Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.64 MB, 115 trang )

J

xy*' 'c

ỹỆ!-'

B ộ T I' PH Ấ P

VÍÉÌS, KHOA H Ọ ^ P !ỉ«


Sai

■"'■ '*VvL
m m J
881811!

JP j
ilis ilg

■-■!■'■"-.

. •• ĐỂ
tẰ Ĩ '
. ,
ĐỀ TÀI
mCỉiậí cỉáíPKế? ỀếmM HIỆUỆÚCỐNS •
dNc m ị t '3ỈMBiSHSHOTỂÌỊ QUYỂN
st ip ® m suẳ CẦMHÃI, «1BIABỈÍỈH f

■"■'■'



'

V '”

■■

' / •'

V .■.•■'i-4.■•■•;: •- ■■ /■
v.:;.T/.,;"v;

v

^: ,

. .... ,

' - ■ ' - ;: - "

V^ 'í

.i'v

V

•'




TliS. 0 Ỗ HOÀNG; YẾN
CN. NGUYỀN VĂN VE

■’

'.'-í':-1''-


B ô• T ư PHÁP

'•*

VIÊN
• KHOA HOC
• PHÁP LÝ

ĐỀ ÁN
NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
CHỨNG, CHỨNG T H ự C CÁC GIAO DỊCH CHUYÊN QUYÊN
S Ử DUNG ĐẤT CỦA CÁ NHÂN, H ô GIA ĐÌNH

CHỦ NHIỆM
THƯ KÝ ĐỀ ÁN



Ths. ĐỎ HOÀNG YÉN
CN. NGUYỄN VĂN VẺ

TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯ VIỆN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC1UẬT HÀ NỘ:
PHÒNG ĐOC o o ư

yribi_
HÀ N Ô
• I-2011

B Ỏ “í ư

_ _ _ _ ___

'p

H Á p

T H Ư VIÊN 1

TCMlp


MỤC LỤC
PHẦN THỨ NHẤT: MỘT SÓ VẤN ĐỀ CHUNG, TRỤC TIẾP LIÊN
QUAN ĐÉN ĐỀ ÁN....................................................................................................3
I. Tính cấp thiết của đề án............................................................................................ 3
II. Mục tiêu, phạm vi nghiên cứu của Đe án.............................................................. 5
III. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Đe án............................................... 7
IV. Quá trình nghiên cứu Đe án....................................................................................8
V. Đóng góp của Đe án................................................................................................10
PHẦN THỨ HAI: MỘT SÓ VẤN ĐỀLÝ LUẬN VÀ T H ựC TIỄN LIÊN
QUAN ĐÉN VIỆC NGHIÊN c ứ u GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

CÔNG CHỨNG, CHỨNG THựC CÁC GIAO DỊCH CHUYỂN QUYÊN
SỬ DỰNG ĐẤT CỦA CÁ NHÂN,7H ộ GIA ĐÌNH................ ....................... 11




I. Một số vấn đề lý luận.............................................................................................11
II. Thực trạng hoạt động công chứng, chứng thực các giao dịch về quyền sử
dụng đất...................................................................................................................... 15
PHẦN THỨ BA: NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP c ơ BẢN

NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG CHỨNG, CHỨNG THựC CÁC
GIAO DỊCH CHUYỂN QUYỀN s ử DỤNG ĐẤT CỦA CÁ NHÂN, H ộ
GIA ĐÌNH................................................................................................................. 30
I. Những định hướng lớ n ................................................... ............... ................30
II. Các giải pháp.........................................................................................................34
CÁC CHUYÊN ĐỀ
Chuyên đề 1: Yêu cầu khách quan nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực
các giao dịch về quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình (Ths. Nguyễn Thị
Phương Hoa, Trưởng phòng xây dựng và kiểm VBQPPL, Sở Tư pháp tỉnh Vĩnh
Phúc).................... ....................................................................................................... 43
Chuyên đề 2: Thực trạng chung về công chứng các giao dịch về quyền sử dụng
đất của cá nhân, hộ gia đình (Ths.Trần Ngọc Nga, công chứng viên, Trưởng
phòng công chứng số 1 thành phố Hà Nội).............................................................51
Chuyên đề 3: Một số vấn đề về công chứng, chứng thực họp đồng, giao dịch
thực hiện quyền của người sử dụng đất (Nguyễn Xuân Trọng, Vụ Chính sách và
Pháp chế Tổng cục Quản lý đất đai, Bộ Tài nguyên và Môi trường).................. 59


Chuyên đề 4: Những thuận lợi, khó khăn và bất cập trong hoạt động côing

chứng các giao dịch về quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình (Chu V ăn
Khanh, Công chứng viên, Trưởng Văn phòng Công chứng A l, thành phố H à
Nội)...................................................................................................... ............. ........ ‘82
Chuyên đề 5: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc chuyển giao cho cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền chứng nhận các giao dịch về quyền sử dụng đất của cá
nhân, hộ gia đình (TS. Tuấn Đạo Thanh, công chứng viên, Trưởng phòng côing
chứng số 3 thành phố Hà N ội)................................................................................. 90
Chuyên đề 6: Các giải pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các gi,ao
dịch về quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình (TS. Nguyễn Văn Ho;ạt,
Trưởng phòng Tổng họp, UBND thành phố Hà Nội)...........................................9 8
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Kết quả điều tra về nhu cầu công chứng các giao dịch chuyển quyềra
sử dụng đất của xã hội............................................................................................ 108


BÁO CÁO PHÚC TRÌNH ĐÈ ÁN
“NGHIÊN CỨU GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG
CHỨNG, CHỨNG TH ựC CÁC GIAO DỊCH CHUYỂN QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT CỦA CÁ NHÂN, H ộ GIA ĐÌNH”
Đe án khoa học cấp Bộ

PHẦN THỨ NHẤT
MỘT SỐ VÁN ĐỀ CHUNG, TRựC TIẾP LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ ÁN
I. Tính cấp thiết của Đe án
1. Trong những năm qua, hoạt động công chứng, chứng thực ở nước ta
đã có những bước phát triển, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế-xã
hội của đất nước, khẳng định ngày càng rõ hơn vị trí, vai trò của hoạt động
công chứng, chứng thực trong đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng của nhân dân trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời
là công cụ đắc lực phục vụ quản lý nhà nước có hiệu quả. Với mục đích tạo

điều kiện cho công tác công chứng, chứng thực ở Việt Nam phát triển cả về
chiều rộng và chiều sâu, phục vụ tốt hơn nhu cầu công chứng, chứng thực của
cá nhân, tổ chức, ngày 29/11/2006, Quốc hội đã thông qua Luật công chứng
và ngày 18/5/2007, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về
cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
(sau đây gọi là Nghị định số 79/2007/NĐ-CP). Việc ban hành Luật công chứng
và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn
thiện pháp luật về công chứng, chứng thực, đưa hoạt động này đi vào nền
nếp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của tổ chức, cá nhân. Luật công chứng năm 2006
đánh dâu bước đổi mới căn bản về tổ chức và hoạt động công chứng, sau hơn
hai năm triển khai thực hiện, những kết quả bước đầu đạt được rất khích lệ tạo
tiền đề quan trọng để cơ quan có thẩm quyền tiếp tục nghiên cứu phát triển tổ
chức va hoạt động công chứng theo định hướng tầm nhìn đến năm 2020, hoàn
thiện chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng.
2. Từ ngày 01/7/2007 Luật công chứng có hiệu lực thi hành tiếp tục hoàn
thiện chê định công chứng đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư
pháp và hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian triển khai thực hiện Luật công
chứng chưa nhiều, nhưng bước đầu đã làm thay đổi rõ nét quan niệm về vai trò


của công chứng trước đây dưới nhiều góc độ, trong đó, có việc trả về đúng bảin
chất chức năng của công chứng trong việc bảo đảm an toàn pháp lý cho các hợjp
đồng giao dịch nói chung, đặc biệt là đối với các loại hợp đồng, giao dịch ccó
tính chất quan trọng đặc biệt trong đời sống xã hội như các hợp đồng, giao dịclh
về quyền sử dụng đất (với quan điểm đất đai là một loại tài sản đặc biệt), gó]p
phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp luật được xã hội công nhận nâng lêin
ở mức cao. Sự đổi mới trong việc xác định đúng chức năng, nhiệm vụ của từnịg
cơ quan, tổ chức theo hướng tách bạch dần công chứng với chứng thực đã gó]p
phần rất lớn chấm dứt dần thời kỳ quá độ “Công chứng-Chứng thực” đã kéo dàìi
nhiều năm, đặt công chứng viên đúng nghĩa là hành nghề công chứng (theo qu}y

định của Luật công chứng, thì công chứng viên có thẩm quyền công chứngị,
không có thẩm quyền thực hiện chứng thực). Việc công chứng viên chứng nhậm
tính xác thực, hợp pháp các hợp đồng, giao dịch trong đó có các giao dịch véề
quyền sử dụng đất đã góp phần không nhỏ bảo vệ quyền và nghĩa vụ theo qu\y
định của pháp luật của cá nhân, tổ chức, góp phần công khai, minh bạch hóa cácc
giao dịch, giúp Nhà nước quản lý các giao dịch trong điều kiện phát triển nềrn
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
3. Công chứng, chứng thực nói chung và công chứng, chứng thực cáac
giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình có vai trò rất quar.n
trọng không chỉ để bảo đảm an toàn về mặt pháp lý trong giao dịch chiuyểrn
quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình mà còn hỗ trợ đắc lực cho công táec
quản lý các giao dịch của Nhà nước ta được chặt chẽ, hiệu quả phục vụ quẳn lỷý
nhà nước, quản lý xã hội trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường theo địrửh
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước và đẩy mạnh công nghiệpp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực trạng hoạt động công chứng, chứng thực cáac
giao dịch về quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình hiện nay và định hướngg
của Đảng, Nhà nước về đổi mới hoạt động công chứng, chứng thực trong đó ccó
vấn đề xã hội hóa, chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng, tách bạch côngg
chứng, chứng thực, nâng cao chất lượng hoạt động công chứng và chứng chứngg
cũng như tăng cưqng quản lý nhà nước về đất đai, tăng cường vai trò của Nhíià
nước trong việc định hướng bảo hộ sự an toàn của các giao dịch, hợp đồng„ đặac
biệt là các hợp đồng về nhà đất đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao hiệuu
quả công chứng, chứng thực các giao dịch về quyền sử dụng đất nói chiungg,
trong đó có các giao dịch về quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình.
4. Chưa có cơ sở pháp lý thống nhất cho việc công chứng, chứng thực cáac
giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình. Bộ Luật dân sụự,
Luật đất đai và các văn bản quy phạm pháp luật khác quy định các giao dịcbh


chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình phải có chứng nhận của công

chứng hoặc chứng thực của ủ y ban nhân dân xã, phường, thị trấn, trong khi đó
Luật công chứng năm 2006 và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5
năm 2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ số gốc, chứng thực bản sao từ bản
chính chứng thực chữ ký đã tách bạch công chứng với chứng thực. Đe giải
quyết vấn đề này, việc sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật Dân
sự Luật đất đai... theo hướng từng bước chuyển giao các giao dịch "chuyển
quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình cho các tổ chức hành nghề công
chứng thực hiện là rất cần thiết. Việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp
luật liên quan đến công chúng, chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan
đến quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình trong thực tế còn nhiều bất cập.
Trong bối cảnh đó, để tạo tiền đề cho việc nghiên cứu đề xuất sửa đổi Bộ luật
dân sự, Luật đất đai và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, trong đó
có nội dung liên quan đến công chúng, chứng thực giao dịch quyền sử dụng đất
của cá nhân, hộ gia đình và nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các hợp
đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình thì
việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao nhằm hiệu quả công chứng, chứng thực
các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình" là vấn đề cấp
bách.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc tiến hành triển khai nghiên cứu
Đề án “Nghiên cứu giải pháp nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực các
giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình ” với quy mô là
một Đề án nghiên cứu khoa học cấp Bộ là có cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm bởi
vấn đề mà Đề án đặt ra nghiên cứu là hết sức thiết thực và có tính thực tiễn cao,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực đối với
các loại giao dịch này trước những yêu cầu mới.
Ban Chủ nhiệm Đề án xin trân trọng cảm ơn Viện Khoa học pháp lý, Bộ
Tư pháp và các cơ quan, đơn vị, các cộng tác viên và cá nhân có liên quan đã hỗ
trợ, tham gia, tạo điều kiện để Ban Chủ nhiệm hoàn thành Đề án này.
II. Mục tiều, phạm vi nghiên cứu của Đe án
1. Mục tiêu nghiên cứu của đề án

Xác định các căn cứ lý luận và thực tiễn của sự cần thiết nâng cao hiệu
quả công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá
nhân, hộ gia đình và các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này
nhằm phục vụ đắc lực cho quản lý giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất của cá


nhân hộ gia đình trước yêu cầu ngày càng cao của quản lý nhà nước và yêu cầu
thực tiễn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất: làm rõ về lý luận đối với các vấn đề chủ yếu như: cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền chứng nhận các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá
nhân hộ gia đình; đổi mới trình tự thủ tục chứng nhận các giao dịch chuyển
quyền quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình, trách nhiệm của cơ quan, ttổ
chức có thẩm quyền trong việc cung cấp thông tin cho cơ quan, tổ chức chứmg
nhận các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình; cơ chiế
phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan trong việc chứng nhận các giaio
dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình.
- Thứ hai: làm rõ thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật V'ề
công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân,
hộ gia đình.
- Thứ ba: đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công chứng,
chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đìnlh
nhằm tăng cường sự an toàn cho các hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là trong điềiu
kiện xã hội hóa hoạt động công chứng và tách bạch công chứng với chứng thực.
2. Phạm vi nghiên cứu của Đe án
a) Đề án tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động công chứngr,
chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đìnlh
bao gồm các quy định pháp luật hiện hành về công chứng, chứng thực các g iao
dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình, những thuận lợi, k h ố
khăn, bất cập của các quy định trong các văn bản pháp luật, thực tiễn hoạt động
công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân.,

hộ gia đình, những mặt được, chưa được và các khó khăn, vướng mắc.
b) Đề án sẽ nghiên cứu, làm rõ cơ sở và tính phù họp trong việc giao ch ơ
cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền công chứng, chứng thực các giao dichi
:huyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình là phù hợp.
c) Nghiên cứu và đề xuất các giải pháp mang tính khả thi cao để không;
Igừng nâng cao hiệu quả công tác chứng nhận các giao dịch chuyển quyền sửr
iụng đất của cá nhân, hộ gia đình trong điều kiện xã hội hóa hoạt động công;
'.hứng và tách bạch công chứng với chứng thực.


III. Co- sỏ’ lý luận và phương pháp nghiên cứu Đe án
1. Co' sở lý luận
Đe án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; các quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN của dân, do dân, vì dân, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
2/6/2005 về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 ” của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là văn kiện quan trọng trong
việc định hướng về mặt lý luận đối với việc cải cách tổ chức và hoạt động công
chứng ở Việt Nam nói chung và công tác công chứng, chứng thực các giao dịch
chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình nói riêng trong giai đoạn
hiện nay và trong thời gian tới.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02.6.2005 về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ “xây dựng và hoàn thiện pháp luật về
bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng...) theo hướng đáp ứng ngày càng đầy đủ,
thuận lợi các nhu cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp;
thực hiện xã hội hỏa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp...
“hoàn thiện chế
định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị
pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình quản lỷ nhà nước về công

chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chủng thích hợp; có
bước đi phù hợp để từng bước xã hội hóa công việc này
Luật Công chứng năm 2006 đã đặt ra chủ trương và định hướng đột phá
về xã hội hóa công chứng, tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển các Văn phòng
công chứng, hình thành mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng để đáp ứng
đầy đủ nhu cầu công chứng của nhân dân, tách bạch hoạt động công chứng với
chứng thực, từng bước chuyên nghiệp hóa hoạt động công chứng, tăng cường sự
bảo hộ của Nhà nước đối với các hợp đồng, giao dịch của tổ chức, cá nhân;
Ngày 19/10/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 88/2009/NĐ-CP về cấp
giây chứng nhận qụyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất, tại điểm b khoản 4 Điều 26 Nghị định quy định i{ủ y ban nhân dân cấp
tỉnh có trách nhiệm : Thực hiện các biện pháp phát triển tổ chức hành nghề
công chửng ở địa phương để đáp ứng yêu cầu cổng chứng hợp đồng, giao dịch
vê quyên sử dụng đất, quyển sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; xem
xét, quyết định chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch mà ủy ban
nhân dân cấp huyện, cấp xã đang thực hiện sang tổ chức hành nghề công chứng

'1


ở địa bàn cấp huyện mà tổ chức hành nghề công chủng đáp ứng được yêu cầu
công chứng;...
Gần đây nhất, ngày 10/02/2010 và ngày 17/02/2011 Thủ tướng Chính plhủ
đã ban hành Quyết định số 250/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “ Xây dựng Qìuy
hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm
2020 ” và Quyết định số 240/QĐ-TTg ban hành Tiêu chí quy hoạch phát triển tổ
chức hành nghề công chứng ở Việt Nam đến năm 2020 nhằm xây dựng đưọc
Quy hoạch tổng thể mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng phân bố rộiữg
khắp trên phạm vi toàn quốc để bảo đảm công chứng các họp đồng, giao dịch.
Đây là những minh chứng rõ ràng nhất về cơ sở lý luận, định hướng chíitih

trị, pháp lý về phát triển về hoạt động công chứng của Đảng và Nhà nước ta
trong giai đoạn hiện nay và sắp tới trong mối tương quan với việc nâng cao hiệu
quả việc công chứng, chứng thực các giao dịch, hợp đồng, trong đó có các gi;ao
dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình.
2.

Phưong pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp tổng hợp, so sánh; phân tích; quy n ạp...
- Phương pháp lôgic, phương pháp thống k ê ...

IV. Quá trình nghiên cứu Đề án
1.

Tình hình nghiên cứu Đề án

Liên quan đến tổ chức và hoạt động công chứng nói chung và công chứnig,
chứng thực về chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình nói riêng, ở
trong nước đã có một số công trình nghiên cứu đã được công bố như:
- Đe án cấp bộ: “Những vấnđề ỉỷ luận và thực tiễn của việc xã hội hỏa mtột
số hoạt động bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp ” (2005) của Bộ Tư pháp - C hủ
nhiệm Đê án: Trân Thât;
,
1

.
*A

_____
r-\ A

r

>

__________________
m
A
rp l

à .

>

__________________

r

- Đề án cấp Bộ: “Triển khai thí điểm mô hình phân cấp trong lĩnh vực công
chứng” (2006) của Bộ Tư pháp - Chủ nhiệm Đe án: Trần Thất;
- Đề tài khoa học R.KHXH.98.137 “Nghiên cứu đề xuất mô hình tổ chửc
và hoạt động công chứng nhà nước tại thành phố Hải Phòng thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” năm 2008 - Chủ nhiệm đề tài: cử nhân Nguyễn Năng rhính;
- Một số bài viết, nghiên cứu trên các Tạp chí khoa học như: cần phân biiệt
công chứng và chứng thực - Nguyễn Thị Thu Hương (Tạp chí dân chủ và pháp

o


luật số chuyên đề tháng 8 năm 2006); Một số vấn đề đặt ra trong lĩnh vực công
chứng nhà nước hiện nay - Nguyễn Văn v ẻ (Tạp chí Luật học số 5/1995); So

sánh một số khía cạnh của thể chế công chứng ở một số nước và Việt Nam Nguyễn Văn v ẻ (Tạp chí Luật học số 1/1997) v.v...
Các công trình, bài viết này đã khái quát quá trình phát triển của hoạt động
công chưng và tổ chức công chứng của Việt Nam từ năm 1998 gắn với chức
năng nhiệm vụ của công chứng đồng thời là tiền đề của chức năng công chứng,
chứng thực về chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình.
Một số công trình đã đưa ra được những bất cập của hoạt động công chứng
có tác động và ảnh hưởng đến công tác công chứng, chứng thực về chuyển quyền
sử dựig đất của cá nhân, hộ gia đình và bước đầu đưa ra những kiến nghị để khắc
phục như đổi mới tổ chức, hoạt động công chứng (2004) Nxb. Tư pháp; Đe án
khoa học cấp Bộ: "Xã hội hoá hoạt động công chứng" do Viện Khoa học pháp lý Bộ T i pháp chủ trì; Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Luật Công chứng năm 2008,
do Vụ Bổ trợ tư pháp phối hợp với Vụ hành chính tư pháp, Bộ Tư pháp xây
dựng
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, Ban Chủ nhiệm Đề án cũng tham
khảo các công trình nghiên cứu khác (cả ngoài nước và trong nước) có liên quan
đến công tác công chứng, chứng thực về chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân,
hộ gia đình đã và đang được thực hiện.
Các công trình nghiên cứu trên đây đều là những công trình có giá trị khoa
học và thực tiễn cao. Tuy nhiên, do mục tiêu đặt ra cũng như do bị chi phối bởi các
điều đện kinh tế - xã hội cụ thể nên mỗi công trình thường chỉ khai thác sâu về một
khía cạnh nhất định của vấn đề công chứng, chứng thực mà chưa có công trình nào
đề cập một cách chuyên sâu về vấn đề nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thực
các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình như Đề án này.
2. Quá trình thực hiện Đề án
Sau khi nhận nhiệm vụ của Đề án, đã thành lập Ban Chủ nhiệm Đề án,
Thư cý Đe án, mời các Cộng tác viên của Đề án; hoàn chỉnh Đề cương, tổ chức
bảo vệ Đề án trước Hội đồng Tư vấn xét duyệt Đề cương nghiên cứu của Đe án
và tc chức nghiên cứu, tiêp thu kiên nghị của Hội đông vê những nội dung cân
bô smg, sửa đôi trong thuyết minh Đe án; thực hiện ký hợp đồng với Viện Khoa
học pháp lý; phân công chuyên đề nghiên cứu khoa học phục vụ Đề án; tổ chức
Tọa ỉàn khoa học theo chuyên đề; Ban Chủ nhiệm nghiên cứu, yêu cầu Cộng

tác viên tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa nội dung các chuyên đề; tổ chức nghiệm
thu chuỵên đề; chuẩn bị Báo cáo phúc trình về Đe án; họp Hội nghị Cộng tác
r\


viên đóng góp xây dựng và hoàn thiện Báo cáo phúc trình; tiếp tục nghiên cứu,
chỉnh sửa để hoàn thiện Đe án trên cơ sở các ý kiến tham gia của Hội đồng
nghiệm thu Đe án và các chuyên gia phản biện độc lập.
V. Đóng góp của Đe án
1.

về mật [ý luận

Yêu cầu đầu tiên và trực tiếp về kết quả của Đề án nghiên cứu là phải có
giá trị áp dụng thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả công chứng, chứng thạrc
các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình ở nước ta trước
yêu cầu của sự phát triển hoạt động công chứng, chứng thực trong tình hình mới,
của chủ trương cải cách tư pháp và cải cách thủ tục hành chính. Đồng thời, dưới
giác độ lý luận chung thì kết quả nghiên cứu của Đe án còn là nguồn tham khìảo
thật sự hữu ích cho việc nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện về đổi mới tổ chức
và hoạt động công chứng, chứng thực nói chung, xây dựng và hoàn thiện pháp
luật về công chứng, chứng thực, về đất đai...
Kết quả nghiên cứu của Đe án còn góp phần thúc đẩy cho các hoạt độing
nghiên cứu có tính định hướng phát triển và hoàn thiện công tác công chứng,
chứng thực ở Việt Nam ở thời điểm hiện tại và trong tương lai.
Kết quả nghiên cứu của Đề án còn là nguồn tài liệu hữu ích phục vụ cho
việc đào tạo, giảng dạy và tham khảo về chuyên môn sâu trong việc nghiên cứu
lý luận về công chứng với tư cách là một hoạt động bổ trợ tư pháp trong hoạt
động tư pháp ở Việt Nam và phân định rõ công tác công chứng, chứng thực.
2. về măt thưc tiễn





Dự kiến két quả nghiên cứu của Đe án sẽ góp phần hữu ích cho việc ti ếp
tục hoàn thiện pháp luật về công chứng nói chung và nâng cao hiệu quả cômg
chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia
đình trước những yêu cầu và bối cảnh mới mà mục tiêu hướng tới là tăng cườmg
sự an toàn pháp lý cho các họp đồng, giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất c ủa
cá nhân, hộ gia đìoh, góp phần minh bạch hóa các giao dịch này và tăng cườmg
quản lý nhà nước trong hoạt động công chứng, chứng thực, đất đai...

1n


PHẦN THỨ HAI
M ộ t s ố v ấ n đ è l ý l u ậ n v à THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC
n g h i ê n Cứ u g i ả i p h á p n â n g c a o h i ệ u q u ả c ô n g c h ứ n g ,
CHỨNG TH ựC CÁC GIAO DỊCH CHUYỂN QUYỀN s ử DỤNG ĐẤT
CỦA CÁ NHÂN, H ộ GIA ĐÌNH

I. Một số vấn đề lý luận
1. Khái niệm công chứng, chứng thực
Theo Từ điển Luật học của Mỹ, công chứng (Notarial) là hoạt động của
công chứng viên... Công chứng viên, theo tiếng Latinh là “Notarỉusu.
“Notarius” trong luật Anh cổ là một người sao chép hay trích lục các loại văn
bản, giấy tờ khác, người làm chứng.
So sánh các hệ thống công chứng cho thấy, mặc dù giữa hệ thống công
chứr.g La tinh và hệ thống công chứng Anglo Saxon có sự khác biệt nhau về
cách thức tổ chức, hoạt động, trình tự, thủ tục công chứng, song cả hai hệ thống

này đều coi công chứng là một nghề tự do, công chứng viên hoạt động độc lập,
tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt động của mình. Tuy nhiên, đó là một nghề
đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có trình độ chuyên môn (luật) và kỹ năng
nghiệp vụ được nhà nước công nhận để có thể đảm bảo tính xác thực cho các
hợp đồng vốn rất phức tạp, đa dạng, công chứng viên do nhà nước bổ nhiệm
hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và hoạt động theo
chế độ chứng chỉ hành nghề. Có thể thấy rõ điều đó qua pháp luật thực định về
công chứng của một số nước.
Ở Cộng hòa Pháp (một điển hình của trường phái công chứng La tinh),
Điều 1 Pháp lệnh số 452500 ngày 02/11/1945 về Điều lệ công chứng của Cộng
hòa Pháp quy định: “Công chứng viên là viên chức công, được bo nhiệm đế lập
các nợp đồng và văn bản mà theo đổ, các bên phải hoặc muốn đem lại tính xác
thực giống như cáp văn bản của các cơ quan công quyền và để đảm bảo ngày,
tháni chắc chắn, lưu giữ và cấp các bản sao văn bản công chứng” .
Ở Vương quốc Anh (một trong các điển hình của trường phái công chứng
Ango Saxon), quy chế công chứng năm 1801, 1833, 1834 quy định: “Công
chứrg viên là viên chức được bô nhiệm đế thực hiện các hành vi cổng chứng
sau: Soạn thảo, chứng nhận hoặc xác lập chứng thư và các giấy tờ khác có liên
quay đến việc: chuyển nhượng hoặc xác lập giấy tờ khác cỏ liên quan đến việc
chuyển nhượng bất động sản và tài sản cá nhân, giấy ủy quyền liên quan đến


bất động sản và tài sản cá nhân ở Anh, xứ Wales, các nước khác thuộc khối
cộng đồng Anh hoặc ở nước ngoài; chủng nhận hoặc xác nhận các giấy tờ liên
quan đến di chúc, lập khảng nghị hàng hải về sự co xảy ra đối với tàu và hàng
hóa trên tàu trong thời gian tàu đi trên biển”.
Tại Việt Nam, thể chế công chứng đã có một quá trình phát triển nhất
định theo đó, khái niệm công chứng dần có sự thay đổi, tiệm cận dần với khái
niệm công chứng của thế giới, đặc biệt là chế định công chứng Latinh.
Theo Thông tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp một

thông tư có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khai sinh hệ thống công chứng nhà
nước ở Việt Nam - công chứng nhà nước được xác định là một hoạt động của
Nhà nước với mục đích giúp các công dân, cơ quan, tổ chức lập và xác nhận các
văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hỏa các văn bản, sự kiện đó, làm
cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Tuy nhiên, là văn bản pháp lý
đầu tiên về công chứng trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới nên văn bản này
không thể tránh hết được các hạn chế, đó là: chưa xác định được chủ thể, đối
tượng của hoạt động công chứng cũng như nội dung việc công chứng, chưa phân
biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của các cơ quan nhà nước khác.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã làm
tăng nhanh cả về số lượng và quy mô các giao lưu dân sự, kinh té, thương mại,
đặt ra những yêu cầu ngày càng cao đối với hoạt động công chứng. Do đó, trong
vòng 10 năm (1991 - 2000), Chính phủ đã ban hành ba nghị định về tổ chức và
hoạt động công chứng nhà nước, đó là: Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991
của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về tổ chức và hoạt động công chứng
nhà nước (sau đây gọi tắt là Nghị định số 45/HĐBT); Nghị định số 31/CP ngày
18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước (sau
đây gọi tắt là Nghị định số 31/CP) và Nghị định số 5/2000/NĐ-CP ngày
08/12/2000 của Chính phủ về công chứng, chứng thực (sau đây gọi tắt là Nghị
định số 5/2000/NĐ-CP).
Theo Nghị định số 45/HĐBT, công chứng nhà nước được xác định như
sau: “Công chứng nhà nước là việc chímg nhận tính xác thực của các hợp đồng
và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kỉnh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi
chung là các tổ chức) góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá
trị chứng cứ ' (Điều 1).

10



Đen Nghị định số 31/CP, công chứng nhà nước được xác định: “Công
chứnv là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy
đinh của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ
chức) góp phần phòng ngừa vỉ phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Các hợp đồng, giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc y
ban nhản dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường
hợp bị tòa án nhân dân tuyên bổ là vô hiệu” (Điều 1).
So với Thông tư số 574/QLTPK, khái niệm công chứng ở hai Nghị định
này đã được xác định cụ thể, rõ ràng hơn. Và nếu so sánh Nghị định số
45/HĐBT với Nghị định số 31/CP thì Nghị định số 31/CP đã bước đầu có sự
phân biệt hành vi công chứng và hành vi chứng thực. Tuy nhiên, ý nghĩa pháp lý
của hành vi công chứng và hành vi chứng thực chưa được phân biệt. Quy định
“chứng nhận tỉnh xác thực của các họp đồng, giấy tờ” ở cả hai nghị định này
còn quá chung chung, khó hiểu, dễ gây nên sự tùy tiện và các hệ quả khác nhau
trong thực tiễn hoạt động công chứng.
Chỉ đến Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, khái niệm công chứng mới được
dần tách bạch khỏi khái niệm chứng thực. Khái niệm công chứng ở Nghị định
này đã dược xác định khoa học hơn, tiệm cận gần hơn với quan niệm chung của
thế giới về công chứng. Theo Nghị định này, “công chứng là việc phòng công
chứng chúng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch
khác đuợc xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội
khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy
định của Nghị định này” (khoản 1 Điều 2). Cùng với việc xác định khái niệm
công chứng như trên, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã xác định khái niệm
chứng thực “là việc ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ,
hợp đồr.g, giao dịch và chữ kỷ của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc
thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này” (khoản 2 Điều 2).
Luật Công chứng 2006 và Nghị định 79/2007/NĐ-CP là hai thể chế quan

trọng định nghĩa và phân biệt rõ khái niệm công chứng, chứng thực. Theo đó,
công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tỉnh hợp pháp
của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản
mà thec quy định của pháp luật phải công chủng hoặc cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng (Điều 2 Luật Công chứng). Nghị định 79/2007/NĐCP quy định “Chứng thực bản sao từ bản chính ” là việc cơ quan nhà nước có
tham qbyên theo quy định tại Điêu 5 của Nghị định này căn cứ vào bản chính để


chủng thực bản sao là đủng với bản chính. "Chứng thực chữ kỷ" là việc cơ quan
nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 5 của Nghị đinh này chứng thực
chữ kỷ trong giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yên cầu chứng thực.
2.

Vai trò của công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử

dụng đất của cá nhân, hộ gia đình
Công chứng, chứng thực nói chung và công chứng, chứng thực các giao
dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình có vai trò rất quan trọng
không chỉ để bảo đảm an toàn về mặt pháp lý trong giao dịch chuyển quyền sử
dụng đất của cá nhân, hộ gia đình mà còn hỗ trợ đắc lực cho công tác quản lý
các giao dịch của Nhà nước ta được chặt chẽ, hiệu quả, phục vụ quản lý nhà
nước, quản lý xã hội trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước và đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công chứng là việc công chứng viên xác nhận tính hợp pháp, tính xác
thực của các hợp đồng, giao dịch. Khi các bên giao kết hợp đồng, giao dịch nếu
giao dịch đó được công chứng, chứng thực thì công chứng, chứng thực bảo đảm
an toàn pháp lý cho các bên, việc đảm bảo tính an toàn pháp lý được thể hiện ở
chỗ: người thực hiện việc công chứng, chứng thực chứng nhận tính xác thực,
tính hợp pháp của những tình tiết trong nội dung hợp đồng, giao dịch, bảo đảm

cân bằng quyền và lợi ích hợp pháp của các bên ngay từ khi giao két, kiểm tra
năng lực hành vi, tính tự nguyện, chữ ký của các chủ thể tham gia hợp đồng,
giao dịch, nội dung và mục đích của hợp đồng, giao dịch có vi phạm điều cấm
của pháp luật, có trái đạo đức hay không, đối tượng hợp đồng, giao dịch là có
thật, kiểm tra hình thức của hợp đồng, giao dịch có phù họp với quy định của
pháp luật không. Trong trường hợp nếu có tranh chấp xảy ra thì văn bản công
chứng là chứng cứ tin cậy nhất để các chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch tự
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; đồng thời đây cũng là chứng cứ để
Tòa án, các cơ quan có thẩm quyền nhanh chóng giải quyết tranh chấp.
Theo quy định của Luật đất đai 2003, thì các giao dịch chuyển quyền sử
dụng đất bao gồm chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dạng
đất hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà hình thành pháp nhân mới. Đây là
các hợp đồng, giao dịch diễn ra thường xuyên hàng ngày trong cuộc sống xã hội
có nguy cơ rủi ro và hay xảy ra tranh chấp. Việc công chứng đối với các hợp
đông, giao dịch này là rất cần thiết, là những bảo đảm pháp lý để bảo vệ qu/ên
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, ngăn ngừa vi phạm pháp luật, là gia trị
chứng cứ lý tin cậy để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải qiyết

1A


khi có tranh chấp xảy ra (công chứng viên kiểm tra và chịu trách nhiệm về tính
xác thực tính hợp pháp đối với nhiều yếu tố như thời điểm giao kết hợp đồng,
giao dịch; tư cách, năng lực chủ thể tham gia hợp đồng, giao dịch; sự tự nguyện
của các bên, tài sản và nội dung thỏa thuận của các bên trong hợp đồng...).
Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều quy định công chứng các
hợp đồng giao dịch chuyển quyền sử dụng đất theo đó sự chứng nhận của cơ
quan công chứng trong giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất nhằm đảm bảo
công bằng xã hội, bảo đảm tính công bằng ngay từ các quan hệ họp đồng, đặc
biệt là các hợp đồng, giao dịch về bất động sản, tăng cường sự an toàn pháp lý

cho các hợp đồng, giao dịch.
II.

Thực trạng hoạt động công chứng, chứng thực các giao dịch về

quyền sử dụng đất
1. Thực trạng hoạt động công chứng nói chung
Trước đây, khi Quốc hội chưa ban hành Luật Công chứng, mô hình công
chứng của nước ta được tổ chức theo kiểu Phòng công chứng là cơ quan hành
chính Nhà nước, công chứng viên là công chức Nhà nước nên công chứng rơi
vào tình trạng độc quyền, việc giải quyết yêu cầu công chứng của nhân dân luôn
rơi vào tình trạng ùn tắc, quá tải. Một bộ phận công chứng viên và nhân viên của
Phòng công chứng có hiện tượng hách dịch, phiền hà, nhũng nhiễu, kéo dài thời
gian giải quyết yêu cầu công chứng của nhân dân khi thực thi nhiệm vụ công
chứng. Trước tình hình đó, Quốc hội đã ban hành Luật Công chứng với chủ
trương xã hội hóa nên hoạt động công chứng ở nước ta đã thay đổi căn bản, hoạt
động công chứng được phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa, bản chất, chức
năng, nhiệm vụ, đối tượng và nguyên tắc hoạt động của công chứng đã được trả
về đúng bản chất của công chứng. Giá trị của hoạt động công chứng trong xã hội
được nâng cao, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, tạo niềm tin cho các
nhà đầu tư trong nước và ngoài nước, là bước đi quan trọng trong việc đưa hoạt
động công chứng phát triển theo xu hướng hội nhập với khu vực và thế giới.
Có thể nói, Luật Công chứng 2006 và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP được
ban hành và tổ chức thực hiện đã tạo ra sự đổi mới có tính bước ngoặt trong hoạt
động công chứng và chứng thực ở nước ta. Tách bạch và phân biệt rõ về bản chất,
chức nàng, nhiệm vụ, đối tượng và nguyên tắc hoạt động của công chứng và chứng
thực. Qua kết quả gần 4 năm thực hiện đã khẳng định chủ trương xã hội hóa hoạt
động công chứng và định hướng tách bạch công chứng, chứng thực là hết sức đúng
đăn, tạo điều kiện cho việc phát triển tổ chức và hoạt động công chứng của Việt
Nam theo hướng chuyên nghiệp hóa, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ của hoạt



động công chứng khu vực và thê giới, góp phân quan trọng thúc đây sự phát triên
kinh tế - xã hội của đất nước, thu hút đầu tư nước ngoài. Hoạt động chứng thực có
điều kiện củng cố và đi vào chiều sâu, tạo thuận tiện cho nhân dân và nâng cao
năng lực cán bộ tư pháp cấp huyện, cấp xã. Mặc dù còn những hạn chế, bất cập cần
được tiếp tục khắc phục nhưng những kết quả đạt được sau hơn gần 4 năm thực
hiện Luật Công chứng và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP chính là thước đo chủ
trương xã hội hóa công chứng, tách bạch công chứng và chứng thực. Kết quả đạt
được trong việc thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng được biểu hiện chủ yếu
trên các mặt sau đây:
Theo kết quả sơ kết 2 năm thi hành Luật công chứng, chỉ tính trong 2 năm
gần đây, các tổ chức hành nghề công chứng trên cả nước đã công chứng được
1.485.550 việc, trong đó, hợp đồng chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản
là 428.760 việc; hợp đồng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là 677.049 việc; di
chúc và các việc thừa kế khác 71.107 việc; họp đồng, giao dịch khác 325.792
việc; tổng số phí công chứng thu được là 549.456.407.359 đồng (năm trăm bổn
mươi chín tỷ, bổn trăm năm mươi sáu triệu, bốn trăm linh bảy nghìn, ba trăm
năm mươi chín đồng); tổng số thù lao công chứng thu được là 39.456.878.465
đồng (ba mươi chín tỷ, bổn trăm năm mươi sáu triệu, tám trăm bảy mươi tám
nghìn, bốn trăm sáu mươi lăm đồng)\ tổng số tiền nôp thuế và nộp ngân sách
nhà nước là 256.658.098.145 đồng (hai trăm năm mươi sáu tỷ, sáu trăm năm
mươi tám triệu, không trăm chín mươi tám nghìn, một trăm bổn mươi lăm
đồng)1.
Số lượng các hợp đồng, giao dịch được thực hiện tại các tổ chức hành
nghề công chứng tăng cao hơn so với trước khi thực hiện Luật, các hợp đồng,
giao dịch tăng không chỉ về số lượng mà cả tính phức tạp, với giá trị hợp đồng
lớn, nhiều hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Ngoài các giao dịch mà pháp luật quy
định bắt buộc phải công chứng thì số lượng các giao dịch mà cá nhân, tổ chức tự
nguyện yêu cầu công chứng như các giao dịch về uỷ quyền, về mua bán tài sản,

thừa k ế... cũng tăng và trở nên phổ biến. Điều này chứng tỏ nhận thức của nhân
dân về tầm quan tròng của công chứng đối với hợp đồng, giao dịch đã tăng lên.
Tuy nhiên, số lượng việc công chứng họp đồng, giao dịch sau 2 năm triển
khai thực hiện Luật công chứng không đồng đều giữa các địa phương, ở một số
tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nắng...
thì sô lượng yêu cầu công chứng hợp đồng, giao dịch là tương đối lớn. Trong khi

1 Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Luật côn g chứng và N ghị định 79 /2 0 0 7 /N Đ -C P v ề cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực
bàn sao từ bàn chính, chứng thực chữ ký.




Jó ở một số địa phương khác, yêu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch lại
chông nhiều, chưa tạo được động lực xã hội hóa hoạt động công chứng.
Với sự ra đời của Luật Công chứng 2006, hoạt động công chúng có cơ sở
phát triển theo hướng chuyên nghiệp hóa. Công chứng từ chỗ bị hiểu như là một
hoat đông mang tính chất thủ tục hành chính đơn thuần thì nay được coi là một
nghề một ngành chuyên môn sâu có chức năng bảo đảm sự an toàn pháp lý cho
"ác hợp đồng, giao dịch, đặc biệt là các họp đồng, giao dịch về bất động sản,
"huyền quyền sử dụng đất. Các tổ chức hành nghề công chứng không còn chứng
nhận bản sao mà tập trung thực hiện đúng chức năng công chứng của mình theo
hướng chuyên nghiệp hóa. Bên cạnh đó, hoạt động công chứng được phát triển
theo hướng xã hội hóa. Việc phát triển các Văn phòng công chứng trong thời
gian qua tại một số địa phương đã góp phần phục vụ kịp thời nhu cầu công
chứng của nhân dân trong khi không đòi hỏi sự đầu tư về nhân lực và tài lực của
nhà nước. Các Văn phòng công chứng được thành lập, tạo sự “cạnh tranh lành
mạnh” trong hoạt động công chứng. Các Phòng công chứng cũng được đổi mới,
tăng cường theo hướng hiện đại, chuyên nghiệp hơn. Người dân được có cơ hội
lựa chọn khi có nhu cầu dịch vụ công. Trên cơ sở chuyên nghiệp hoá và xã hội

hoá hoạt động công chứng thì đồng thời-hqạt 'động cộng ghửng cũng được
,
/
tầm ® ™
ỊHỦ71ỆN f
chuyên sang chê độ dịch vụ công thay thâỊ-^Ị^ịCộĩị
1 công trước đây

trong lĩnh vực này.

PHÒNGĐỌC . iỉ5u—

Kết quả hoạt động công chứng trong thời gian vừa qua đã khẳng định rõ rệt
vai trò của công chứng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích họp pháp công dân, cơ
quan tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bằng việc chứng nhận tính xác thực, tính họp
pháp của hợp đồng, giao dịch, công chứng đã góp phần tích cực vào việc quản lý
các hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp luật,
tạo sự ổn định cho các hoạt động giao dịch, hạn chế tối đa hậu quả đáng tiếc và
không đáng có xảy ra trong các quan hệ dân sự, làm lành mạnh các quan hệ xã hội,
bảo đảm dân chủ, công bằng, giữ vững ổn định trong giao lưu dân sự, đồng thời
bảo đảm cho các trầnh chấp phát sinh một cơ sở pháp lý đáng tin cậy để giải quyết
theo hướng tích cực, tạo lối ra an toàn cho các tranh chấp đó. Các cơ quan xét xử
lây đó làm cơ sở pháp lý để giải quyết vụ tranh chấp được an toàn, nhanh chóng.
Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức
thương mại thế giới WTO và trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, tăng cường
tham gia các khu vực mậu dịch tự do trên thế giới thì hoạt động côngchứng càng
trở nên cần thiết đối với người dân và doanh nghiệp. Xét trên góc đ ộ 4 a y w n g NỊĩằ
nước pháp quyền, xã hội công dân và nền kinh tế thị trường định iưMg-XHCM -t!hi-



công chứng vừa là công cụ hữu hiệu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân,
vừa là công cụ quản lý, vừa là công cụ hỗ trợ quan trọng cho các hoạt động tư pháp
và là một trong những điều kiện cơ bản góp phần đẩy nhanh việc phát triển kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nêu trên, trong quá trình triển khai Luật
công chứng cũng còn một số khó khăn, hạn chế, bất cập như sự phát triển tổ chức
hành nghề công chứng chưa có họp lý trên cả nước và trên từng địa phương, còn
thiếu quy hoạch tổng thể tổ chức hành nghề công chứng, chất lượng và số lượng
đội ngũ công chứng viên còn bất cập, công chứng còn nhiều sai sót, hoạt động
quản lý Nhà nước về công chứng còn nhiều hạn chế. Nhận thức về chủ trương xã
hội hóa hoạt động công chứng; về bản chất của hoạt động công chứng; về chủ
trương tách bạch giữa công chứng và chứng thực của một bộ phận cơ quan, cán bộ
quản lý Nhà nước về công chứng còn chưa đầy đủ, ví dụ: một số Ngân hàng không
chấp nhận các văn bản đã công chứng tại Văn phòng công chứng hoặc Văn phòng
đăng ký quyền sử dụng đất từ chối đăng ký hợp đồng đã công chứng tại Văn phòng
công chứng hoặc từ chối cung cấp thông tin địa chính mà Văn phòng công chứng
cần cung cấp thông tin; hoặc UBND cấp xã không phối họp với Văn phòng công
chứng trong việc niêm yết văn bản liên quan đến việc công chứng các giao dịch về
thừa kế; cá biệt có địa phương cho việc “từng bước chuyển giao các hợp đồng, giao
dịch cho các tổ chức hành nghề công chứng...” là trái với Luật Đất đai, Luật Nhà ở
hoặc không cần thiết quy hoạch tổ chức hành nghề công chứng khi tiến hành xã hội
hóa hoạt động công chứng... Công tác tuyên truyền, phổ biến quán triệt pháp luật
về công chứng ở nhiều nơi còn hình thức, chưa đi vào chiều sâu, hệ thống pháp
luật liên quan đến hoạt động công chứng còn bất cập, chưa đồng bộ. Các quy
định liên quan đến công chứng trong Luật đất đai, Luật nhà ở và các văn bản hướng
dẫn thi hành có điểm chưa đồng bộ với Luật công chứng như: Chưa được sửa đổi,
bô sung như các quy định liên quan đên cụm từ “công chứng nhà nước”; thâm
quyền chứng nhận các họp đồng, giao dịch về đất đai, nhà ở của ủ y ban nhân dân
câp huyện, cấp xã; thẩm quyền xác nhận họp đồng, giao dịch của Ban Quản lý khu

công nghiệp, chưa tạo được cơ ché liên thông giữa tổ chức hành nghề công chứng,
cơ quan thuế, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm khi thực hiện các thủ tục hành
chính đối với các giao dịch về bất động sản. Một số quy định của Luật công chứng
vân còn chung chung, chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện kịp thời hoặc Luậi
công chứng còn chưa dự liệu hết một số vấn đề hiện đang phát sinh trong thực tiễn
thi hành như việc chuyển đổi Văn phòng công chứng một công chứng viên sang
loại hình Văn phòng công chứng từ hai công chứng viên trở lên hoặc ngược lại...
tiêng nói và chữ viết trong công chứng nếu người yêu cầu công chứng là ngirời
# r


nước ngoài- về khiếu nại, tố cáo trong hoạt động công chứng; thiếu các quy định về
thử tuc công chứng họp đồng, giao dịch như công chứng các giao dịch vê ủy quyên,
thừa kế thế chấp tài sản hình thành trong tương lai; quy định vê nơi hành nghê
cón° chứng và bảo hiểm trách nhiệm nghề công chứng còn chung chung; quy định
vê tiêu chuẩn bổ nhiệm công chứng viên trong Luật công chứng còn đơn giản, dê
dãi Môt số quy định pháp luật nội dung trong Bộ luật dân sự và các văn bản có
liên quan chưa cụ thể cũng dẫn đến khó khăn trong hoạt động chuyên môn,
nghiệp vụ công chứng ví dụ như: quy định về hộ gia đình và cách xác định các
thành viên của hộ gia đình. Một số văn bản liên quan như Thông tư về phí công
chứng chứng thực chậm được sửa đổi. Chưa ban hành kịp thời bộ quy tắc đạo 2đức
hành nghề công chứng để áp dụng cho các công chứng viên của tất cả các tổ chức
hành nghề công chứng.
Công tác chứng thực theo quy định của Nghị định số 79/2007/NĐ-CP cũng
đạt nhiều kết quả. Theo báo cáo sơ kết 2 năm thi hành Luật công chúng và Nghị
định 79 trong thời gian 2 năm qua, ủ y ban nhân dân cấp huyện (Phòng Tư pháp)
và Uỷ ban nhân dân cấp xã đã thực hiện được như sau:
Phòng Tư pháp chủng thực:
- Bản sao: 3.423.464 bản;
- Hợp đồng, giao dịch: 183.704 họp đồng;

- Chữ ký cá nhân: 998.625 bản;
- Số lệ phí chứng thực thu được: 36.017.646.000 đồng.
Uỷ ban nhân dân cấp xã chứng thực:
- Bản sao: 229.640.956 bản;
- Hợp đồng, giao dịch: 20.656.104 hợp đồng;
- Chữ ký cá nhân: 5.185.173 bản;
- Lệ phí chứng thực: 278.066.203.000 đồng2.
Qua đánh giá của các địa phương và qua dư luận báo chí, truyền thông
cho thấy Nghị định số 79 thể hiện tinh thần cải cách hành chính một cách mạnh
mẽ trong lĩnh vực chứng thực, đáp ứng được những mong mỏi của người dân
thể hiện Nghị định số 79 đã tách hoạt động chứng thực khỏi hoạt động công
chứng và phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền chứng thực cho Phòng Tư pháp (cấp
B áo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Luật công chứng và N ghị định 7 9 /2 0 0 7 /N Đ -C P v ề cấp bản sao từ sổ g ố c, chứng thực
bàn sao từ bản chính, chứng thực chư ký.


huyện) và UBND cấp xã nên đã giải quyết một cách cơ bản tình trạng bức xúc
trong lĩnh vực công chứng, chứng thực mà nhiều năm trước đó chưa giải quyết
được Chúng ta biết rằng, trước khi có Luật công chứng và Nghị định 79 thì
thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký cá nhân cũng
đã được Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực giao cho
UBND cấp huyện và Phòng công chứng thực hiện. Tuy nhiên, trên thực tế do
tâm lý “sính công chứng” nên hầu hết các cơ quan, tổ chức tiếp nhận hồ sơ do
vô tình hay cố ý đều đặt ra yêu cầu bản sao do các Phòng công chứng chứng
nhận. Thực tế này đã là nguyên nhân làm cho các Phòng công chứng trên cả
nước bị quá tải về bản sao. Sau khi có Luật công chứng và Nghị định số 79 thì
các tổ chức hành nghề công chứng (bao gồm các Phòng công chứng và Văn
phòng công chứng) không còn thẩm quyền chứng thực bản sao, chứng thực chữ
ký nên tình hình đã thay đổi hẳn: không còn cảnh xếp hàng chen chúc tại các
Phòng công chứng, không còn đất cho “cò công chứng” hoạt động, các Phòng

công chứng do đó cũng có điều kiện tập trung vào chuyên môn chính của minh
là chứng nhận các hợp đồng, giao dịch. Trong khi đó việc chứng thực các bản
sao, chữ ký do các UBND cấp xã và Phòng Tư pháp thực hiện nên rất thuận tiện
cho người dân. Nhu cầu chứng thực bản sao và chứng thực chữ ký cá nhân như
đã nêu trên là rất lớn {như sổ liệu đã nêu trên). Nếu con số bản sao và chữ ký
khổng lồ này không được phân cấp cho cấp xã mà chỉ giao cho cấp huyện hoặc
các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện thì liệu có giải toả được sự ách tắc
trước đây. Nghị định số 79 đã góp phần không nhỏ trong việc làm thông thoáng
và lành mạnh hoá thủ tục hành chính, đem lại lợi ích thiết thực cho người dàn,
đồng thời tạo sự chuyển biến tích cực trong quản lý nhà nước trong lĩnh vực
chứng thực.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị định 79 cũng còn nhiều bất cập như việc
phân cấp trong chứng thực bản sao giấy tờ, văn bản các loại giữa cấp huyện
(Phòng Tư pháp) và cấp xã căn cứ vào tiêu chí tiếng Việt và tiếng nước ngDài
còn chưa thật họp lý và mang tính hình thức, ít có ý nghĩa thực tế nhưng lại gây
ra sự lúng túng trong thực hiện thẩm quyền chứng thực; bộ máy nhân lực làm
công tác này ở cấp xã còn bất cập, hạn chế, việc thực hiện chứng thực còn nhiều
sai sót, công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực này có nơi có lúc còn lỏng lẻo..
2.
Thực trạng về công tác công chứng, chứng thực các giao (Ịch
chuyển quyền sử dựng đất của cá nhân, hộ gia đình
Công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất của cá
nhân, hộ gia đình không chỉ để bảo đảm an toàn về mặt pháp lý trong giao dịch

on


chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình mà còn hỗ trợ đắc lực cho
công tác quản lý các giao dịch của Nhà nước ta được chặt chẽ, hiệu quả phục vụ
quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong thời kỳ phát triển nên kinh tê thị trường

theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước và đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Bằng việc công chứng, chứng thực các giao
dich chuyển quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình, các công chứng viên và
người thực hiện chứng thực đã giúp nhà nước kiểm soát chặt chẽ các giao dịch
liên quan đến chuyển quyền sử dụng đất khi các cá nhân, tổ chức thực hiện các
quyền nhằm hạn chế những giao dịch ngầm về quyền sử dụng đất, phòng ngừa
rủi ro tranh chấp có thể xảy ra giúp Nhà nước quản lý tốt các giao dịch nói
chung và các giao dịch về quyền sử dụng đất nói riêng, góp phần duy trì trật tự
kinh tế-xã hội. Việc công chứng, chứng thực các giao dịch chuyển quyền sử
dụng đất là hoạt động mang tính dich vụ công của Nhà nước (thông qua tổ chức
hành nghề công chứng và ủ y ban nhân dân có thẩm quyền chứng thực).
Xuất phát từ quan điểm: đất đai là tài sản đặc biệt có giá trị lớn, giao dịch
về chuyển quyền sử dụng đất là các giao dịch diễn ra thường xuyên hàng ngày
trong cuộc sống xã hội có nguy cơ xảy ra tranh chấp cao. Việc công chứng,
chứng thực các hợp đồng, giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất là rất cần
thiết, bảo đảm pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
ngăn ngừa vi phạm pháp luật, là giá trị chứng cứ lý tin cậy để các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết khi có tranh chấp xảy ra (công chứng
viên, người thực hiện chứng thực kiểm tra và chịu trách nhiệm về tính xác thực,
tính họp pháp đối với nhiều yếu tố như thời điểm giao kết họp đồng, giao dịch;
tư cách, năng lực chủ thể tham gia họp đồng, giao dịch; sự tự nguyện của các
bên, tài sản và nội dung thỏa thuận của các bên trong hợp đồng...). Với nội dung
công chứng, chứng thực nêu trên, thời gian qua, việc công chứng, chứng thực
các hợp đồng, giao dịch về chuyển quyền sử dụng đất đã hạn chế được nhiều
giao dịch giả góp phần lành mạnh hóa thị trường bất động sản.
Theo quy định của Luật đất đai 2003, thì các giao dịch chuyển quyền sử
dụng đất bao gồm chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng
đất hoặc góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà hình thành pháp nhân mới. Luật
đât đai 2003 quy định thủ tục hành chính về quản lý và sử dụng đất đai như sau:
Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân phải

có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng
nhận của công chứng nhà nước.


*

- Hợp đổng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của
công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng
nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường thị trấn nơi có đất
- Văn bản cam kết tặng cho hoặc hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
của hộ gia đình, cá nhân, người Việt Nam định cư ở nước ngoài phải có chứng
thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất hoặc chứng nhận của
công chứng nhà nước.
- Hợp đổng góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công
chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất của họ
gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nha
nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.
Như vậy, kể từ khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thì cá nhân hộ gia đình
thực hiện quyền của người sử dụng đất trong giao dịch chuyển quyền su dụng
đât nêu trên, thì có quyên lựa chọn công chứng hoặc chứng thực tại ủ y ban nhân
dân cấp xã. v ề mặt được thì quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho cá
nhân, hộ gia đình khi thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, họ có the đến yêu cầu
công chứng tại tô chức hành nghề công chứng (thời điểm này là Phòng cóng
chứng) hoặc chứng thực tại ủ y ban nhân dân cấp xã. Cùng là giao dịch chuyển
quyên sử dụng đât của cá nhân, hộ gia đình, nếu được thực hiện tại tổ chức hanh
nghê công chứng thì gọi là cồng chứng, còn nếu được thực hiện tại ủ y ban ban
nhân dân cấp xã thì gọi là chúng thực. Trình tự, thủ tục, trách nhiệm của cóng
chứng viên và người thực hiện chứng thực, giá trị của văn bản, giấy tờ về giao
dịch chuyển quyền sử dụng đất đã được công chứng, chứng thực là giống nha*.

X Luật đât đai 2003 quy định một số họp đồng, giao dịch về quyền sử dụng
đât^ phải có công chứng hoặc chứng thực. Trong thẩm quyền công chứng các
họp đông, giao dịch của công chứng viên, thì số lượng nhóm việc công chứng
các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất chiếm tỷ lệ đáng kể, điều này đa chứng
minh nhu cầu bảo đảm tính an toàn pháp lý trong giao dịch chuyển quyền sử
dụng đât ngày càng tăng xuất phát từ tính chất quan trọng của loại giao dịch này
cũng như giá trị lớn của đất đai.
Trong số 1.485.550 các họp đồng, giao dịch đã được công chứng tror.g thời
gian 2 năm trên cả nước, thì hợp đồng, giao dịch chuyển quyên sử dụng đấ' là
428.760; còn các loại hợp đồng, giao dịch khác như sau: hơp đồng bảo đản thực


hiên nghĩa vụ dân sự (677.049); di chúc và các việc thừa kế khác (71.107); hợp
đồng giao dịch khác (325.792)3.
Qua thống kê cho thấy, số lượng các hợp đồng, giao dịch nói chung và giao
dich chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện tại các tổ chức hành nghê công
chứng tăng cao hơn so với trước khi thực hiện Luật công chứng, các hợp đồng, giao
dich tăng không chỉ về số lượng mà cả tính phức tạp, với giá trị hợp đồng lớn,
nhiều hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, số lượng việc công chứng, chứng thực họp đồng, giao dịch
chuyển quyền sử dụng đất không đồng đều giữa các địa phương. Ở một số tỉnh,
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng...thì số lượng yêu
cầu công chứng họp đồng, giao dịch, trong đó có giao dịch chuyển quyền sử dụng
đất của cá nhân, hộ gia đình là tương đối lớn. Trong khi đó, ở một số địa phương
khác yêu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch lại không nhiều, chưa tạo được
động lực xã hội hóa hoạt động công chứng, vì tình trạng ủ y ban nhân dân xã chứng
thực các hợp đồng này còn phổ biến, trong khi người làm chứng thực lại không
được đào tạo cơ bản và không có chuyên môn nghiệp vụ về chứng nhận các hợp
đồng. Đây là bài toán cần có lời giải mang tính lộ trình để nâng cao hiệu quả công
chứng, chứng thực các hợp đồng, giao dịch.

Trình tự, thủ tục giải quyết các việc công chứng, chứng thực về cơ bản được
thực hiện đúng pháp luật, bảo đảm thời hạn công chứng và ngày càng được cải
cách, đổi mới để đáp ứng yêu cầu của người yêu cầu công chứng, chứng thực.
ủ y ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền chứng thực các giao dịch chuyển
quyền sử dụng đất của cá nhân, hộ gia đình theo quy định tại Luật đất đai 2003,
thời gian qua đã cùng với các tổ chức hành nghề công chứng góp phần bảo đảm
an toàn pháp lý trong các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất, bảo về quyền lợi
hợp pháp của cá nhân, tổ chức khi thực hiện quyền sử dụng đất.
Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ
vê câp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký
với việc tách bạch hoạt động công chứng với chứng thực theo tinh thần công
chứng chỉ tập trung vào việc chứng nhận hợp đồng, giao dịch nhằm đưa hoạt
động công chứng đúng với mục tiêu, mục đích và ý nghĩa của nó bằng chủ
tirương từng bước chuyển giao việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch từ Uỷ
bian nhân dân cấp xã sang cho các tổ chức hành nghề công chứng, góp phần thúc

B áo cáo sơ kết 2 năm thực hiện Luật công chứng và N ghị định 79/20 0 7 /N Đ -C P về cấp bàn sao từ bàn gốc, chứng
tlnực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.


×