Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên trên địa bàn thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.37 KB, 109 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

TRỊNH TẤN HOÀI

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH CHO SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

TRỊNH TẤN HOÀI

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG AN NINH CHO SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 01 14

Người hướng dẫn khoa học: NGƯT, PGS.TS MAI VĂN HÓA

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU


Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ

Trang
3
13

NƯỚC VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH
CHO SINH VIÊN
1.1
Những quan niệm cơ bản về quản lý giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên
1.2
Cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên
1.3
Các nhân tố tác động đến quản lý nhà nước về giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố
Hồ Chí Minh
Chương 2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

13
21
33

38

VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH CHO
SINH VIÊN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH HIỆN NAY
2.1
Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ
Chí Minh có liên quan đến giáo dục quốc phòng - an ninh

cho sinh viên hiện nay
2.2
Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an
ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay
2.3
Đánh giá chung kết quả quản lý nhà nước về giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành
phố Hồ Chí Minh trong những năm vừa qua
Chương 3 GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NUỚC VỀ GIÁO DỤC

38

42

58

61

QUỐC PHÒNG - AN NINH CHO SINH VIÊN TRÊN
3.1

3.2

ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Một số dự báo về công tác quản lý giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh từ nay đến năm 2020
Các giải pháp quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an
ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh


61

69


3.3

Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp quản
lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

82
85
89
93


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục quốc phòng - an ninh là bộ phận hợp thành của nền giáo dục
quốc gia, là nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nhằm
góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, có sức khỏe và
kiến thức quốc phòng - an ninh, kỹ năng quân sự cần thiết để tham gia vào sự
nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân. Giáo dục quốc phòng - an
ninh trong hệ thống giáo dục quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố, trong đó, sự
phụ thuộc của giáo dục quốc phòng - an ninh đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc

được xác định như vấn đề có tính trực tiếp, là căn cứ có tính tất yếu để xác định
hoạt động và đổi mới giáo dục quốc phòng - an ninh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay.
Giáo dục quốc phòng - an ninh với mục tiêu tổng quát của chiến lược quốc
phòng nước ta là xây dựng nền quốc phòng toàn dân có lực lượng ngày càng
vững mạnh, thế trận ngày càng vững chắc, đủ sức ngăn chặn, đẩy lùi, đập tan
mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của của kẻ thù, cần thiết phải đổi mới công tác
quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình hiện nay. Quản lý giảng
dạy giáo dục quốc phòng - an ninh trong nhà trường cần quán triệt sâu sắc
nguyên lý giáo dục chung: học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn,
giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Việc
nghiên cứu vấn đề quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay góp phần làm rõ hơn và cụ thể hóa lý
luận quản lý giáo dục nói chung, quản lý nhà nước về giáo dục nói riêng vào
một vấn đề là quản lý công tác giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên ở
một địa bàn cụ thể có tính chiến lược - Thành phố Hồ Chí Minh; nhằm thống
nhất nhận thức, hiện thực hóa những chủ trương về công tác quản lý giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên phù hợp với thực tiễn, mang lại hiệu quả của
mặt công tác quan trọng này.
Hiện nay chuyển biến về nhận thức ở một số cán bộ quản lý và một bộ phận
học sinh, sinh viên còn chậm so với mục tiêu, yêu cầu môn học và nhiệm vụ
3


4

giáo dục quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Ở một số trường và một bộ
phận học sinh, sinh viên còn xem nhẹ và tìm cách “thanh toán” môn học hoặc có
những suy nghĩ đơn giản về môn học, đã dẫn đến tổ chức thực hiện nhiệm vụ
giáo dục quốc phòng - an ninh tùy tiện, tính toán hiệu quả kinh tế trong thực

hiện, chỉ thấy lợi ích trước mắt chưa thấy lợi ích chung và lâu dài. Vì vậy, có
trường không coi giáo dục quốc phòng - an ninh là môn học quan trọng, mà cho
rằng đó là nhiệm vụ quốc phòng thuộc Bộ Quốc phòng.
Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố đông dân nhất, đồng thời cũng là
trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục quan trọng của Việt Nam. Thành phố Hồ
Chí Minh đóng góp 32% ngân sách quốc gia, có hơn 1/4 các trường đại học, cao
đẳng của cả nước đóng trên địa bàn, với gần 190.000 sinh viên/năm, là khu vực
phòng thủ chiến lược trên địa bàn Quân khu 7. Giáo dục quốc phòng - an ninh
nói chung, với đối tượng sinh viên nói riêng là một vấn đề có tính lâu dài, là nội
dung bắt buộc trong chương trình giáo dục bậc đại học, cao đẳng hiện nay.
Trong khi đó, giáo trình, tài liệu, cơ sở vật chất như: giảng đường, thao trường,
bãi tập, vật chất huấn luyện,… chỉ mới đáp ứng được 54%, có nơi đưa sinh viên
ra công viên để dạy cả lý thuyết và thực hành. Đội ngũ giảng viên vừa thiếu về
số lượng, vừa chưa đáp ứng chuẩn, có trường thỉnh giảng cả hạ sĩ quan, cán bộ
chữ thập đỏ, …
Là một cán bộ được phân công trực tiếp quản lý hoạt động giáo dục quốc
phòng - an ninh tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh, cho nên luôn trăn trở, tìm tòi mô hình, phương thức, cách làm
và thường xuyên thử nghiệm, thí điểm, ... sao cho hoạt động giáo dục quốc
phòng - an ninh hoàn thiện và hiệu quả hơn. Từ đó đã đặt ra yêu cầu bức thiết là
phải có những nghiên cứu độc lập về lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay, nhằm góp phần nâng cao nhận thức về môn học và có phương pháp tổ
chức, quản lý, điều hành hiệu quả hơn công tác giáo dục quốc phòng - an ninh
theo đúng tinh thần Chỉ thị số 62-CT/TW ngày 12 tháng 02 năm 2001 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và Chỉ thị số 12-CT/TW
4


5


ngày 03 tháng 5 năm 2007 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục quốc
phòng - an ninh trong tình hình mới.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Trên thế giới, nhiều nước quan tâm đến công tác tổ chức giáo dục quốc
phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên như:
Ở Pháp: Quan niệm quốc phòng theo nghĩa rộng nhất, không chỉ là lĩnh
vực của quân đội và chính quyền nhà nước mà liên quan đến mọi công dân và
mọi lĩnh vực hoạt động của nhà nước. Vì vậy, hệ thống giáo dục và giáo dục
quốc phòng được tổ chức chặt chẽ, toàn diện. Hệ thống giáo dục quốc phòng có
một số trường trực thuộc chính phủ, có một số trường thuộc Bộ Giáo dục. Nội
dung nghiên cứu rộng, bao quát nhiều lĩnh vực, từ chiến lược quốc phòng, chính
sách quốc phòng, kinh tế quân sự đến phát triển công nghiệp quốc phòng.
Ở Nga: Một số công trình nghiên cứu như “Các vấn đề giáo dục quân sự”
của Đại tá, tiến sỹ E.G. Vapilin và đại tá Q.Đ. Mulinva (2001) và “Những quan
điểm phương pháp luận về xây dựng học thuyết giáo dục quân sự ở Nga”, đã
cho thấy việc nghiên cứu, quản lý công tác giáo dục ý thức quốc phòng cho cán
bộ, viên chức, học sinh, sinh viên được Tổng thống và Chính phủ Nga đặc biệt
quan tâm. Công tác quản lý và giáo dục quốc phòng cho thế hệ trẻ được xác định
là nhu cầu bức thiết trong bối cảnh nước Nga và tình hình quốc tế hiện nay.
Ở Mỹ: Giáo dục quốc phòng trong các trường đại học, cao đẳng do các sĩ
quan quân đội cử đến thường trú tại đó đảm nhiệm. Trọng điểm của giáo dục
quốc phòng ở Mỹ là: “Yêu nước, biết phục tùng, trọng đoàn thể, chịu cống hiến, …”
do ở Mỹ người ta nói nhiều tới tự do, nhưng không lo phục tùng, không chịu
cống hiến. Các sĩ quan thường trú tại các trường đại học, cao đẳng có nhiệm vụ
dạy cho sinh viên biết, phục tùng và cống hiến là tố chất cần có của một người
hoàn chỉnh.
Ở Nhật Bản: Nhà nước thành lập các trung tâm giáo dục quốc phòng ở các
quân khu để giáo dục quốc phòng cho sinh viên và lực lượng bán vũ trang.

5


6

Ở Trung Quốc: Đảng Cộng sản và Nhà nước Trung Quốc thường xuyên
quan tâm, chú trọng quản lý công tác giáo dục ý thức quốc phòng, bảo vệ đất
nước cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là cho các thế hệ học sinh, sinh viên.
Có một số tác giả đã đi sâu nghiên cứu vấn đề đổi mới giáo dục quốc phòng cho
cán bộ, học sinh, sinh viên trước yêu cầu chống “Tây hóa” của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch; đề xuất những giải pháp đổi mới, nội dung, chương
trình, phương pháp giáo dục quốc phòng cho cán bộ, học sinh, sinh viên đáp ứng
yêu cầu bảo vệ Đảng cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, thành quả cách mạng và
xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Các tác giả Lý Xương Giang, Tiểu Kính
Dân, Vương Bảo Tôn còn đi sâu nghiên cứu chiến lược phát triển giáo dục quốc
phòng của Trung Quốc trước sự vận động, biến đổi phức tạp của tình hình khu
vực và thế giới.
Ở Hàn Quốc: Chính phủ qui định nam giới trong độ tuổi từ 18 đến 25 buộc
phải thực hiện nghĩa vụ quân sự tại các đơn vị bộ đội, tại đây sinh viên sẽ được
trang bị kiến thức phần thực hành và luyện tập về quân sự thời gian 3 tháng.
Trong chương trình của các trường đại học, quân sự là các môn lựa chọn và
trường chỉ dạy phần lý thuyết.
Ở Thái Lan: Quan niệm quốc phòng là “Quốc gia bền vững, nhân dân phồn
thịnh”. Sự hợp tác giữa nhà nước và tư nhân là nhân tố cốt lõi trong chiến lược
quốc phòng, quốc phòng gắn chặt với an ninh quốc gia trên nhiều lĩnh vực khác
nhau… Nội dung quốc phòng - an ninh được thể hiện rất sâu sắc.
Ở Malaysia: Nhà nước đầu tư xây dựng 41 trung tâm giáo dục quốc phòng
cho học sinh, sinh viên, tư nhân đứng ra quản lý. Theo kế hoạch năm của nhà
nước, thanh niên từ 18 tuổi đến 25 tuổi được tập trung tại các trung tâm giáo dục
quốc phòng để học giáo dục quốc phòng với thời gian 3 tháng; các học phần lý

thuyết do giảng viên các trường đại học giảng dạy, các học phần thực hành do sĩ
quan quân đội giảng dạy.
Ở Indonesia: Quan niệm quốc phòng gồm những vấn đề rộng lớn trong
nước và quốc tế; được nghiên cứu một cách tổng hợp, bao quát nhiều lĩnh vực
đời sống và xã hội như: con người, dân tộc, tôn giáo, kinh tế, chính trị, ngoại
6


7

giao,… trong đó tập trung làm rõ 3 nội dung cơ bản: tiềm lực quốc gia, đặc điểm
địa lý, tự lực, tự cường dân tộc.
Ở Singapore: Nhà nước đầu tư xây dựng và giao cho Bộ Quốc phòng quản
lý các trung tâm giáo dục quốc phòng. Theo kế hoạch năm, thanh niên từ 18 đến
25 tuổi được tập trung tại các trung tâm giáo dục quốc phòng để học các nội
dung giáo dục với thời gian 3 tháng.
Nhìn chung, các nước trên thế giới đều quan tâm đến công tác giáo dục quốc
phòng cho học sinh, sinh viên và thanh niên; đây là lực lượng trẻ, có trình độ khoa
học và kĩ thuật, huy động vào quân đội sẽ phát huy được sức mạnh. Do đó trong
quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc, hầu hết các quốc gia đều coi trọng nâng cao
ý thức quốc phòng cho thế hệ trẻ ngay khi họ còn trên ghế nhà trường.
Ở Việt Nam, trải qua lịch sử dựng nước và giữ nước đã luôn quan tâm tới
việc giáo dục quân sự, quốc phòng cho nhân dân và sinh viên, nhằm tăng cường
sức mạnh tinh thần, biến thành sức mạnh quân sự để chiến thắng kẻ thù xâm
lược. Trên phương diện nghiên cứu, đã có nhiều đề tài các cấp, luận văn thạc sỹ,
luận án tiến sỹ, sách tham khảo, bài báo khoa học nghiên cứu về vấn đề này.
Một số bài viết trên các tạp chí, đề tài nghiên cứu khoa học trong nước có liên
quan tới vấn đề nghiên cứu:
Tác giả Nguyễn Văn Vọng: Giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh,
sinh viên trong giai đoạn mới”, Tạp chí Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, số

2/2001. Nghiên cứu đã khái quát bối cảnh mới của đất nước, vị trí của công tác
giáo dục quốc phòng - an ninh, thực trạng giáo dục quốc phòng - an ninh cho
học sinh, sinh viên thời gian qua và đề xuất các giải pháp về giáo dục nâng cao
nhận thức, đổi mới chương trình, giáo trình tài liệu, đào tạo, về bồi dưỡng giáo
viên, về củng cố mở rộng các trung tâm giáo dục quốc phòng, về nghiên cứu
khoa học và tăng cường đầu tư cho nhiệm vụ giáo dục quốc phòng - an ninh.
Tác giả Nguyễn Nghĩa: Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục quốc
phòng trong các trường phổ thông ở Hà nội hiện nay, Tạp chí Giáo dục, số 27/2002.
Bài viết này tập trung nghiên cứu đề xuất các giải pháp như đổi mới tăng cường sự
lãnh đạo, đổi mới nội dung chương trình, hình thức phương pháp, tăng cường đội
7


8

ngũ giáo viên, bảo đảm chế độ chính sách, đổi mới cơ chế quản lý điều hành nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng ở các trường trung học phổ thông.
Tác giả Nguyễn Nhứt: Nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng toàn dân
trong giai đoạn hiện nay, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Phòng Chính trị Quân khu
7, năm 2004.
Tác giả Đào Duy Hứa: Giáo dục quốc phòng - an ninh trên làn sóng Tiếng
nói Việt Nam, Tạp chí Dân quân tự vệ Giáo dục quốc phòng, tháng 10, năm
2008, số 13 (57).
Tác giả Lê Văn Nghệ: Nghiên cứu, đề xuất giải pháp đồng bộ hóa công tác
quốc phòng, an ninh ở các trường đại học, cao đẳng và trung tâm Giáo dục
quốc phòng - an ninh sinh viên, Đề tài khoa học cấp Bộ, Mã số B2009-18-16NV,
tháng 9 năm 2011.
Tác giả Nguyễn Thành Công: Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng môn
học giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên tại Trung tâm Giáo dục
quốc phòng - an ninh Đà Nẵng, Tạp chí Dân quân tự vệ Giáo dục quốc phòng, quý II,

năm 2012. Tác giả Bùi Văn Ga: Kết quả, kinh nghiệm đào tạo giáo viên giáo dục
quốc phòng - an ninh (2002-2012), giải pháp phát triển giáo dục quốc phòng - an
ninh những năm tiếp theo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Tạp chí Dân quân tự vệ Giáo
dục quốc phòng, số 58 (102), tháng 7/2012. Tác giả Nguyễn Thiện Minh: Những vấn
đề cơ bản cần tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy, học giáo dục quốc phòng an ninh cho học sinh, sinh viên năm học 2012-2013 và những năm tiếp theo, Tạp chí
Dân quân tự vệ Giáo dục quốc phòng, tháng 8, năm 2012, số 59 (103).
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về giáo dục quốc phòng - an ninh của
các tác giả, đã thể hiện các hướng và nội dung nghiên cứu chính sau:
Một số tác giả tập trung nghiên cứu lĩnh vực nâng cao chất lượng giáo dục
quốc phòng - an ninh về nội dung, chương trình, phương pháp…;
Một số tác giả nghiên cứu vấn đề quản lý mà chủ yếu là đồng bộ hóa phục
vụ cho việc nâng cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ninh. Đây cũng là
một trong những gợi ý để luận văn này nghiên cứu tập trung vào công tác quản
lý giáo dục quốc phòng - an ninh;
8


9

Một số tác giả nghiên cứu giáo dục quốc phòng với phạm vi rộng và trong
mối quan hệ với chiến lược quân sự, quốc phòng của quốc gia;
Một số tác giả nghiên cứu việc tổ chức, quản lý công tác giáo dục quốc
phòng - an ninh nói chung và tổ chức các trung tâm giáo dục quốc phòng.
Đến nay chưa tìm thấy một nghiên cứu cơ bản nào về lĩnh vực quản lý nhà
nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích nghiên cứu
Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về quản lý giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên, từ đó đề xuất biện pháp quản lý nhà nước về giáo dục
quốc phòng - an ninh với đối tượng sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay.

* Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận quản lý nhà nước về giáo dục quốc
phòng - an ninh cho sinh viên; phân tích mục tiêu, đặc điểm, nhiệm vụ, tính chất
quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh ở Thành phố Hồ Chí Minh;
Khảo sát, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của hoạt động quản lý nhà nước về giáo
dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay;
Đề xuất các biện pháp quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh
cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu
Quá trình quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh của các trung
tâm giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
Minh.
* Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu

9


10

Nghiên cứu hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng – an ninh
cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, chủ yếu ở Trung
tâm Giáo dục quốc phòng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Các số liệu minh chứng, tính toán, sử dụng trong luận văn trong 5 năm trở
lại đây (từ năm 2008 đến năm 2012).
5. Giả thuyết khoa học
Hiệu quả hoạt động và quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên

trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay phụ thuộc vào sự tác động tổng
hợp của nhiều yếu tố, trong đó, công tác quản lý nhà nước về giáo dục quốc
phòng - an ninh cho sinh viên giữ vai trò rất quan trọng. Nếu các chủ thể thực
hiện giáo dục quốc phòng - an ninh tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo sát với địa bàn;
phát triển hoàn thiện các yếu tố dạy học, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng dạy và
quản lý, xây dựng, phát triển và xã hội hóa các Trung tâm giáo dục quốc phòng an ninh sinh viên thì chất lượng giáo dục và hiệu quả quản lý nhà nước về giáo
dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay sẽ có những chuyển biến tích cực.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
*Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở đường lối quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấp về giáo dục đào tạo,
quản lý giáo dục đào tạo, giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên. Đồng
thời đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm hệ thống - cấu trúc; lôgíc - lịch sử và
quan điểm thực tiễn để xem xét, phân tích những vấn đề liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa, mô hình hóa, khái quát hóa.
Các tài liệu liên quan phục vụ cho mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu gồm:
Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh;
các văn kiện, nghị quyết của Đảng; chỉ thị, nghị định, nghị quyết của Chính phủ;
10


11

thông tư, hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Quốc phòng về giáo dục
quốc phòng - an ninh; Luật Giáo dục, Chiến lược phát triển giáo dục.
Các giáo trình, sách tham khảo, tài liệu về khoa học quản lý và quản lý giáo

dục; các công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài đã
được công bố và đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu khoa học, hội thảo…
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Điều tra bằng phiếu câu hỏi đối với sinh viên 300 phiếu, trong đó 50% sinh
viên khối khoa học xã hội và nhân văn, 50% sinh viên khối khoa học tự nhiên để
làm cơ sở đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đề xuất các biện pháp hiệu
quả trong quản lý hoạt động giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên.
Quan sát thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động giáo dục quốc phòng - an
ninh trên địa bàn Thành phố trong năm năm qua, tổ chức thực hiện giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay; hoạt động quản lý của đội ngũ cán bộ quản lý; hoạt động dạy học của giảng
viên; hoạt động học tập, rèn luyện và việc tự quản lý hoạt động học tập của sinh
viên để rút ra những kết luận về nội dung nghiên cứu.
Tọa đàm, trao đổi với một số cán bộ quản lý, giảng viên và sinh viên về
những nội dung nghiên cứu, từ đó rút ra những kết luận cho nhiệm vụ nghiên
cứu của luận văn.
Nghiên cứu hệ thống các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn, kế hoạch tổ
chức thực hiện, các báo cáo sơ kết, tổng kết, chương trình, quy trình, nội dung
đào tạo, kế hoạch quản lý, hệ thống sổ sách của cán bộ quản lý sinh viên và kế
hoạch học tập, công tác của sinh viên.
Nghiên cứu tổng kết thực tiễn từ những vấn đề đã và đang diễn ra nhằm đúc
rút thành những kinh nghiệm về quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh
viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Xin ý kiến 49 chuyên gia, các nhà khoa học, cán bộ quản lý giáo dục, quản
lý sinh viên, giảng viên trong lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng
11


12


- an ninh về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trong quá trình
nghiên cứu đề tài.
Phương pháp hỗ trợ
Sử dụng toán thống kê để tổng hợp kết quả điều tra, xử lý số liệu phần thực
trạng và số liệu khảo nghiệm tính khả thi của các biện pháp đã được đề xuất.
7. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài góp phần xây dựng và hoàn thiện các khái niệm về quản lý nhà nước
về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên; quản lý hoạt động giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên;
Làm rõ đặc điểm, nhiệm vụ, tính chất, yêu cầu, yếu tố tác động quản lý nhà
nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên;
Đề xuất một số biện pháp quản lý nhà nước về hoạt động giáo dục quốc
phòng - an ninh cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
8. Cấu trúc của luận văn
Luận văn cấu trúc gồm: phần mở đầu, phần nội dung (3 chương), phần kết
luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

12


13

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG - AN NINH CHO SINH VIÊN
1.1. Những quan niệm cơ bản về quản lý giáo dục quốc phòng - an
ninh cho sinh viên
1.1.1. Quan niệm Quản lý nhà nước về giáo dục
* Quản lý nhà nước

Quản lý là một tất yếu khách quan do lịch sử quy định, là sự tác động chỉ huy,
điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người, để quản lý phát
triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đề ra và đúng ý chí của người quản lý.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý như: “Quản lý là tác động có
định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức
làm cho tổ chức đó vận hành và đạt được mục đích của tổ chức”; “Quản lý là quá
trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế
hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra”… Thực chất của hoạt động quản
lý là việc giải quyết mối quan hệ giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý. Bản chất
của hoạt động quản lý là việc phát huy được nhân tố con người trong tổ chức. Mục
đích quản lý là hoạch định, tổ chức, bố trí nhân sự, lãnh đạo, kiểm soát công việc và
những nỗ lực của con người nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Những khái niệm nêu trên cho thấy mặc dù các khái niệm về quản lý được
đề cập ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến
những nhân tố cơ bản, như: chủ thể quản lý, đối tượng và mục tiêu quản lý. Tuy
nhiên từ những khái niệm này, những học viên cao học và nghiên cứu sinh
chuyên ngành quản lý giáo dục gặp phải trở ngại, lúng túng trong việc xác định
những nội dung cụ thể trong thực tiễn quản lý ở cơ quan quản lý nhà nước các
cấp và các trường. Một số trường hợp còn có sự nhầm lẫn cho rằng đối tượng
của quản lý chỉ là con người trong các tổ chức, bỏ qua nhiều yếu tố không phải
là con người nhưng rất quan trọng trong công tác quản lý như: tuyển sinh; cơ sở
vật chất - kỹ thuật dạy học; tài chính; hệ thống thông tin quản lý giáo dục; quá
trình dạy học, …. (các điều kiện đảm bảo quy mô và chất lượng giáo dục).

13


14

Từ những phân tích trên có thể hiểu là: Quản lý nhà nước vừa là khoa học lý

luận chính trị vừa là khoa học thực tiễn. Quản lý nhà nước ở nước ta là sự khẳng
định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
* Quản lý nhà nước về giáo dục
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều
chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do
các cơ quan quản lý giáo dục của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để
thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm phát triển sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, duy trì trật tự, kỷ cương, thỏa mãn nhu cầu giáo dục và đào
tạo của nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà nước.
Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện
quyền lực công để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào
tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà nước.
Trong khái niệm quản lý nhà nước về giáo dục có 3 yếu tố cơ bản là: chủ
thể, đối tượng và mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục.
Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà nước
(cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp), chủ thể trực tiếp là bộ
máy quản lý giáo dục từ trung ương đến cơ sở (các cơ quan quản lý nhà nước về
giáo dục được quy định cụ thể trong Điều 87 của Luật Giáo dục).
Đối tượng quản lý nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân, là
mọi hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.
Mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục, về tổng thể đó là bảo đảm trật tự,
kỷ cương trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách
của công dân. Mỗi cấp học, ngành học có những mục tiêu cụ thể được quy định
trong Luật Giáo dục và điều lệ nhà trường.
Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục bao gồm: Xây dựng và chỉ đạo thực
hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; ban hành và
tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều lệ nhà
trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác; quy

định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; tiêu chuẩn cơ
14


15

sở vật chất và thiết bị trường học; việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách
giáo khoa, giáo trình; quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; tổ chức, quản lý
việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục; thực hiện
công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục; tổ chức bộ máy quản
lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp
giáo dục; tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ
trong lĩnh vực giáo dục; tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục; quy
định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối với sự nghiệp
giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu
nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giáo dục.
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Quản lý nhà nước về giáo dục
là sự quản lý của các cơ quan quyền lực nhà nước, của bộ máy quản lý giáo dục
từ trung ương đến cơ sở, bảo đảm sự thống nhất về các nội dung quản lý hệ
thống giáo dục quốc dân nhằm nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài cho đất nước và hoàn thiện nhân cách công dân.
1.1.2. Quan niệm Quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh
cho sinh viên
* Quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh
Giáo dục quốc phòng - an ninh là dạy, học về quốc phòng - an ninh trong
nhà trường, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng và phổ
biến kiến thức quốc phòng - an ninh toàn dân, nhằm góp phần thực hiện quyền và
nghĩa vụ của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, là bộ phận
hợp thành của nền giáo dục quốc gia, là nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc

phòng toàn dân, nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo
đức, có sức khỏe và kiến thức quốc phòng - an ninh, kỹ năng quân sự cần thiết để
tham gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân.
Giáo dục quốc phòng - an ninh trong nhà trường là hoạt động nhằm tác động
có hệ thống đến sự phát triển ý thức của công dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc; trang bị kiến thức về quốc phòng - an ninh; kỹ năng quân sự cho học
15


16

sinh, sinh viên từ trung học phổ thông đến đại học và học viên các trường của cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh là hoạt động nhằm trang bị,
nâng cao kiến thức về quốc phòng - an ninh, kỹ năng quân sự cho các đối tượng
trong các cơ quan, tổ chức; trang bị một số kiến thức về quốc phòng - an ninh
cho chức sắc, nhà tu hành các tôn giáo.
Phổ biến kiến thức quốc phòng - an ninh toàn dân là hoạt động nhằm
tuyên truyền, phổ biến kiến thức cơ bản về quốc phòng - an ninh cho toàn dân và
một số đối tượng đặc thù.
* Quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
Mục tiêu quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh sinh viên:
Giáo dục cho sinh viên về kiến thức quốc phòng và an ninh để phát huy
tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước và giữ nước, lòng tự hào, tự tôn dân
tộc, nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trang bị kiến thức về quốc
phòng - an ninh, kỹ năng cho sinh viên và học viên các trường của cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống giáo dục quốc
dân; góp phần đạt hiệu quả cao trong việc phát triển và hoàn thiện phẩm chất,
nhân cách, năng lực, tư duy quốc phòng - an ninh của sinh viên, đáp ứng yêu cầu

của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên:
Chính phủ thống nhất quản lý giáo dục quốc phòng - an ninh trong phạm vi
cả nước. Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục
quốc phòng - an ninh. Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh tại
địa phương.
Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
gồm:
Ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục
quốc phòng - an ninh.
16


17

Tuyên truyền, phổ biến văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục quốc
phòng - an ninh.
Quy định chương trình, nội dung; biên soạn, xuất bản, in, phát hành giáo
trình, sách giáo khoa, tài liệu; tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên, tuyên truyền
viên; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị dạy học giáo dục quốc phòng - an ninh,
cấp chứng nhận bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh.
Quản lý nguồn lực phát triển giáo dục quốc phòng - an ninh.
Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý giáo viên, giảng viên,
tuyên truyền viên giáo dục quốc phòng - an ninh.
Nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục quốc
phòng - an ninh.
Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục quốc phòng - an ninh.
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; sơ kết, tổng kết, khen thưởng,
xử lý vi phạm việc chấp hành pháp luật về giáo dục quốc phòng - an ninh.

Phương thức quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên:
Phương thức quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh được thể
hiện chủ yếu trên hai phương diện:
Một là, nhà nước xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống luật pháp nói
chung và hệ thống luật pháp về giáo dục quốc phòng - an ninh nói riêng bao
gồm luật, văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý hành chính nhà nước,
các văn bản khác về giáo dục quốc phòng - an ninh.
Hai là, lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác giáo dục quốc phòng an ninh trên phạm vi cả nước và từng tổ chức theo chức năng cụ thể:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Quốc phòng về giáo dục quốc phòng - an ninh
Trình Chính phủ ban hành và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về
giáo dục quốc phòng - an ninh theo thẩm quyền.
Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành liên quan lập quy hoạch hệ thống trung
tâm giáo dục quốc phòng - an ninh và câu lạc bộ hướng nghiệp quốc phòng - an
ninh trên phạm vi cả nước, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định; thực
hiện bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho các đối tượng theo quy định của
17


18

pháp luật; quy định nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan, đơn vị thuộc quyền, ban chỉ
huy quân sự các bộ, ngành về giáo dục quốc phòng - an ninh.
Bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật, mô hình học cụ, quân dụng chuyên dùng
phục vụ dạy và học môn học giáo dục quốc phòng - an ninh cho các cơ sở giáo
dục trong phạm vi cả nước ...
Thực hiện hợp tác quốc tế về giáo dục quốc phòng - an ninh. Phối hợp với
Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành liên quan xây dựng đề án đào tạo, bồi dưỡng,
tập huấn giáo viên, giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên, cán bộ chuyên trách,
cán bộ kiêm nhiệm giáo dục quốc phòng - an ninh.
Tổ chức, hướng dẫn thanh tra, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, thực hiện khen

thưởng; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về giáo dục quốc
phòng - an ninh theo thẩm quyền. Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác về
giáo dục quốc phòng - an ninh theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành về giáo dục quốc phòng - an ninh
Bộ Công an: Phối hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ,
ngành liên quan thực hiện giáo dục quốc phòng - an ninh theo quy định của pháp luật.
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chủ trì và tham gia soạn thảo, trình Chính phủ ban
hành và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục quốc phòng - an
ninh theo thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ
Quốc phòng, Bộ Công an, các bộ, ngành liên quan thực hiện giáo dục quốc
phòng - an ninh ở các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Bộ Nội vụ: Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan quy định về chế
độ, chính sách đội ngũ cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm, giáo viên, giảng viên, báo
cáo viên, tuyên truyền viên giáo dục quốc phòng - an ninh; thực hiện các nhiệm vụ,
quyền hạn khác về giáo dục quốc phòng - an ninh theo quy định của pháp luật.
Các bộ, ngành khác: Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối
hợp với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và các bộ, ngành có liên quan thực hiện
quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh ...
Từ những phân tích trên có thể quan niệm: Quản lý nhà nước về giáo dục
quốc phòng - an ninh là sự thống nhất sự chỉ đạo và thực hiện hệ thống giáo
18


19

dục quốc phòng - an ninh về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế hoạch giáo
dục, tiêu chuẩn giảng viên, phân cấp quản lý, quy chế tổ chức và hoạt động của
các trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh.
1.1.3. Quan niệm Quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh
cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh

Quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh gồm những vấn đề cụ thể sau:
Chủ thể quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh gồm: Thành ủy, Ủy ban nhân dân, Bộ Tư
lệnh Thành phố, Hội đồng giáo dục quốc phòng - an ninh Thành phố, Sở Công
an, Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Hiệu trưởng các
trường đại học, cao đẳng và Trường Quân sự Quân khu 7, Giám đốc các trung
tâm giáo dục quốc phòng - an ninh sinh viên.
Yêu cầu quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là xây dựng kế hoạch, chiến lược, chương
trình hành động, tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên đạt được mục tiêu theo quy định.
Nội dung quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh gồm các vấn đề: Xây dựng, ban hành,
tuyên truyền và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục quốc
phòng - an ninh; Quy định chương trình, nội dung; biên soạn, xuất bản, in, phát
hành giáo trình, sách giáo khoa, tài liệu; tiêu chuẩn giáo viên, giảng viên; cấp
chứng nhận bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh: Quản lý nguồn lực phát
triển giáo dục quốc phòng - an ninh; Tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng,
quản lý giáo viên, giảng viên, tuyên truyền viên giáo dục quốc phòng - an ninh;
Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; sơ kết, tổng kết, khen thưởng, xử lý
vi phạm việc chấp hành pháp luật về giáo dục quốc phòng - an ninh trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
Phương thức, công cụ quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh
cho sinh viên trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
19


20

Phương thức quản lý chủ yếu là lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý hệ thống giáo

dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế
hoạch giáo dục, tổ chức thực thực hiện, phân cấp quản lý, quy chế tổ chức, hoạt
động và phối hợp của các trung tâm giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
trên địa bàn.
Công cụ quản lý chủ yếu là xây dựng và ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ
đạo, quản lý hệ thống giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên như nghị
quyết, chỉ thị, kế hoạch, hướng dẫn, tổ chức sơ kết, tổng kết, thi đua, khen
thưởng, kỷ luật,…
Từ sự phân tích trên có thể quan niệm: Quản lý nhà nước về giáo dục quốc
phòng- an ninh trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh là sự nhất công tác lãnh
đạo, chỉ đạo,tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động của hệ thống giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên do Thành phố quản lý.
1.2. Cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh
cho sinh viên
1.2.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên
Năm 2001 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ban hành
Chỉ thị số 62-CT/TW và năm 2007 Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX ban hành Chỉ thị số 12-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác giáo dục quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, cho thấy tầm quan trọng,
vị trí, yêu cầu giáo dục quốc phòng - an ninh toàn dân, trong đó có nhiệm vụ giáo
dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên. Từ những nội dung cơ bản trong
các chỉ thị của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng cho thấy quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục quốc phòng - an ninh nói chung và giáo
dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh viên nói riêng được thể hiện như sau:
Giáo dục quốc phòng - an ninh là bộ phận hợp thành của nền giáo dục quốc
dân, là nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nhằm góp
phần đào tạo con người phát triển toàn diện, có đạo đức, có sức khỏe và kiến
20



21

thức quốc phòng - an ninh, kỹ năng quân sự cần thiết để tham gia vào sự nghiệp
xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân.
Giảng dạy giáo dục quốc phòng - an ninh trong nhà trường cần quán triệt sâu
sắc nguyên lý giáo dục chung: học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Trong giảng dạy giáo dục quốc phòng - an ninh,
các vấn đề lý luận và thực tiễn phải được giảng viên trình bày một cách thống nhất.
Lý luận giáo dục quốc phòng - an ninh thường xuyên liên hệ chặt chẽ với thực tiễn
xã hội, thực tiễn giáo dục, phản ánh kịp thời sự biến đổi của đời sống kinh tế xã hội
và an ninh quốc gia. Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới với những thay đổi rất
nhanh chóng trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực giáo dục nói
chung, giáo dục quốc phòng - an ninh nói riêng cũng đang có những chuyển biến
tích cực và mạnh mẽ. Những thay đổi trong đời sống thực tiễn phải được giảng viên
kịp thời nắm bắt và đưa vào nội dung bài giảng của mình. Bài giảng luôn được bổ
sung những kết luận mới được rút ra từ thực tiễn sinh động trong đời sống xã hội,
trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế thế giới.
Giáo dục quốc phòng - an ninh trên cơ sở đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, những quy định của Bộ Quốc phòng, Bộ Giáo
dục và Đào tạo về giáo dục quốc phòng - an ninh; định hướng phát triển của hệ
thống giáo dục quốc dân; kế thừa, phát huy truyền thống giáo dục quốc phòng - an
ninh trong lịch sử của dân tộc và cách mạng Việt Nam; quá trình hiện đại hóa
phương tiện, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị đảm bảo cho dạy và học.
Công tác này còn phải bám sát sự vận động, diễn biến về âm mưu, thủ đoạn của kẻ
thù, vào nhiệm vụ quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Giáo dục quốc phòng - an ninh là một bộ phận quan trọng của công tác
quốc phòng. Công tác này trong bất luận hoàn cảnh nào đều có mối quan hệ mật
thiết với tình hình thực tiễn, liên quan trực tiếp đến công tác phòng, chống âm
mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Vì vậy, trong đổi mới nội dung giáo dục quốc phòng an ninh cần làm rõ âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù đối với cách mạng Việt Nam,

làm cho sinh viên hiểu rõ tình hình, “biết địch, biết ta” để nâng cao cảnh giác
cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù. Nắm chắc âm
21


22

mưu, thủ đoạn của kẻ thù là cơ sở để đổi mới nội dung, cập nhật, phát triển, cải
tiến hình thức, phương pháp dạy học, gắn liền giữa lý luận và thực tiễn để nâng
cao chất lượng giáo dục quốc phòng - an ninh. Sự xa rời thực tiễn, không hiểu
hoặc hiểu sai về kẻ thù là khiếm khuyết lớn, có thể dẫn đến rơi vào giáo điều, vi
phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, nguyên tắc toàn diện của
chủ nghĩa Macxit, duy ý chí trong giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên.
Bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta,
trong đó chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ đang là một nguy cơ không
thể xem thường, hàng ngày, hàng giờ tấn công làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng, sự
tồn vong của chế độ ta. Một trong những mục tiêu của chiến lược “Diễn biến hòa
bình” bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch là tiến hành cuộc chiến tranh tâm lý tư tưởng, vì vậy, trong giáo dục quốc phòng - an ninh phải định hướng, làm rõ chiến
lược, âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hòa bình” của địch.
Nhiệm vụ của nền quốc phòng toàn dân luôn được bổ sung, phát triển và cụ thể
hóa cho phù hợp với điều kiện, tình hình cụ thể. Giáo dục quốc phòng - an ninh
không những phản ánh đúng tình hình đó, mà thông qua việc trang bị những kiến
thức quốc phòng, đường lối, quan điểm, tư tưởng quốc phòng để chuẩn bị tinh thần,
khả năng sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ cho mọi công dân trong công tác quốc phòng.
Hiện nay và thời gian tới, trước bối cảnh nước ta hội nhập khu vực và quốc
tế ngày càng sâu hơn, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì trên bình diện quốc
gia và ở từng ngành, lĩnh vực cũng phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức
gay gắt. Trong lĩnh vực quốc phòng vẫn tiềm ẩn nguy cơ có thể gây mất ổn định;
các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh âm mưu và hoạt động chống phá trên
nhiều mặt, nhằm khuất phục, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa, lấn chiếm lãnh thổ,

đe dọa độc lập, chủ quyền quốc gia. Vì vậy, xây dựng chiến lược quốc phòng để
xác định các mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp lớn phù hợp, nhằm tăng cường
tiềm lực quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới là đòi hỏi khách quan.
Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ, phải tiếp tục hoàn thiện các chiến lược
quốc phòng, an ninh và hệ thống cơ chế, chính sách về quốc phòng, an ninh trong
điều kiện mới. Đây là định hướng thể hiện tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo
22


23

vệ Tổ quốc, phù hợp với sự phát triển của cách mạng và xu thế chung của thời đại,
cần được quán triệt sâu sắc, triển khai đồng bộ nhằm củng cố quốc phòng - an ninh
nói chung, xây dựng, hoàn thiện chiến lược quốc phòng nói riêng; góp phần thể chế
hoá, đưa các chủ trương quan điểm của Đảng về quốc phòng vào cuộc sống; đồng
thời, làm căn cứ pháp lý để lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các hoạt động quốc phòng,
theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, phù hợp với điều kiện đất nước.
1.2.2. Chính sách của nhà nước về giáo dục quốc phòng - an ninh cho
sinh viên
* Chính sách quốc phòng Việt Nam
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn củng cố và tăng cường
quốc phòng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; thực hiện chủ quyền
toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bao gồm đất liền, đảo, quần đảo, vùng biển, lòng đất
và vùng trời; sử dụng các biện pháp chính đáng, thích hợp để ngăn chặn, đẩy lùi,
đánh bại mọi âm mưu và hành động xâm lược bằng bất kỳ hình thức nào.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện đối ngoại quốc
phòng phù hợp với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương
hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển,
chống chiến tranh dưới mọi hình thức; mở rộng hợp tác về quốc phòng với các

nước láng giềng và trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng,
cùng có lợi, vì hòa bình, phù hợp với pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có
liên quan mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
* Chủ trương chính sách và vai trò giáo dục quốc phòng - an ninh cho sinh viên
Điều 30 Luật Nghĩa vụ quân sự năm 1960 quy định “Đối với sinh viên, học sinh
các trường đại học, các trường trung cấp chuyên nghiệp thì việc huấn luyện quân sự
thuộc chương trình giáo dục do Chính phủ quy định”. Từ đó việc học tập quân sự
(Huấn luyện quân sự phổ thông) trước đây, nay là giáo dục quốc phòng - an ninh cho
học sinh, sinh viên trong những năm đất nước có chiến tranh đã góp phần bồi dưỡng
23


×