nhận hôn
nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ nhưng đồng thời
cũng cho phép một người đàn ông thực hiện kết hôn với nhiều người đàn bà
cùng một lúc (chế độ hôn nhân đa thê). Chế độ hôn nhân đa thê cũng có thời
kỳ được thừa nhận ở phương Đông như Việt Nam, Trung Quốc … nhưng hiện
nay đã bị bãi bỏ. Ở một số bộ tộc hình thành từ thời kỳ sơ khai của nền văn
minh, chế độ đa phu cũng được tồn tại, theo đó một người đàn bà có thể
chung sống với nhiều người đàn ông cùng một lúc. Trong xu hướng hiện đại
ngày nay, hôn nhân giữa những người cùng giới tính cũng được một số nước
trên thế giới thừa nhận, họ thấy rằng sự khác biệt về giới tính không phải là
điều kiện bắt buộc của hôn nhân. Các nước Bắc Âu là nơi phát triển mạnh
nhất của xu hướng này. Riêng Hà Lan là nước đầu tiên đã thông qua đạo luật
cho phép kết hôn giữa những người có cùng giới tính. Ðối với xã hội phương
Ðông, nhất là đối với xã hội Việt Nam, hôn nhân giữa những người cùng giới
tính không nằm trong các trường hợp cấm kết hôn nhưng cũng không được


8

pháp luật thừa nhận. Mặc dù trên thế giới tồn tại nhiều hình thức hôn nhân
khác nhau nhưng tựu trung lại, khi nhắc đến hôn nhân, có thể thấy, về mặt xã
hội, sự kiện đánh dấu chính thức cho một cuộc hôn nhân đó là hình thức tổ
chức lễ cưới. Về mặt pháp luật, hôn nhân được thừa nhận giữa hai cá nhân với
nhau thông qua việc đăng ký kết hôn.
Như vậy, kết hôn là một sự kiện không thể thiếu trong việc xác lập quan
hệ hôn nhân. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trải qua các đạo luật về hôn
nhân và gia đình như Luật HN&GĐ năm 1959 ; Luật HN&GĐ năm 1986 ;
Luật HN&GĐ năm 2000 và đến nay là Luật HN&GĐ năm 2014 được ban
hành có giải thích về kết hôn, theo đó, tại khoản 5 Điều 3 Luật HN&GĐ năm

2014 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với
nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.
Với quy định của pháp luật nêu trên, có thể thấy rằng, kết hôn theo Luật
HN&GĐ Việt Nam có những đặc điểm như sau :
Một là, kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau.
Đây là một trong những điều kiện để các bên có thể thực hiện kết hôn theo
quy định, giới tính được xác lập quan hệ kết hôn phải là một nam và một nữ
có mong muốn được xác lập quan hệ vợ chồng với nhau. Mong muốn được
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau thể hiện ở các thủ tục như khai Tờ khai
đăng ký kết hôn, cùng nhau tới cơ quan đăng ký kết hôn có thẩm quyền và
cùng nhau mong muốn được xác lập quan hệ vợ chồng, xây dựng gia đình
hạnh phúc. Ngay trong chính nội dung quy định của pháp luật, Luật HN&GĐ
cũng không thừa nhận kết hôn giữa những người cùng giới tính.
Hai là, việc kết hôn phải tuân thủ quy định của pháp luật về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hôn. Đây là điều kiện để được pháp luật thừa nhận và bảo
vệ quyền kết hôn của công dân. Khi hai bên nam, nữ mong muốn được xác
lập quan hệ vợ chồng với nhau và đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện về kết hôn
theo quy định của Luật HN&GĐ thì các bên có thể đến cơ quan có thẩm
quyền thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật.


9

Như vậy, kết hôn là một sự kiện pháp lý nhằm phát sinh quan hệ giữa vợ
và chồng, là thời điểm xác định quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau
và là cơ sở đảm bảo quyền, lợi ích cho vợ, chồng trong mối quan hệ hôn
nhân. Mặc dù kết hôn là quyền nhân thân gắn với mỗi con người và được
pháp luật thừa nhận nhưng để được pháp luật bảo vệ và đảm bảo thực hiện thì
các cá nhân phải đáp ứng các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Ý nghĩa của việc kết hôn

Dưới góc độ pháp lý, việc kết hôn của nam nữ là sự kiện pháp lý làm
phát sinh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, theo đó,
quyền lợi về nhân thân của vợ chồng mang yếu tố tình cảm, là lợi ích tinh
thần giữa vợ và chồng, gắn liền với bản thân vợ, chồng trong suốt thời kỳ hôn
nhân. Quyền lợi về tài sản sẽ hình thành khối tài sản chung, tài sản riêng của
vợ chồng khi phát sinh quan hệ hôn nhân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ.
Dưới góc độ xã hội, kết hôn là kết quả của một tình yêu nam nữ được
xây dựng trên cơ sở sự yêu thương, quan tâm và chăm sóc lẫn nhau, cùng chia
sẻ buồn vui với nhau, là sự ra đời của những đứa trẻ, là nền tảng của gia đình,
mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Tuy nhiên, trong xã hội hiện nay, việc kết hôn đã trở nên phức tạp hơn
khi có nhiều cuộc hôn nhân diễn ra chớp nhoáng, họ bằng mọi giá kết hôn với
nhau nhưng cũng nhanh chóng tan giã vì những nguyên nhân không đáng có,
hoặc cảm thấy không còn hòa hợp và không thể sống chung với nhau được
nữa. Bên cạnh đó, có một vài quốc gia trên thế giới, họ công nhận việc kết
hôn giữa những người cùng giới tính. Những điều này đã làm mất đi ý nghĩa
thiêng liêng của việc kết hôn bởi kết hôn là kết quả của tình yêu nam nữ, là
kết quả của ý chí và sự tự nguyện đến với nhau trên cơ sở tuân thủ quy định
của pháp luật, là sự ràng buộc lẫn nhau bởi trách nhiệm, bởi nghĩa vụ và sự
yêu thương lẫn nhau… Chính những lối suy nghĩ hiện đại ngày nay đã khiến
cho việc kết hôn diễn ra dễ dàng và cũng từ bỏ dễ dàng.


10

Với những ý nghĩa về mặt pháp lý cũng như xã hội của việc kết hôn, kết
hôn có yếu tố nước ngoài cũng mang những ý nghĩa to lớn như thể hiện được
quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của mỗi cá nhân, góp phần vào sự giao lưu
phát triển các nền văn hóa giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.
1.2. Quy định của pháp luật về kết hôn có yếu tố nước ngoài

Nếu như giải thích: kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng
với nhau theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn thì kết hôn có yếu tố nước ngoài có thể được hiểu như sau :
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với
nhau theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn có
yếu tố nước ngoài.
Luật HN&GĐ năm 2014 chưa đưa ra một khái niệm cụ thể về kết hôn có
yếu tố nước ngoài mà chỉ đưa ra cách giải thích về quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài. Cụ thể tại khoản 25 Điều 3 Luật HN&GĐ năm
2014 quy định: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan
hệ hôn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hôn nhân và gia đình giữa
các bên tham gia là công dân Việt Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài, phát sinh tại nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. Với quy định của pháp
luật nêu trên, quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài bao gồm các
quan hệ như sau : quan hệ kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng có yếu tố nước
ngoài ; quan hệ giữa cha, mẹ, con có yếu tố nước ngoài ; quan hệ giám hộ có
yếu tố nước ngoài ; quan hệ cấp dưỡng có yếu tố nước ngoài ; quan hệ ly hôn
có yếu tố nước ngoài. Như vậy, quan hệ hôn nhân và gia đình có phạm vi rất
rộng và nhiều nội dung. Trong phạm vi của luận văn này, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài mà cụ thể là vấn đề kết
hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Theo đó, các trường hợp
kết hôn có yếu tố nước ngoài bao gồm các trường hợp như sau :


11

Thứ nhất, trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau cư trú tại Việt Nam. Trong quan

hệ kết hôn này, một bên là công dân Việt Nam và một bên là người nước
ngoài. Công dân Việt Nam và người nước ngoài khi tham gia quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài phải tuân thủ theo pháp luật nước mình về điều kiện
kết hôn. Bên cạnh đó, nếu việc kết hôn được tiến hàng tại cơ quan nhà nước
có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân thủ theo các
quy định của pháp luật Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Thứ hai, trường hợp kết hôn giữa công dân Việt Nam với nhau nhưng sự
kiện xác lập quan hệ kết hôn được thực hiện theo pháp luật nước ngoài hoặc
phát sinh ở nước ngoài.
Như vậy, yếu tố nước ngoài được xác định trong quan hệ kết hôn căn cứ
vào những tiêu chí sau:
Một là, căn cứ vào chủ thể: phải có ít nhất một trong các bên tham gia
quan hệ kết hôn là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước
ngoài. Theo đó, người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao
gồm: người có quốc tịch nước ngoài, người không có quốc tịch; Người Việt
Nam định cư ở nước ngoài là người có quốc tịch Việt Nam, người gốc Việt
Nam đang làm ăn, cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài.
Hai là, căn cứ vào sự kiện pháp lý để xác lập quan hệ kết hôn theo pháp
luật nước ngoài hoặc phát sinh ở nước ngoài.
Với phạm vi nghiên cứu về vấn đề kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với
người nước ngoài tại Việt Nam, tác giả chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu trường
hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài tại cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam.
Dựa trên những giải thích về kết hôn, kết hôn có yếu tố nước ngoài, có
thể đưa ra khái niệm : Kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài là
việc nam giới là người nước ngoài và nữ giới là công dân Việt Nam xác lập
quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của pháp luật Việt Nam về điều


12


kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Theo đó, đối tượng tham gia quan hệ kết hôn
này phải là nam giới người nước ngoài và nữ giới là công dân Việt Nam có
mong muốn xác lập quan hệ vợ chồng với nhau.
Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có quy định riêng về vấn đề kết hôn giữa
phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài tiến hành tại Việt Nam, theo đó, tại
khoản 1 Điều 126 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định: “ 1. Trong việc kết
hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo
pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến
hành tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài
còn phải tuân theo các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn”. Với quy
định này, việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi
bên phải tuân thủ điều kiện kết hôn theo pháp luật nước mình.Tức là nam giới
nước ngoài khi muốn kết hôn với công dân Việt Nam, họ cần tuân thủ đầy đủ
các điều kiện kết hôn theo pháp luật nước họ. Nữ giới là công dân Việt Nam
cũng cần phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8
Luật HN&GĐ năm 2014.
Đặc biệt, khi hai bên nam, nữ đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền
Việt Nam, ngoài việc phải tuân thủ theo điều kiện kết hôn của pháp luật nước
họ, nam giới nước ngoài còn cần phải đáp ứng các điều kiện về kết hôn theo
quy định của pháp luật Việt Nam.
Căn cứ theo khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 có quy định:
“1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy
định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này”.



13

Với quy định của pháp luật nêu trên, khi nam, nữ có mong muốn được
kết hôn và chung sống với nhau, ngoài tình yêu giữa hai bên nam nữ, họ còn
phải tuân thủ các điều kiện kết hôn do pháp luật quy định như sau :
Thứ nhất, về tuổi kết hôn. Độ tuổi là thước đo cho sự phát triển của con
người, đảm bảo khả năng họ có thể thực hiện và chịu trách nhiệm về hành vi
của bản thân mình. Độ tuổi kết hôn được hiểu là độ tuổi mà một người khi đạt
đến độ tuổi đó, họ có quyền được xác lập quan hệ hôn nhân với một người
khác giới. Đối với các quốc gia khác nhau thì việc quy định độ tuổi kết hôn là
khác nhau nhưng nhìn chung độ tuổi kết hôn thường được quy định là 18 tuổi,
có nhiều nước cho phép độ tuổi kết hôn sớm hơn nếu có sự đồng ý của cha
mẹ hoặc pháp luật của nước đó. Việc quy định độ tuổi kết hôn không chỉ căn
cứ vào khả năng sinh sản của nam, nữ ở độ tuổi đó để đảm bảo con cái sinh ra
được khỏe mạnh cả về thể lực và trí tuệ mà còn đảm bảo cho việc hoàn thiện
năng lực nhận thức cũng như năng lực hành vi của cá nhân, có khả năng tham
gia vào quá trình lao động tạo ra thu nhập, đảm bảo cho cuộc sống độc lập về
kinh tế, góp phần xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc.
Quan niệm của người xưa cho rằng nữ thập tam, nam thập lục nghĩa là nữ 13
tuổi, nam 16 tuổi là đủ tuổi kết hôn. Tuy nhiên, khi xã hội ngày càng phát
triển, quan niệm của con người cũng dần thay đổi, việc quy định nam, nữ phải
đạt đến độ tuổi nhất định mới được quyền kết hôn là dựa trên các nghiên cứu
về y học và khoa học, phải đến độ tuổi chín muồi, cá nhân phát triển đầy đủ
về mặt thể chất và tinh thần thì mới nên thiết lập quan hệ hôn nhân để đảm
bảo cho cuộc sống hôn nhân sau này. Pháp luật nghiêm cấm những trường
hợp kết hôn dưới độ tuổi quy định bởi những người dưới độ tuổi đó đều trong
tình trạng chưa hoàn thiện năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Khác với
luật của nhiều nước, Luật HN&GĐ Việt Nam hiện hành không dự kiến bất kỳ
một trường hợp nào mà nam hoặc nữ có thể được phép kết hôn một cách
ngoại lệ khi chưa đạt độ tuổi quy định. Tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật

HN&GĐ năm 2014 quy định thì nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi


14

trở lên. Đây là điểm quy định mới tiến bộ hơn so với Luật HN&GĐ năm 2000
khi chỉ quy định nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên. Quy định này đã
khắc phục được sự không thống nhất giữa các quy định của pháp luật hiện
hành như tại Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định người thành niên là
người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Theo
đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 khẳng định độ tuổi mà cá nhân có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ, có khả năng tự chịu trách nhiệm về mọi hành vi của
mình là cá nhân phải đủ mười tám tuổi trở lên. Vì vậy, Luật HN&GĐ năm
2014 có sửa đổi độ tuổi nam, nữ khi kết hôn là một điểm mới so với Luật
HN&GĐ năm 2000, quy định mới này đã tạo sự thống nhất giữa quy định của
Bộ luật Dân sự 2015 và quy định của Luật HN&GĐ năm 2014.
Thứ hai, sự tự nguyện của các bên nam, nữ. Tự nguyện là sự thể hiện ý
chí tự bản thân mong muốn thực hiện, mong muốn được làm. Tự nguyện của
các bên nam, nữ trong việc kết hôn được hiểu là sự mong muốn xuất phát từ ý
chí của cả hai bên, tự mình quyết định việc kết hôn của bản thân và thể hiện ý
chí của chính mình muốn trở thành vợ chồng, có trách nhiệm với nhau suốt
cuộc đời. Việc kết hôn phải dựa trên ý chí của các bên nam, nữ mà không
chịu sự chi phối hay tác động bởi bất cứ yếu tố nào khiến cho việc kết hôn
xảy ra mà không theo ý chí và nguyện vọng của họ. Sự tự nguyện là yếu tố
quan trọng đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Pháp
luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của hai bên nam, nữ nhằm
đảm bảo cho họ được tự do thể hiện ý chí và tình cảm của mình khi thực hiện
kết hôn. Đây cũng là quy định cho thấy quyền con người luôn được đề cao và
tôn trọng bởi con người sinh ra có quyền được sống, quyền được tự do và
quyền được mưu cầu hạnh phúc. Quyền được tự do lựa chọn hạnh phúc và thể

hiện ý chí tự nguyện khi kết hôn là một trong những quyền mưu cầu hạnh
phúc của mỗi cá nhân. Pháp luật cũng quy định việc xem xét ý chí tự nguyện
của các bên được thể hiện thông qua các hành vi của các bên nam nữ. Họ phải
cùng nhau có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn để cùng nhau khai và nộp tờ


15

khai đăng ký kết hôn cho cơ quan có thẩm quyền. Pháp luật không cho phép
cử người đại diện trong việc đăng ký kết hôn và cũng không cho phép những
người kết hôn vắng mặt tại lễ đăng ký kết hôn. Như vậy, sự tự nguyện của các
bên nam nữ là cơ sở quan trọng để cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
thủ tục đăng ký kết hôn, thể hiện ý chí của các bên trong việc cùng nhau chấp
thuận những quyền lợi cũng như trách nhiệm với nhau trong quan hệ vợ
chồng. Pháp luật nghiêm cấm việc cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn và cản
trở kết hôn bởi kết hôn phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, mọi hành vi có
dấu hiệu lừa dối, cưỡng ép, cản trở việc kết hôn pháp luật có những chế tài xử
lý nghiêm khắc quy định tại Bộ luật Hình sự.
Thứ ba, người kết hôn không bị mất năng lực hành vi dân sự. Năng lực
hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình
xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 19 Bộ luật Dân sự năm
2015). Theo đó, khi một cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, họ có
khả năng thực hiện và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Họ đủ nhận thức
được rằng việc kết hôn với một người là họ sẽ có trách nhiệm chăm sóc, nuôi
dưỡng, yêu thương người sẽ là vợ, chồng của mình và thực hiện các nghĩa vụ
theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự năm
2015 quy định: “1. Khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác
mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết
định tuyên bố người này là người mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết

luận giám định pháp y tâm thần...” Với quy định này, có thể hiểu người mất
năng lực hành vi dân sự là người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và đã được Tòa án
tuyên bố người này mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy, đối với những
trường hợp kết hôn khi một người mắc các bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác
mà họ không nhân thức được và không tự chịu trách nhiệm đối với những
hành vi mà mình đang thực hiện, được Tòa án tuyên mất năng lực hành vi dân


16

sự theo quy định của pháp luật, họ không đáp ứng được điều kiện kết hôn.
Trên thực tế, có rất nhiều người mắc các bệnh tâm thần đến mức họ không thể
nhận thức và làm chủ được hành vi của mình nhưng người có quyền, lợi ích
liên quan không yêu cầu Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, khi họ
có yêu cầu đăng ký kết hôn thì cơ quan đăng ký kết hôn rất khó có thể nhận
biết được người đó có bị mất năng lực hành vi dân sự hay không. Vì vậy, đối
với những trường hợp nam, nữ đến làm thủ tục đăng ký kết hôn, trên cơ sở
quan sát, nhận biết năng lực hành vi dân sự của cá nhân thông qua hành vi mà
cá nhân thực hiện, cơ quan đăng ký kết hôn nếu thấy nghi ngờ hoặc có dấu
hiệu bất thường thì yêu cầu giám định về sức khỏe tâm thần. Như vậy, việc
kết hôn đáp ứng được các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định trường hợp, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi (khoản 1 Điều 23 Bộ luật Dân sự năm 2015) và
trường hợp, người hạn chế năng lực hành vi dân sự (khoản 1 Điều 24 Bộ luật
Dân sự năm 2015). Đối với hai trường hợp này, trong một hoàn cảnh nào đó,
họ vẫn có thể đủ tỉnh táo và nhận thức được hành vi của mình, việc pháp luật
chỉ quy định những người mất năng lực hành vi dân sự không đủ điều kiện kết
hôn mà không có quy định áp dụng đối với người khó khăn trong nhận thức,
làm chủ hành vi và người hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đây là một vấn đề

cần quan tâm bởi lẽ khi pháp luật chỉ quy định người mất năng lực hành vi
dân sự không đủ điều kiện kết hôn thì trường hợp người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nếu
đáp ứng các điều kiện kết hôn khác thì họ vẫn có quyền kết hôn. Điều này
đang là một bất cập trong quy định của pháp luật, bởi có những cuộc sống hôn
nhân được xác lập nhưng cuộc sống của họ như địa ngục khi người chồng
nghiện các chất kích thích như rượu, bia… thường xuyên đánh đập vợ con
những lúc không làm chủ được hành vi của bản thân. Vì vậy, năng lực hành vi
dân sự của mỗi cá nhân là một trong những điều kiện quan trọng để xác định


17

chủ thể có khả năng thực hiện và đảm bảo được các nghĩa vụ thiêng liêng của
vợ chồng khi kết hôn.
Thứ tư, việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
theo quy định của pháp luật. Các trường hợp cấm kết hôn bao gồm:
Một là kết hôn giả tạo. Kết hôn là kết quả của tình yêu nam nữ muốn gắn
bó và chăm sóc lẫn nhau, cùng xây dựng nên một gia đình hạnh phúc. Việc
kết hôn phải dựa trên sự tự nguyện của hai bên nam nữ, cùng chung ý nguyện
muốn được trở thành vợ chồng của nhau. Pháp luật nghiêm cấm việc kết hôn
không nhằm mục đích xây dựng hạnh phúc, duy trì giống nòi mà chỉ kết hôn
nhằm một mục đích thương mại hay bất cứ một mục đích nào khác. Kết hôn
giả tạo có thể mang lại những hậu quả đáng tiếc, mục đích của hôn nhân
không đạt được dẫn tới sự đổ vỡ trong hôn nhân.
Hai là người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người đang có chồng có vợ. Pháp luật Việt
Nam quy định khi kết hôn nam nữ phải tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ
một chồng. Những người được quyền kết hôn phải là những người chưa có vợ

có chồng hoặc đã có vợ có chồng nhưng vợ hoặc chồng chết hay vợ chồng đã
ly hôn. Pháp luật nghiêm cấm những người đang có vợ có chồng kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác nhằm xóa bỏ chế độ đa thê. Hôn
nhân một vợ một chồng lấy tình yêu giữa nam và nữ làm cơ sở xác lập hôn
nhân và lấy tình yêu làm cơ sở duy trì quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên đối với
những trường hợp nam nữ lấy nhau nhưng không đăng kí kết hôn và chung
sống với nhau như vợ chồng trong trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có
vợ, có chồng ở miền Nam nhưng khi tập kết ra Bắc lại lấy vợ, lấy chồng khác,
trường hợp này vẫn được nhà nước công nhận hôn nhân thực tế và khuyến
khích họ đi đăng ký kết hôn để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng đối với
phụ nữ và trẻ em. Để đảm bảo cho nguyên tắc kết hôn một vợ, một chồng;
pháp luật đã có nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn, ví dụ như khi đăng kí kết


18

hôn, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn phải xác minh tình
trạng hôn nhân của các bên nam, nữ và chỉ tiến hành đăng kí kết hôn cho họ
khi cả nam và nữ đều đang không có vợ, có chồng.
Ba là, kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, giữa những
người có họ trong phạm vi ba đời, giữa cha, mẹ nuôi ; giữa những người đã
từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi ; cha chồng với con dâu ; mẹ vợ với con rể,
cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng. Quy định
này không chỉ hạn chế các quan hệ hôn nhân đi ngược lại luân thường đạo lý,
tránh sự loạn luân trong xã hội mà còn hạn chế các hậu quả suy thoái về giống
nòi khi có các quan hệ hôn nhân giữa những người có cùng dòng máu về trực
hệ.
Như vậy, nam, nữ muốn kết hôn với nhau, ngoài tình yêu nam, nữ, các
bên còn phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn mới được pháp luật cho phép kết hôn và chung sống với

nhau.
Kết luận chương 1
Kết hôn có yếu tố nước ngoài là một trong những hiện tượng đang ngày
càng phổ biến trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay. Để việc kết hôn
có yếu tố nước ngoài được thực hiện theo một khuôn khổ nhất định, pháp luật
cần có những điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn đang diễn ra.
Trong chương 1 – Luận văn đã trình bày và phân tích được một số vấn
đề liên quan đến việc kết hôn có yếu tố nước ngoài như khái niệm kết hôn;
khái niệm kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Luận văn
cũng phân tích được trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước
ngoài cần đáp ứng những điều kiện kết hôn như thế nào theo Luật HN&GĐ
năm 2014, đây sẽ là căn cứ cho việc áp dụng pháp luật về thủ tục đăng ký kết
hôn cho công dân Việt Nam với người nước ngoài.


19

Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KẾT HÔN GIỮA PHỤ NỮ
VIỆT NAM VỚI NGƯỜI NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tình hình kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài ở
Việt Nam hiện nay
2.1.1. Đánh giá chung
Trong những năm gần đây, những thành tựu của công cuộc đổi mới đất
nước, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế làm cho đời sống nhân
dân ngày càng được cải thiện, nâng cao cả về vật chất và tinh thần. Các quan
hệ về các vấn đề dân sự, thương mại, lao động có yếu tố nước ngoài ngày
càng nhiều. Để đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của xã hội về vấn đề kết
hôn có yếu tố nước ngoài, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật chung, luật hôn nhân và gia đình

có yếu tố nước ngoài nói riêng. Trong những năm gần đây, một loạt các văn
bản pháp luật liên quan điều chỉnh trực tiếp về vấn đề kết hôn có yếu tố nước
ngoài được ban hành như: Luật HN&GĐ năm 2000 nay đã được thay thế
bằng Luật HN&GĐ 2014; Luật Hộ tịch năm 2014 và các văn bản hướng dẫn
thi hành…Ngoài ra về vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài còn được quy
định và được điều chỉnh bởi các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã
kí kết và tham gia.
Với sự điều chỉnh của pháp luật đã giúp cho các quan hệ kết hôn có yếu
tố nước ngoài có cơ sở pháp lý, đồng thời làm cho các quan hệ kết hôn có yếu
tố nước ngoài phát sinh ngày càng nhiều. Điều đáng lưu ý là các quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài trong thời gian gần đây diễn ra rất phức tạp trên cả
phương diện quy mô và tính chất. Điều này thể hiện ở số lượng kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài ngày càng có xu hướng gia tăng
một cách đáng kể. Qua tình hình nghiên cứu cho thấy:


×