Tải bản đầy đủ (.pdf) (218 trang)

Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 218 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình phát triển KT-XH ở Việt Nam, các Ngân hàng thương mại
(NHTM) ngày càng đóng vai trò quan trọng và khẳng định được vị trí của mình là
trung gian tín dụng, trung gian thanh toán và tạo ra phương tiện thanh toán trong
nền kinh tế. Có thể nói hoạt động của NHTM liên quan đến hầu hết các lĩnh vực của
nền kinh tế. Nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng vừa trải qua
khủng hoảng trầm trọng mà tâm điểm của cuộc khủng hoảng là hệ thống tài chính –
ngân hàng. Trên thế giới, một loạt ngân hàng lớn như Washington Mutual,
LehmonBrother đã bị sụp đổ. Còn ở Việt Nam, trước năm 2012, nền kinh tế và hệ
thống ngân hàng thực thi chính sách tăng trưởng đầy tham vọng và dẫn đến hệ lụy
là thanh khoản của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn, lãi suất liên ngân hàng tăng
cao, nợ xấu tăng nhanh, hiệu quả và lợi nhuận giảm sút- một số ngân hàng âm vốn
điều lệ như Navibank, Habubank, GP bank. Trước tình hình đó ngành ngân hàng đã
và đang tiến hành tài cơ cấu hoạt động, điều này gây ra xáo trộn toàn hệ thống và
hao phí lớn sức lực, tiền của của xã hội. Do đó, về lâu dài cần có biện pháp quản lý
để các NHTM hoạt động hiệu quả, bền vững.
Theo số liệu của Ngân hàng Nhà Nước, tính đến 31/12/2017, trong nước có 35
NHTM thì có 31 NHTM cổ phần, trong số đó có 10 NHTM cổ phần niêm yết trên
thị trường chứng khoán. Do đó, tình hình tài chính của NHTM có ý nghĩa quan
trọng đối với các cổ đông, là cơ sở để họ ra quyết định. Đặc biệt với các NHTM cổ
phần (NHTMCP) niêm yết, các ngân hàng này có điều kiện thuận lợi trong việc huy
động vốn đầu tư nhưng phải đảm bảo các điều kiện về tài chính do Ủy ban chứng
khoán Nhà Nước đưa ra. Ngoài ra, hoạt động của các NHTMCP niêm yết rất nhạy
cảm với chấn động chính trị- kinh tế- xã hội và ngược lại, biến động tài chính của
các NHTMCP niêm yết tác động mạnh mẽ đến thị trường chứng khoán, đến toàn bộ
nền kinh tế.
Phân tích tài chính là công cụ để nhận thức các hiện tượng, quá trình và kết


quả hoạt động kinh tế- tài chính. Phân tích tài chính các NHTMCP niêm yết đưa ra
đánh giá về tình hình tài chính của ngân hàng trong quá khứ và hiện tại, từ đó dự
đoán về tình hình tài chính trong tương lai làm cơ sở cho các chủ thể kinh tế đưa ra
các quyết định phù hợp với lợi ích của họ. Do đó, phân tích tài chính các NHTMCP
niêm yết có ý nghĩa quan trọng đối với tất cả các chủ thể kinh tế đặc biệt trong tình
hình khủng hoảng hiện nay.

1


Như vậy, NHTMCP niêm yết có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân
và phân tích tài chính là công cụ cao cấp, không thể thiếu để quản trị tài chính. Tuy
nhiên, hiện nay hoạt động phân tích tài chính của NHTMCP niêm yết vẫn còn giản
đơn, nội dung phân tích chưa toàn diện. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến khủng hoảng của hệ thống tài chính – ngân hàng.
Nhìn nhận trên khía cạnh lí luận, đã có một số nghiên cứu về phân tích tài
chính và phân tích hoạt động của NHTM nhưng chưa có nghiên cứu nào chuyên sâu
về nội dung phân tích tài chính NHTMCP niêm yết
Xuất phát từ những đòi hỏi cả về lí luận và thực tiễn tác giả đã lựa chon đề tài
Nghiên cứu sinh của mình là “Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính các
NHTMCP niêm yết ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của luận án là ứng dụng khung lý thuyết về nội
dung phân tích tài chính các NHTMCP và sử dụng dữ liệu thực tế để đánh giá thực
trạng nội dung phân tích tài chính của các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam. Từ đó,
đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính các NHTMCP niêm
yết ở Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin phụ vụ quản trị của các nhà quản
lý ngân hàng.
Từ mục tiêu cơ bản, mục tiêu cụ thể của luận án bao gồm:
- Làm rõ lý luận cơ bản về NHTMCP, phân tích tài chính NHTMCP, đặc biệt là nội

dung phân tích tài chính NHTMCP.
- Mô tả thực trạng và đánh giá thực trạng nội dung phân tích tài chính của các
NHTMCP niêm yết ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp và điều kiện thực hiện giải pháp hoàn thiện nội dung phân
tích tài chính các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là: nội dung phân tích tài chính các
NHTMCP
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu lý luận và thực trạng, đề xuất giải
pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính của các NHTMCP nhằm cung cấp
thông tin phục vụ quản trị ngân hàng.
+Về không gian: Giới hạn tại các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam hiện nay
+ Về thời gian: Luận án nghiên cứu trong giai đoạn 2013-2017

2


4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận được sử dụng trong nghiên cứu
Tác giả sử dụng triết học Mác- Lênin, cụ thể sử dụng phép duy vật biện chứng
và phép duy vật lịch sử để làm phương pháp luận cho luận án. Phương pháp này là
nền tảng để tác giải lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể nhằm giải quyết
các vấn đề đặt ra.
4.2. Phương thức tiếp cận
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu đề ra, tác giả đã vận dụng kết hợp
phương pháp định tính và định lượng. Phương pháp định tính được sử dụng nhằm
mô tả và phân tích đặc điểm kinh doanh của NHTMCP, các nhân tố ảnh hưởng đến
nội dung phân tích tài chính NHTMCP. Phương pháp định tính được thực hiện
thông qua việc thu thập dữ liệu dưới dạng văn bản, quyết định (dữ liệu dạng chữ),

từ đó tiếp cận đối tượng nghiên cứu nhằm tìm cách mô tả và phân tích đặc điểm của
đối tượng nghiên cứu.
Nghiên cứu định lượng được tiến hành thông qua việc khảo sát, thu thập dữ
liệu dạng số về tình hình tài chính cũng như thực trạng phân tích tài chính của các
NHTMCP niêm yết ở Việt Nam hiện nay.
4.3. Quá trình thu thập dữ liệu
Để hoàn thành được mục tiêu của luận án, tác giả đã tiến hành thu thập các dữ
liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp.
Dữ liệu sơ cấp là những dữ liệu mà tác giả tự thu thập được, chưa qua xử lý và
được thu thập thông qua phiếu khảo sát dành cho các nhà quản lý, chuyên viên phụ
trách tài chính của 9 NHTMCP niêm yết. Cách thức khảo sát là gửi phiếu khảo sát
qua Email hoặc gửi trực tiếp, gặp gỡ trao đổi với những người liên quan.
Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu đã được xử lý bởi các NHTMCP niêm yết và
NHNN là hệ thống báo cáo tài chính, báo cáo thường niên, báo cáo quản trị. Đây là
những minh chứng quan trọng và cần thiết, phản ánh một cách trung thực và chính
xác thực trạng nội dung phân tích tài chính của các NHTMCP niêm yết.
4.4. Quá trình xử lý dữ liệu
Trên cơ sở dữ liệu sơ cấp thu thập được, tác giả đã tiến hành tổng hợp, phân
loại, lựa chọn và tóm lược để có thể sử dụng được. Quá trình xử lý dữ liệu thu thập
bao gồm: kiểm tra dữ liệu, hiệu đính dữ liệu, nhập dữ liệu vào máy tính và sử dụng
các phần mềm như Google Docs, eview và Microsoft Excel để tính toán, lập bảng
tính, xử lý và phân tích dữ liệu nhằm đáp ứng được mục tiêu nghiên cứu. Bên cạnh

3


đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp phân tích mang tính nghiệp vụ - kỹ thuật
khác như so sánh, đối chiếu, tổng hợp để xét đoán phù hợp với tư duy biện chứng
và lịch sử.
Đối với các dữ liệu thứ cấp, đây là những thông tin đã được kiểm toán nên tác

giả sử dụng trực tiếp để minh họa trong chương 2 và chương 3 của luận án.
Nhìn chung, nhận thức về tầm quan trọng của việc phân tích tài chính trong
mỗi NHTMCP niêm yết còn hạn chế. Hơn nữa, việc không thể kiểm định được kết
quả trả lời của những người tham gia khảo sát vì những câu trả lời này mang tính
chủ quan và phụ thuộc rất nhiều vào nhận thức của người trả lời. Do đó, số liệu
trong khảo sát có thể ảnh hưởng nhất định đến chất lượng của luận án.
5. Những đóng góp của luận án
- Về lý luận: Luận án góp phần hệ thống hoá và làm sáng tỏ cơ sở lý luận về
nội dung phân tích tài chính các NHTMCP phục vụ công tác quản trị của ngân
hàng, cung cấp thông tin cho nhà đầu tư và công tác giám sát tài chính của cơ quan
quản lý Nhà Nước đối với NHTMCP niêm yết
- Về thực tiễn: Luận án đã tổng kết và mô tả thực trạng nội dung phân tích tài
chính tại các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam hiện nay.
- Về tính ứng dụng vào thực tiễn: Luận án đề xuất các giải pháp nhằm hoàn
thiện nội dung phân tích tài chính các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam phù hợp với
đặc điểm đặc thù của các NHTMCP niêm yết ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận cơ bản về nội dung phân tích tài chính trong các ngân
hàng thương mại cổ phần niêm yết
Chương 2: Thực trạng nội dung phân tích tài chính trong các ngân hàng
thương mại cổ phần niêm yết ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện nội dung phân tích tài chính các ngân
hàng thương mại cổ phần niêm yết ở Việt Nam

4


TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Mục đích của phần tổng quan này nhằm hệ thống hóa và phân tích các nghiên
cứu trước đó ở Việt Nam và trên thế giới liên quan đến đề tài, chỉ ra những vấn đề
còn tồn tại mà luận án sẽ tập trung giải quyết, xác định câu hỏi nghiên cứu.
1. Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
NHTM là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, vì vậy phân tích tài chính NHTM
mang những đặc điểm của phân tích TCDN. Hơn nữa, đề tài nghiên cứu cụ thể
NHTMCP niêm yết nên ngoài nội dung phân tích TCDN nói chung còn có nội dung
đặc trưng của doanh nghiệp cổ phần niêm yết.
Hoạt động của NHTM có những đặc thù so với doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh: hoạt động chủ yếu là huy động vốn và cho vay, đầu tư tài chính. Đặc biệt
hoạt động của NHTM luôn chứa đựng rủi ro. Do đó, đề tài có liên quan đến các
công trình nghiên cứu về phân tích tài chính NHTM và về quản trị NHTM như quản
trị các hoạt động của ngân hàng, quản trị các loại rủi ro. Mỗi nhà khoa học tiếp cận
vấn đề quản trị NHTM ở những khía cạnh khác nhau nhưng đều hướng đến mục
tiêu chung làm gia tăng chất lượng và hiệu quả quản lý tài chính đối với NHTM.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện luận án, tác giả đã hệ thống hóa các
công trình nghiên cứu theo 2 nhóm:
- Nhóm các công trình nghiên cứu về phân tích tài chính công ty cổ phần
- Nhóm các công trình nghiên cứu về phân tích tài chính NHTM và quản trị
NHTM.
Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu về phân tích tài chính công
ty cổ phần
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong
doanh nghiệp cổ phần phi tài chính ở Việt Nam”, (1999), của Nguyễn Trọng Cơ
[8]: tổng quan về doanh nghiệp cổ phần và phân tích tài chính trong doanh nghiệp
cổ phần; thực trạng về phân tích tài chính trong doanh nghiệp cổ phần phi tài chính
ở Việt Nam; hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong doanh nghiệp cổ
phần phi tài chính. Theo tác giả Nguyễn Trọng Cơ, phân tích tài chính là công cụ
giúp các đối tượng đưa ra quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Do đó,
để đánh giá và dự đoán tài chính, phân tích tài chính cần thực hiện những nội dung:

(1) Phân tích quá trình tạo lập và phân phối vốn; (2) Phân tích tình hình và khả năng
thanh toán; (3) Phân tích khả năng sinh lời; (4) Đánh giá doanh nghiệp. Ngoài ra,
nội dung phân tích có thể được chia nhỏ và tiến hành theo tài liệu sưu tầm được. Cụ

5


thể: (1) Phân tích bảng cân đối kế toán; (2) Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh;
(3) phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ; (4) Phân tích mức độ đảm bảo vốn cho sản
xuất kinh doanh; (5) cấu trúc tài chính và tình hình đầu tư; (6) Phân tích tình hình
khả năng thanh toán; (7)Phân tích hiệu quả kinh doanh và khả năng sinh lời; (8)
Phân tích hiệu quả đầu tư cổ phiếu; (9) Định giá doanh nghiệp. Tác giả Nguyễn
Trọng Cơ đã căn cứ vào đặc điểm tài chính của doanh nghiệp phi tài chính và mục
đích phân tích để đưa ra hệ thống nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. Tác
giả luận án đã phân biệt cơ chế quản lý tài chính trong doanh nghiệp cổ phần và
doanh nghiệp khác làm cơ sở đưa ra hệ thống chỉ tiêu phân tích riêng cho công ty cổ
phần. Ngoài các nội dung phân tích TCDN nói chung, tác giả đã đề xuất nội dung
“Phân tích hiệu quả đầu tư cổ phiếu” và hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá
doanh nghiệp. Như vậy, theo tác giả Nguyễn Trọng Cơ có thể hệ thống và xây dựng
nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp dựa vào chu trình tài chính hoặc tài liệu
phân tích.
Luận án tiến sĩ kinh tế:“Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong
công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, (2011) của
Nguyễn Thị Quyên [45]: hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về hệ thống chỉ
tiêu phân tích tài chính trong các doanh nghiệp nói chung và công ty cổ phần niêm
yết nói riêng; phân tích sâu sắc và đánh giá đúng thực trạng hệ thống chỉ tiêu phân
tích tài chính của công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính của các
công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận án đã đưa ra
hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong công ty cổ phần niêm yết trên thị trường

chứng khoán ngoài các chỉ tiêu phân tích TCDN nói chung, bao gồm: lãi cơ bản
trên cổ phiếu (EPS), tỉ lệ cổ tức so với giá trị thị trường của cổ phiếu (DYR), tỉ lệ
giá trên thu nhập của cổ phiếu (P/E), tỉ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách (P/B).
Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện nội dung và phương pháp phân tích tài
chính trong các tập đoàn kinh tế hoạt động theo mô hình công ty mẹ -con ở Việt
Nam” (2012) của Nguyễn Thị Thanh [48]: trên cơ sở nhận thức chung về tập đoàn
kinh tế và vai trò của phân tích tài chính đối với tập đoàn kinh tế, đứng trên góc độ
nhà quản lý, lãnh đạo tập đoàn, tác giả Nguyễn Thị Thanh đã đưa ra 7 nội dung phân
tích: (1) Đánh giá khái quát tình hình tài chính; (2) Phân tích chính sách tài chính;(3)
Phân tích tình hình sử dụng vốn; (4)Phân tích tiềm lực tài chính;(5) Phân tích khả
năng sinh lời, (6) Phân tích rủi ro tài chính; (7) Dự báo nhu cầu tài chính. Hoạt động

6


đầu tư vốn giữa công ty mẹ với con và hình thức quản lý sử dụng vốn là đặc điểm đặc
trưng về quản lý tài chính của tập đoàn kinh tế nên tác giả tập trung làm rõ hơn nội
dung phân tích tình hình đầu tư, bảo toàn – phát triển vốn của tập đoàn.
Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong
các công ty tài chính ở Việt Nam” (2012) của Hồ Thị Thu Hương [13]: căn cứ vào
mô hình tổ chức quản lý và đặc điểm hoạt động kinh doanh của công ty tài chính,
tác giả đã hệ thống hóa các chỉ tiêu phân tích tài chính trong công ty tài chính theo 8
nhóm nội dung: (1)chỉ tiêu phản ánh quy mô tài chính, (2)chỉ tiêu phản ánh chính
sách huy động vốn, (3)chỉ tiêu đánh giá độ an toàn vốn, (4)chỉ tiêu phản ánh chính
sách tín dụng, (5)chỉ tiêu phản ánh chất lượng tài sản, (6) chỉ tiêu phản ánh khả
năng thanh toán, (7)chỉ tiêu phản ánh khả năng sinh lời, (8) chỉ tiêu phản ánh rủi ro
tài chính. Công ty tài chính có nhiều hoạt động giống ngân hàng nên NCS có thể
vận dụng một số chỉ tiêu trong luận án này.
Luận án tiến sĩ kinh tế: “Hoàn thiện phân tích hiệu quả kinh doanh trong các
công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, (2013) của Trần

Thu Phong [41] Luận án đi sâu vào phân tích một khía cạnh tình hình tài chính là
hiệu quả kinh doanh và không chỉ hoàn thiện chỉ tiêu, phương pháp phân tích mà cả
tổ chức phân tích. Tác giả cho rằng, khi đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty
cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán không chỉ so sánh giá trị các chỉ tiêu
giữa các thời kì, so sánh với trung bình ngành mà cần so sánh với các hình thức đầu
tư khác như gửi tiết kiệm, đầu tư trái phiếu, kì phiếu hay so sánh với tỉ lệ lạm phát.
NCS cho rằng đây là quan điểm hợp lý.
Ngoài ra, còn rất nhiều luận án viết về phân tích TCDN thuộc các lĩnh vực
khác nhau như “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính trong các doanh
nghiệp xây dựng của Việt Nam”,(2002) của Nguyễn Ngọc Quang [43]; “Hoàn thiện
hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính tại tổng công ty Hàng không Việt Nam”,
(2008) của Trần Thị Minh Phương [42];“Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính
trong các công ty cổ phần thuộc tổng công ty công nghiệp xi măng Việt
Nam”,(2014) của Phạm Thị Quyên [46]…Các luận án này ngoài những điểm tương
đồng về phương pháp phân tích, nội dung hay chỉ tiêu phân tích tài chính của doanh
nghiệp nói chung thì đều có những nội dung hay chỉ tiêu đặc trưng xuất phát từ đặc
điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng phân tích mà các tác giả lựa
chọn. Đối với doanh nghiệp xây dựng, tác giả Nguyễn Ngọc Quang đưa ra chỉ tiêu
đặc trưng: Tỉ lệ hoàn thành khối lượng xây dựng, tốc độ tăng trưởng giá trị sản

7


lượng xây dựng, thời hạn trung bình 1 công trình chưa được bàn giao. Đối với công
ty Hàng Không- vận tải kĩ thuật cao, tác giả Trần Thị Minh Hương xây dựng chỉ
tiêu riêng: nhóm chỉ tiêu doanh thu – chi phí tính chi tiết trên 1 đơn vị hành khách
(1 đơn vị vận chuyển); nhóm chỉ tiêu phản ánh năng lực hoạt động so với thiết kế.
Tác giả Phạm Thị Quyên thì lựa chọn quan điểm xây dựng nội dung phân tích tài
chính theo quy trình tài chính và hoàn thiện nội dung “Phân tích tình hình bảo toàn,
phát triển vốn cồ phần”- đặc trưng cho công ty cổ phần.

Theo quan điểm của NCS, NHTMCP niêm yết cũng là một doanh nghiệp nên
khi phân tích tài chính NHTMCP niêm yết có thể kế thừa các quan điểm về mục
tiêu, chỉ tiêu, phương pháp và tổ chức phân tích tài chính đối với doanh nghiệp nói
chung và công ty cổ phần niêm yết nói riêng. Tuy nhiên, NHTMCP niêm yết có tính
đặc thù về hoạt động kinh doanh (đối tượng kinh doanh, mức độ rủi ro, các loại hoạt
động…) và đặc biệt hoạt động của nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế nên chịu
sự giám sát, tuân theo quy định của cơ quan quản lý Nhà Nước. Vì vậy, khi phân
tích tài chính NHTMCP niêm yết cần bổ sung thêm mục tiêu và nhiều nội dung đặc
thù.
Thứ hai, tổng quan các công trình nghiên cứu về phân tích hoạt động ngân
hàng thương mại và quản trị ngân hàng thương mại
Trong cuốn “Quản trị NHTM hiện đại”, PGS,TS. Nguyễn Đăng Đờn [4] đã
đưa ra các nội dung quản trị tài chính và kết quả kinh doanh của NHTM bao gồm
các nội dung: (1) Quản trị vốn tự có và sự an toàn của NHTM; (2) Quản trị tài sản
Nợ và tài sản Có; (3) Quản trị kết quả tài chính; (4) Quản trị rủi ro trong hoạt động
ngân hàng. Trong mỗi nội dung quản trị, tác giả đã đưa ra các chỉ tiêu phản ánh khía
cạnh đó, đề xuất biện pháp nâng cao năng lực tài chính cho NHTM. Như vậy, tác
giả đã đề cập đến vấn đề quản trị một số khía cạnh quan trọng về tình hình tài chính
của NHTM nói chung nhưng chưa toàn diện (chưa đề cập đến quản trị dòng tiền,
hiệu suất sử dụng vốn) và không đưa ra phương pháp phân tích các khía cạnh đó.
Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh
của các NHTM Việt Nam”, (2002), Lê Thị Xuân [51] đã hệ thống hóa lí luận cơ bản
về phân tích hoạt động kinh của NHTM, đánh giá thực trạng phân tích hoạt động
kinh doanh của các NHTM ở Việt Nam giai đoạn 1996-2000 từ đó đề xuất giải pháp
hoàn thiện chỉ tiêu đánh giá hoạt động kinh doanh của NHTM ở Việt Nam hiện nay.
Luận án đã đưa ra hệ thống chỉ tiêu phân tích hoạt động kinh doanh theo các khía
cạnh sau:

8



+ Đánh giá khái quát tình hình Tài sản – Nguồn vốn
+ Đánh giá tình hình vốn tự có
+ Đánh giá tình hình huy động vốn
+ Đánh giá tình hình dự trữ và khả năng thanh toán
+ Đánh giá tình hình hoạt động tín dụng
+ Đánh giá tình hình thu nhập và chi phí
+ Đánh giá tình hình thực hiện chỉ tiêu Lợi nhuận và khả năng sinh lời
Luận án đã hệ thống lí luận, trình bày thực trạng và hoàn thiện các phương
pháp phân tích hoạt động kinh doanh tương tự phân tích TCDN như phương pháp
so sánh, phân chia, Dupont.
Như vậy, NCS có thể kế thừa các chỉ tiêu phân tích mà tác giả Lê Thị Xuân đã
hệ thống hóa và xây dựng thêm về các nội dung: phân tích tình hình tài sản- nguồn
vốn, phân tích tình hình vốn tự có.
Tuy nhiên, theo NCS, các nhóm chỉ tiêu mà tác giả xây dựng vừa theo quy
trình tài chính như nói đến Tài sản- nguồn vốn, thu nhập chi phí lại vừa theo các
hoạt động kinh doanh như tình hình huy động vốn, hoạt động tín dụng, như vậy sẽ
khó bao quát đủ các nội dung phân tích. Ngoài ra, tác giả Lê Thị Xuân chưa đề cập
sâu đến một số khía cạnh quan trọng về hoạt động của ngân hàng như an toàn hoạt
động ngân hàng, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng (tác giả mới đề cập đến rủi ro
tín dụng khi phân tích hoạt động tín dụng), chưa phân tích dòng tiền. Luận án chủ
yếu hoàn thiện về chỉ tiêu phân tích nên phương pháp phân tích tác giả hệ thống và
hoàn thiện chưa đầy đủ như chưa đề cập đến phương pháp phân tích nhân tố,
phương pháp phân tích định lượng. Đối tượng nghiên cứu của tác giả là NHTM ở
Việt Nam nói chung, không phải NHTMCP niêm yết ở Việt Nam.
Một số tác giả viết luận án tiến sĩ về phân tích một khía cạnh tài chính của
NHTM mà NCS có thể kế thừa như: Luận án “Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động của NHTM ở Việt Nam”, (2008) của Nguyễn Việt Hùng [11];
luận án “Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam sau M&A”,
(2016) của Nguyễn Quang Minh [17]. Các luận án này đã nêu ra những vấn đề lí

luận, thực tiễn nghiên cứu hiệu quả hoạt động của NHTM; Phân tích các nhân tố
ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các NHTM ở Việt Nam; Định hướng giải
pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM ở Việt Nam. Như vậy, đối tượng
nghiên cứu của luận án chỉ là khía cạnh “hiệu quả hoạt động” của NHTM nói
chung, NHTM có hoạt động M&A. Luận án “Hoàn thiện phân tích chất lượng tín

9


dụng tại các NHTM trên địa bàn tỉnh Bình Định” (2017) của Lê Thị Thanh Mỹ [16]
đã nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phân tích chất lượng tín dụng của NHTM,
hệ thống hóa và hoàn thiện các tiêu chí phân tích chất lượng tín dụng của NHTM.
Nghiên cứu “Financial analysis of bank institutions”,(1995) của
K.Selvavinayagam [61] đã đưa ra mô hình phân tích để phản ánh các khía cạnh
khác nhau về tình hình tài chính của ngân hàng, bao gồm: tình hình huy động vốn,
chất lượng cho vay, phân tích an toàn vốn, phân tích thanh khoản và phân tích tình
hình kinh doanh. NCS cho rằng, nghiên cứu này đã khái quát được những vấn đề
quan trọng về tình hình tài chính của ngân hàng nhưng chưa đầy đủ và chi tiết.
Nghiên cứu “A financial ratio analysis of commercial bank performance in
South Africa”, (2010) của Mabwe Kumbirai và Robert Webb [62] đã mô tả, đánh
giá tình hình tài chính của các ngân hàng thuộc khu vực Nam phi qua một số nhóm
chỉ tiêu tài chính: khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản, chất lượng tín dụng
bằng phương pháp thống kê định lượng. Theo NCS, nhóm tác giả cũng chỉ đánh giá
1 số nội dung về tình hình tài chính của NHTM. Tuy nhiên, nhóm tác giả đưa ra
phương pháp đánh giá định lượng có tính thuyết phục.
Như vậy, các luận án tiến sĩ và công trình nghiên cứu khoa học về phân tích
NHTM mới chỉ nói đến một số khía cạnh về tình hình tài chính, nó chưa mang tính hệ
thống và đối tượng nghiên cứu là NHTM nói chung, không phải NHTMCP niêm yết
Các luận án: “Nâng cao năng lực tài chính của các NHTMCP Việt Nam”
(2016), Lã Thị Lâm [15]; “Năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam”, (2013)

của Phan Thị Hằng Nga [18] đã đưa ra các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính của
NHTM. Tác giả Phan Thị Hằng Nga và Lã Thị Lâm đã đưa ra quan điểm về năng
lực tài chính của NHTM; hệ thống hóa các chỉ tiêu phản ánh năng lực tài chính của
NHTM theo các khía cạnh: vốn chủ sở hữu, tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, quy mô- chất
lượng tài sản, khả năng thanh khoản, khả năng sinh lời, nguồn vốn huy động; sau đó
sử dụng các chỉ tiêu này để đánh giá năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam.
Tác giả Phan Thị Hằng Nga còn sử dụng phương pháp định lượng để đánh giá năng
lực tài chính của NHTM Việt Nam theo tiêu chuẩn Camel. Các chỉ tiêu trên cũng
phần nào phản ánh tình hình tài chính của NHTM, tuy nhiên theo NCS các chỉ tiêu
này mới phản ánh khái quát, chưa chi tiết và đặc biệt các tác giả chưa đề cập đến
phân tích các rủi ro tài chính của NHTM.
Có nhiều tác giả viết về quản trị rủi ro của NHTM mà NCS có thể kế thừa để
hệ thống hóa về nội dung phân tích rủi ro tài chính của NHTMCP như: Luận án

10


“Rủi ro thanh khoản tại các NHTM Việt Nam” (2016) của Nguyễn Bảo Huyền [12]
đã hệ thống lý luận cơ bản về rủi ro thanh khoản và quản lý rủi ro thanh khoản của
NHTM; Luận án “Quản lý rủi ro tín dụng tại NHTMCP công thương Việt Nam”
(2013) của Nguyễn Đức Tú [50] đã khái quát hóa những nguyên lý cơ bản về rủi ro
và quản lý rủi ro tín dụng của NHTM; Luận án “Quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt
động kinh doanh của NHTM Việt Nam” (2011) của Tạ Ngọc Sơn [47] đã phân tích,
đánh giá tình hình quản lý rủi ro lãi suất của các NHTM Việt Nam trong giai đoạn
2007-2009; xây dựng giải pháp hoàn thiện công tác quản lý rủi ro lãi suất tại các
NHTM. Tác giả đưa ra 3 phương pháp đo lường rủi ro lãi suất: khe hở nhạy cảm lãi
suất (GAP), độ nhạy cảm lãi suất (PVBP), giá trị có thể tổn thất (VAR).
2. Khoảng trống và câu hỏi nghiên cứu của luận án
 Khoảng trống nghiên cứu:
Qua nghiên cứu tổng quan các công trình nghiên cứu ở trên, NCS nhận thấy:

các công trình về phân tích tài chính doanh nghiệp đã làm rõ lý luận về phân tích tài
chính doanh nghiệp nói chung trong đó có nội dung phân tích, ứng dụng lý luận để
đánh giá thực trạng phân tích trong một số ngành và loại hình doanh nghiệp cụ thể,
từ đó đề xuất các nội dung phân tích hay chỉ tiêu phân tích chuyên biệt cho lĩnh vực
kinh doanh hay loại hình doanh nghiệp nghiên cứu. Các công trình về phân tích tài
chính NHTM và quản trị ngân hàng thương mại đã làm rõ lý luận về NHTM và nội
dung phân tích, quản trị một vài khía cạnh tài chính của NHTM, đánh giá tình hình
phân tích hay quản trị các khía cạnh đó ở NHTM nghiên cứu. Tuy nhiên, với mục
tiêu phân tích tài chính NHTMCP để cung cấp thông tin cho nhà quản trị ngân hàng
thì các nghiên cứu vẫn còn một số khoảng trống:
Thứ nhất, về lý luận nội dung phân tích tài chính NHTM:
- Chưa nghiên cứu nào phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến nội dung phân
tích tài chính NHTMCP.
- Các nghiên cứu chưa đưa ra nội dung phân tích tài chính các NHTMCP một
cách hệ thống và toàn diện về nội dung phân tích, chỉ tiêu phân tích và phương pháp
phân tích
Thứ hai, về phạm vi nghiên cứu: Chưa có nghiên cứu nào về nội dung phân
tích tài chính các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam.

11


 Câu hỏi nghiên cứu:
Để giải quyết những tồn tại và khoảng trống của các nghiên cứu trước, NCS
xác định câu hỏi nghiên cứu:
- Nhân tố nào ảnh hưởng đến nội dung phân tích các NHTMCP?
- Phân tích tài chính các NHTMCP bao gồm những nội dung nào? Mỗi nội
dung có mục tiêu, chỉ tiêu phân tích và phương pháp phân tích ra sao?
- Nhân tố đặc trưng ảnh hưởng đến nội dung phân tích tài chính của NHTMCP
niêm yết ở Việt Nam là gì?

- Kết quả và tồn tại, nguyên nhân của tồn tại trong thực trạng nội dung phân
tích tài chính của các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam?
- Cần hoàn thiện nội dung phân tích tài chính các NHTMCP niêm yết ở Việt
Nam như thế nào để cung cấp thông tin hữu ích cho nhà quản trị ngân hàng và phù
hợp với định hướng phát triển ngành ngân hàng của Đảng và Chính phủ?

12


CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1.1. Khái niệm, phân loại ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, hệ thống các trung gian tài chính giữ vai trò quan
trọng đối với nhiều chủ thể và trong các hoạt động khác nhau. NHTM được xem là
trung gian tài chính quan trọng nhất. Đến nay có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm NHTM
Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính
và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: NHTM là những xí
nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng
dưới hình thức kí thác hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho
chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Theo giáo sư Peter S Rose “Ngân hàng là một trung gian tài chính nhận tiền
gửi và cung cấp vốn vay, cung cấp một hệ thống các dịch vụ của một định chế tài
chính” [63,tr.3].
Ở Việt Nam, theo Luật các TCTD 47/2010/QH12 (có hiệu lực từ ngày
1/1/2011) thì:[44]
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt

động ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động,
các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách,
ngân hàng hợp tác xã.
NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
nhuận. Điều 98 của Luật này đã quy định hoạt động của NHTM bao gồm: Nhận tiền
gửi không kì hạn, có kì hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác; Phát hành
chứng chỉ tiền gửi, kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và
nước ngoài; Cấp tín dụng dưới các hình thức: cho vay, chiết khấu, tái chiết khấu
công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh ngân hàng....; Mở tài
khoản thanh toán cho khách hàng, cung ứng các phương tiện thanh toán, cung ứng
các dịch vụ thanh toán

13


Theo các nhà khoa học của Học viện tài chính, NHTM là một tổ chức kinh
doanh tiền tệ, với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ ngân hàng trong nền kinh tế quốc dân
Từ những nhận định trên có thể thấy, NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ vì mục tiêu lợi nhuận, cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ
cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra,
NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu về sản phẩm dịch
vụ xã hội.
1.1.1.2. Phân loại ngân hàng thương mại
Có thể phân loại NHTM theo một số tiêu thức sau:
 Theo thành phần kinh tế: NHTM được chia thành 4 loại:
NHTM Nhà Nước là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, được thành lập bằng
100% vốn do Nhà Nước đầu tư
NHTMCP là ngân hàng được thành lập dưới hình thức một công ty cổ phần,

do các cổ đông góp vốn. Vốn của NHTMCP được chia thành các phần bằng nhau
gọi là cổ phần. NHTMCP đủ điều kiện và đã đưa cổ phiếu ra giao dịch trên thị
trường chứng khoán gọi là NHTMCP niêm yết.
NHTM liên doanh là ngân hàng được thành lập dưới hình thức góp vốn liên
doanh giữa các đối tác thuộc các thành phần kinh tế khác nhau.
NHTM nước ngoài bao gồm: chi nhánh ngân hàng được thành lập theo pháp
luật và thuộc sở hữu của nước ngoài và ngân hàng 100% vốn của nhà đầu tư nước
ngoài được Chính phủ nước sở tại cấp giấy phép hoạt động và tuân thủ theo pháp
luật của nước đó.
Trong luận án này, tác giả tập trung nghiên cứu nội dung phân tích tài chính
của NHTMCP.
 Theo quy mô hoạt động, NHTM được chia thành 2 loại:
NHTM duy nhất là NHTM chỉ có một hội sở hoạt động duy nhất trên phạm vi
lãnh thổ quốc gia.
NHTM mạng lưới là loại hình NHTM có hội sở trung ương và các chi nhánh
hoạt động trên lãnh thổ quốc gia và ở nước ngoài.
 Theo lĩnh vực hoạt động, NHTM được chia thành 2 loại:
NHTM chuyên doanh: là NHTM chỉ phục vụ cho một hay một số nhóm ngành
kinh tế như: nông nghiệp, xuất nhập khẩu và đầu tư…

14


NHTM đa ngành: là NHTM phục vụ cho mọi ngành kinh tế trên địa bàn
nhất định.
 Theo chiến lược kinh doanh: NHTM được chia thành 3 loại:
NHTM bán buôn: là NHTM chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng
khách hàng doanh nghiệp chứ không giao dịch với khách hàng cá nhân
NHTM bán lẻ: là NHTM giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng khách
hàng cá nhân

NHTM vừa bán buôn vừa bán lẻ: là NHTM giao dịch và cung ứng dịch vụ cho
cả khách hàng doanh nghiệp và cá nhân.
1.1.2. Chức năng của ngân hàng thương mại cổ phần
Ngày nay, hoạt động của hệ thống NHTMCP có ảnh hưởng sâu rộng ở cả tầm
vi mô lẫn vĩ mô của nền kinh tế - xã hội. Sự thành công trong phát triển kinh tế
cũng như những cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính vừa qua càng chỉ rõ vai trò
quan trọng của hệ thống NHTMCP. Ảnh hưởng lớn của NHTMCP đối với kinh tế
xã hội xuất phát từ chức năng của nó. NHTMCP có các chức năng cơ bản sau [5,
tr.8-12]:
1.1.2.1. Chức năng trung gian tín dụng:
NHTMCP là một tổ chức trung gian tài chính, “đi vay để cho vay”, là cầu nối
giữa người có vốn dư thừa và người có nhu cầu về vốn. Đây có thể coi là chức năng
đặc trưng của NHTMCP. Trong nền kinh tế có hai đối tượng quan hệ chặt chẽ với
ngân hàng là các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi cho tiêu
dùng và đầu tư vượt quá thu nhập, vì thế họ trở thành những người cần bổ sung vốn,
vay vốn; các cá nhân và tổ chức tạm thời thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập
hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ, do vậy họ có
tiền để tiết kiệm. Ngân hàng là một tổ chức trung gian chuyển lượng tiền từ nhóm
thặng dư vốn sang nhóm thâm hụt vốn. Hoạt động này mang tính chất kinh doanh,
bởi vì khi cho vay NHTMCP đặt ra một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất huy động
vốn. Chênh lệch giữa 2 mức lãi suất này là để bù đắp chi phí hoạt động và phần lợi
nhuận của ngân hàng.
Chức năng trung gian tín dụng xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn trong quá
trình tái sản xuất xã hội; từ sự bất cân xứng thông tin giữa người đi vay và cho vay;
từ sự chấp nhận rủi ro của NHTMCP.
Chức năng trung gian tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng đối với tất cả các đối
tác trong quan hệ tín dụng:

15



- Người gửi tiền: thu được lợi ích từ vốn tạm thời nhàn rỗi với khoản lãi tiền
gửi. Hơn nữa, NHTMCP còn đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi.
- Người đi vay: thỏa mãn được nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh hoặc tiêu
dùng, mà không phải tốn kém nhiều thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung cấp.
- NHTMCP: sẽ thu được lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi
suất tiền gửi. Lợi nhuận này là cơ sở để tồn tại và phát triển ngân hàng.
- Đối với nền kinh tế: chức năng này góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
điều hòa lưu thông tiền tệ, ổn định sức mua đồng tiền và kiềm chế lạm phát.
1.1.2.2. Chức năng trung gian thanh toán
NHTMCP trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Các NHTMCP thay mặt người mua thanh toán giá trị hàng hóa, dịch vụ
cho người bán nhằm tiết kiệm chi phí đi lại, vận chuyển tiền của cả 2 bên. Để thanh
toán qua ngân hàng nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đã đưa
ra nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu,
thẻ... cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử hiện đại và cung cấp tiền giấy khi
khách hàng cần. Các NHTMCP thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua
Ngân hàng Trung ương, hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh
toán hiện đại qua ngân hàng được mở rộng, nhiều hình thức thanh toán được chuẩn
hóa góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng
trong một quốc gia, mà còn giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Chức năng trung
gian tài chính – tài chính gián tiếp- của các NHTMCP đã khắc phục được hầu hết
các nhược điểm của thanh toán dùng tiền mặt – tài chính trực tiếp - giữa các chủ thể
trong nền kinh tế, giúp các quan hệ tài chính minh bạch, lành mạnh, an toàn hơn
đồng thời cũng khiến cho dòng vốn của nền kinh tế luân chuyển nhanh hơn, hiệu
quả hơn, lợi ích của tất cả các bên đều được đảm bảo và gia tăng khi chuyển dòng
vốn qua các NHTMCP. Chính vì vậy, các NHTMCP ngày càng phát triển và là 1
thành tố không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường.
Chức năng trung gian thanh toán có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh tế:
- Nhờ tập trung công việc thanh toán của xã hội vào ngân hàng nên mọi khoản

thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ trở nên thuận tiện, nhanh chóng, an toàn và tiết
kiệm chi phí. Điều này gốp phần tăng nhanh tốc độ lưu thông hàng hóa, tốc độ luân
chuyển vốn và hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.

16


- Do thực hiện chức năng trung gian thanh toán, NHTMCP có điều kiện huy
động tiền gửi của khách hàng ở mức tối đa, mở rộng cho vay và đầu tư, đẩy mạnh
hoạt động động kinh doanh ngân hàng.
- Qua chức năng này, NHTMCP đã góp phần giám sát kỉ luật hợp đồng kinh
tế, tài chính và thanh toán theo quy định của pháp luật Nhà nước.
1.1.2.3. Chức năng tạo tiền
Với chức năng trung gian tín dụng và trung gian thanh toán, NHTMCP có khả
năng tạo ra tiền gửi thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân
hàng sử dụng số tiền vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay lại được khách
hàng sử dụng để thanh toán chuyển khoản cho khách hàng ở ngân hàng khác và chi
khi thực hiện nghiệp vụ cho vay, NHTMCP mới bắt đầu tạo tiền.
Từ một khoản tiền gửi ban đầu, thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong
hệ thống NHTMCP, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi ban đầu.
Khả năng tạo tiền của NHTMCP phụ thuộc vào các yếu tố như: tỉ lệ dự trữ bắt
buộc, tỉ lệ dự trữ dư thừa và tỉ lệ giữa tiền mặt so với tiền gửi thanh toán...
Chức năng tạo tiền có ý nghĩa quan trọng:
- Khối lượng tiền do các NHTMCP tạo ra có ý nghĩa to lớn, tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu
sử dụng tiền của xã hội.
- Việc tạo ra tiền chuyển khoản để thay thế cho tiền mặt là một phát minh
quan trọng thứ hai trong lịch sử hoạt động của ngân hàng. Nhờ phương thức tạo tiền
đã tiết kiệm được chi phí lưu thông và ngân hàng trở thành trung tâm của đời sống
kinh tế - xã hội.

Chức năng trung gian tín dụng - trung gian thanh toán – chức năng tạo tiền
của NHTMCP trong nền kinh tế hiện nay được thể hiện khái quát qua sơ đồ 1 sau:

17


Sơ đồ 1.1. Hệ thống tài chính trực tiếp và gián tiếp
Tài chính gián tiếp

Vốn

Các trung gian tài
chính (gồm
NHTM)
Vốn

Người tiết kiệm

Người sử dụng vốn

- Cá nhân, gia đình
- Doanh nghiệp, tổ
chức

Vốn

Thị trường
tài chính

Vốn


- Doanh nghiệp, tổ
chức
- Chính phủ

- Chính phủ
Tài chính trực tiếp

- Cá nhân, gia đình

1.1.3. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần
1.1.3.1. Hoạt động huy động vốn
Để có vốn tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, NHTMCP phải tiến hành
huy động vốn từ các thành phần kinh tế. Khác với doanh nghiệp phi tài chính, hoạt
động huy động vốn của NHTMCP không chỉ tạo ra nguồn vốn cho ngân hàng mà
còn là một hoạt động kinh doanh, tạo ra đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh.
NHTMCP có thể huy động vốn bằng cách huy động tiền gửi, phát hành giấy tờ có
giá và đi vay.
Nghiệp vụ nhận tiền gửi của NHTMCP là hoạt động truyền thống và chủ yếu
của NHTMCP trong mọi thời kì. Ngân hàng sẽ tiếp nhận tất cả các nguồn tiền gửi
của dân cư, của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
nghề nghiệp với mức lãi suất phù hợp được công bố. Tiền gửi bao gồm tiền gửi
không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Tiền gửi không kỳ hạn là loại tiền gửi của
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào ngân hàng với mục đích chính để
thực hiện các khoản chi trả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng. Tiền
gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân gửi vào
NHTMCP với mục đích để hưởng lãi.

18



Giấy tờ có giá là công cụ Nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn trên thị
trường. Nguồn vốn này tương đối ổn định. Lãi suất của loại này phụ thuộc vào sự
cấp thiết của việc huy động vốn nên thường cao hơn lãi suất tiền gửi có kỳ hạn
thông thường. Các giấy tờ có giá do NHTMCP phát hành gồm kỳ phiếu, trái phiếu,
chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá.
Nguồn vốn đi vay nhằm tạo khả năng thanh toán cho NHTMCP. NHTMCP có
thể vay từ các TCTD trong nước, các ngân hàng nước ngoài, NHNN. Khi vay vốn
các NHTMCP phải thực hiện quy định về chế độ tín dụng hiện hành và hợp đồng
tín dụng với cương vị là người đi vay.
1.1.3.2. Hoạt động tín dụng và đầu tư:
 Tín dụng ngân hàng là giao dịch tài sản giữa ngân hàng với bên đi vay (là
các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nền kinh tế) trong đó ngân hàng chuyển giao tài
sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, và bên đi
vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện cả vốn gốc và lãi cho ngân hàng khi đến
hạn thanh toán. Tín dụng là nghiệp vụ có vị trí rất quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của mỗi NHTMCP.
Xuất phát từ đặc trưng của hoạt động ngân hàng là kinh doanh trên lĩnh vực
tiền tệ nên tài sản giao dịch trong tín dụng ngân hàng chủ yếu là dưới hình thức tiền
tệ. Tuy nhiên, trong một số hình thức tín dụng, như cho thuê tài chính thì tài sản
trong giao dịch tín dụng cũng có thể là các tài sản khác như tài sản cố định.
Tín dụng là nghiệp vụ sinh lời lớn nhất của ngân hàng thương mại thông qua
thu lãi cho vay. Lãi cho vay, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam VAS 14 thuộc loại
doanh thu cung cấp dịch vụ, và nó gắn liền với thời hạn sử dụng vốn vay của khách
hàng vay.
Tín dụng là nghiệp vụ tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để chống đỡ với các rủi ro có thể
xảy ra, các NHTMCP phải tiến hành phân loại nợ để làm cơ sở cho việc đánh giá
chất lượng tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo định kỳ.
 Đầu tư của ngân hàng thương mại được chia làm 2 loại là đầu tư vào tài sản
cố định và đầu tư tài chính. Nhưng khi nói đến hoạt động đầu tư của ngân hàng,

người ta thường hiểu là hoạt động đầu tư tài chính. Đầu tư tài chính là nghiệp vụ mà
ngân hàng thực hiện mua vào các loại chứng khoán, đầu tư góp vốn liên doanh, đầu
tư liên doanh liên kết nhằm mục đích thu lợi.
Hoạt động đầu tư của NHTMCP cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro, do vậy, các
ngân hàng thường phải đa dạng hóa danh mục đầu tư nhằm mục đích phân tán rủi
ro, tối đa hóa giá trị cho ngân hàng.

19


Trong bảng cân đối kế toán của NHTMCP, khoản mục tín dụng và đầu tư
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản Có (khoảng 70% – 80%). Tỉ trọng
tài sản cố định chiếm tỉ lệ rất nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng mà chủ yếu là tài
sản vô hình như các loại kì phiếu, trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu,...
1.1.3.3. Hoạt động dịch vụ ngân hàng
Ngoài những hoạt động chính kể trên, NHTMCP còn cung cấp các dịch vụ tài
chính khác như dịch vụ ủy thác và đại lý trong lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân
hàng, kinh doanh bảo hiểm, quản lý tài sản..Những dịch vụ này góp phần tạo nguồn thu
đáng kể cho NHTMCP thông qua phí dịch vụ.Các dịch vụ của NHTMCP ngày càng đa
dạng, phát triển và hoàn thiện theo yêu cầu của đời sống kinh tế - xã hội.
Tóm lại, do tính chất hoạt động kinh doanh của NHTMCP là kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, hoạt động kinh doanh của ngân hàng mang những đặc điểm sau đây:
 Thứ nhất, NHTMCP là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ.
Tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt với các đặc tính riêng có như: tính xã hội
hóa cao, cảm ứng và nhạy bén với mọi thay đổi trong nền kinh tế. Đây chính là đặc
điểm cơ bản để phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng với các lĩnh vực kinh
doanh khác. Giá cả trong kinh doanh ngân hàng chính là lãi suất. Sự vận động lên
xuống của lãi suất ảnh hưởng đến rất nhiều mối quan hệ kinh tế của NHTMCP với
các nhóm đối tượng khác nhau. Để đảm bảo ổn định trong kinh doanh, các
NHTMCP sẽ cần một lượng tiền mặt rất lớn để phục vụ cho các nghiệp vụ liên quan

đến tiền mặt phát sinh đều đặn và tăng lên. Như vậy trong quá trình phân tích tài
chính NHTMCP, việc đánh giá khả năng huy động, thanh toán bằng tiền mặt sẽ
khác với các DN thông thường.
 Thứ hai, hoạt động của NHTMCP là chấp nhận và quản lý rủi ro.
Các hoạt động của NHTMCP tạo ra tài sản có đặc điểm là tỉ lệ tài sản được tài
trợ bằng vốn chủ sở hữu khá nhỏ, các tài sản ngoại bảng chiếm tỉ lệ cao và các tài
sản nhìn chung có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên, muốn hoạt động, NHTMCP phải
biết chấp nhận rủi ro để lấy một mức giá cho sự chấp nhận đó đồng thời luôn chú
trọng quản lý rủi ro.
 Thứ ba, NHTMCP là kênh dẫn vốn quan trọng trong nền kinh tế
Hoạt động chủ yếu của NHTMCP là cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu
trên cơ sở nguồn vốn của những người gửi tiền. Do đó, NHTMCP phải chịu trách
nhiệm xã hội trước nhiều nhóm người có lợi ích liên quan. Số lượng khách hàng gửi
tiền và vay tiền vô cùng lớn và đa dạng về độ tuổi, lĩnh vực, ngành nghề hoạt

20


động,...Nếu NHTMCP hoạt động không hiệu quả, không thể chi trả lãi và gốc cho
người gửi tiền thì sẽ tác động tiêu cực rất lớn đến xã hội. NHTMCP tài trợ vốn cho
sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Vì vậy, hoạt động của NHTMCP chịu sự
quản lý chặt chẽ của pháp luật Nhà Nước mà đại diện là Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài ra, trong quá trình hội nhập và mở cửa thị trường tài chính, các NHTMCP
cần phải tuân thủ các thông lệ chung của quốc tế.
 Thứ tư, hoạt động của NHTMCP có tính cạnh tranh cao
Ngày nay, hoạt động của ngân hàng đã trở thành ngành công nghiệp ngân
hàng. Số lượng NHTM tăng lên nhanh chóng, mỗi NHTMCP không chỉ cạnh tranh
với NHTM trong nước mà còn chi nhánh NHTM nước ngoài. Các sản phẩm của
ngân hàng mang tính tương đồng, dễ bắt chước. Khả năng cạnh tranh của ngân hàng
phụ thuộc vào mức độ hoàn hảo của các sản phẩm dịch vụ mà nó cung cấp. Vì vậy,

các NHTMCP luôn chú trọng đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực và trình độ quản lý để đưa ra các sản phẩm dịch vụ thu hút khách hàng cũng như
nâng cao hiệu hoạt động.
Hoạt động kinh doanh của NHTMCP có những đặc điểm giống với một doanh
nghiệp cổ phần thông thường nên nội dung phân tích tài chính NHTMCP có thể vận
dụng các nội dung phân tích giống như đối với một doanh nghiệp cổ phần như:
phân tích khái quát tình hình huy động và sử dụng vốn, phân tích khái quát kết quả
kinh doanh, phân tích tình hình cổ phiếu,... Bên cạnh đó, NHTMCP cũng mang
những đặc điểm riêng có của một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên có
những nội dung phân tích đặc trưng đối với NHTM như: phân tích tình hình vốn tín
dụng, phân tích tình hình vốn đầu tư, phân tích rủi ro,.... Đồng thời, cần chú ý các
quy định của pháp luật trong điều chỉnh hoạt động của ngân hàng trong quá trình
phân tích các nội dung như: nguồn vốn, các tỷ lệ về an toàn vốn, rủi ro tin dụng....
1.2. TỔNG QUAN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN
1.2.1. Khái niệm, mục tiêu của phân tích tài chính ngân hàng thương mại cổ phần
1.2.1.1. Khái niệm về phân tích tài chính ngân hàng thương mại cổ phần
Phân tích, hiểu theo nghĩa chung nhất là sự phân chia, chia nhỏ các sự vật và
hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ, biện chứng giữa các bộ phân cấu thành của
sự vật, hiện tượng nhằm nhận thức được bản chất, tính chất và xu hướng phát triển
của các sự vật và hiện tượng đang nghiên cứu.

21


Tài chính NHTMCP là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy
sinh trong quá trình phân phối của cải xã hội gắn liền với việc tạo lập và sử dụng
các quỹ tiền tệ của NHTMCP để phục vụ cho yêu cầu hoạt động kinh doanh của
NHTMCP và các nhu cầu chung của xã hội.
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về phân tích tài chính:

Theo các nhà khoa học Học viện tài chính: “Phân tích tài chính doanh nghiệp
là tổng thể các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện
nay, dự đoán tình hình tài chính trong tương lai của doanh nghiệp, giúp các nhà
quản lý đưa ra các quyết định quản lý hữu hiệu, phù hợp với mục tiêu họ quan tâm”
[7, tr8]
Theo các nhà khoa học của Đại học kinh tế quốc dân: “Phân tích tình hình tài
chính là một hệ thống các phương pháp nhằm đánh giá tình hình tài chính của
doanh nghiệp trong một thời gian hoạt động nhất định. Trên cơ sở đó, giúp các nhà
quản trị doanh nghiệp đưa ra các quyết định chuẩn xác trong quá trình kinh doanh”
[39, tr29]
Theo quan điểm của Josette Peyrard: “Phân tích tài chính có thể được định
nghĩa như một tổng thể các phương pháp cho phép đánh giá tình hình tài chính quá
khứ và hiện tại, giúp cho việc ra quyết định quản trị và đánh giá doanh nghiệp một
cách chính xác” [60, tr12]
NHTMCP cũng là một doanh nghiệp nên từ các cách tiếp cận trên về phân tích
tài chính doanh nghiệp, NCS cho rằng: phân tích tài chính NHTMCP là quá trình
sử dụng hệ thống phương pháp để đánh giá tình hình tài chính của NHTMCP trong
quá khứ và hiện tại, từ đó dự đoán tình hình tài chính của NHTMCP trong tương
lai, qua đó giúp các đối tượng quan tâm đưa ra các quyết định kinh tế phù hợp với
lợi ích của họ.
Phân tích tài chính NHTMCP có 3 chức năng cơ bản là chức năng đánh giá,
chức năng dự báo và chức năng điều chỉnh.
Chức năng đánh giá, phân tích tài chính NHTMCP phải làm rõ những vấn đề
như sự vận động các nguồn lực tài chính trong NHTMCP diễn ra như thế nào, tác
động ra sao đến quá trình kinh doanh, chịu ảnh hưởng của những yếu tố nào; xem
xét những kết quả đạt được có đúng hay vượt mục tiêu, kế hoạch đề ra; quan hệ
kinh tế giữa NHTMCP với các đối tượng có liên quan đã diễn ra như thế nào?...
Chức năng dự báo, phân tích tài chính NHTMCP sẽ giúp các chủ thể quản lý
thấy được tiềm lực tài chính, sự vận động của vốn trong tương lai, đặc biệt phải


22


nhận thấy được tình hình tài chính trong chu kỳ kinh doanh tới từ đó có những hành
động hợp lý để đạt được những mục tiêu đề ra.
Chức năng điều chỉnh: Căn cứ vào chức năng đánh giá và chức năng dự báo,
phân tích tài chính NHTMCP đề xuất các biện pháp giúp các đối tượng quan tâm
điều chỉnh các mối quan hệ kinh tế để đạt được mục tiêu.
1.2.1.2. Mục tiêu của phân tích tài chính ngân hàng thương mại cổ phần
Có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của NHTMCP. Mỗi đối
tượng quan tâm đến những khía cạnh khác nhau về tình hình tài chính của
NHTMCP. Vì vậy, mục tiêu phân tích cụ thể với từng đối tượng là khác nhau.
Đối với nhà quản trị ngân hàng, phân tích tài chính nhằm đánh giá quá trình
quản lý trong một thời kì thông qua tất cả các khía cạnh tài chính của ngân hàng
như tình hình huy động vốn, tình hình kinh doanh, quản trị rủi ro…; qua đó điều
chỉnh các quyết định cho phù hợp với thực tế của ngân hàng. Phân tích tài chính còn
là công cụ để các nhà quản trị kiểm tra, kiểm soát các hoạt động.
Đối với người gửi tiền, phân tích tài chính NHTMCP nhằm đánh giá khả năng
thanh toán, tình hình kinh doanh, mức độ rủi ro tài chính của ngân hàng để ra quyết
định gửi tiền.
Đối với nhà đầu tư, phân tích tài chính NHTMCP nhằm đánh giá tình hình
kinh doanh, mức độ rủi ro, chính sách phân phối lợi nhuận, qua đó định giá cổ phiếu
và ra quyết định đầu tư.
Đối với cơ quan quản lý Nhà Nước: do hoạt động của NHTMCP có ảnh hưởng
mạnh mẽ đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân nên chịu sự điều tiết lớn của chính sách
pháp luật Nhà nước. Phân tích tài chính là một trong những công cụ quan trọng để
cơ quan quản lý Nhà Nước mà trực tiếp là NHNN giám sát các hoạt động của
NHTMCP. Qua phân tích tài chính NHTMCP, cơ quan quản lý Nhà Nước thấy
được thực trạng tài chính, tác động của chính sách đến tình hình tài chính của ngân
hàng từ đó điều chỉnh các quy định để tạo điều kiện cho NHTMCP phát triển đồng

thời thực hiện được mục tiêu của chính sách trong mỗi thời kì.
Đối với Ủy ban chứng khoán Nhà Nước, phân tích tài chính giúp họ đánh giá
được sức mạnh tài chính của các NHTMCP niêm yết cũng như chất lượng “hàng
hóa” giao dịch trên thị trường chứng khoán. Từ đó, Ủy ban chứng khoán ra các
quyết định đảm bảo sự phát triển của thị trường như hủy niêm yết hay cho phép
niêm yết bổ sung…

23


Đối với người lao động trong NHTMCP, phân tích tài chính nhằm đánh giá
tình hình kinh doanh, triển vọng phát triển trong tương lai của NHTMCP. Qua đó
giúp người lao động định hướng việc làm.
Tóm lại, mục tiêu phân tích cụ thể đối với các đối tượng khác nhau là khác
nhau. Tuy nhiên, mục tiêu chung của phân tích tài chính NHTMCP là cung cấp
thông tin về tình hình tài chính của NHTMCP phục vụ cho việc ra quyết định của
các đối tượng liên quan.
1.2.2. Nhân tố ảnh hưởng đến nội dung phân tích tài chính ngân hàng thương
mại cổ phần
1.2.2.1. Nhân tố khách quan
Hoạt động kinh doanh đặc thù của NHTMCP
Hoạt động kinh doanh của NHTMCP chứa đựng rất nhiều rủi ro. Rủi ro của
NHTMCP tổng hợp từ rủi ro của tất cả các nhóm đối tượng có liên quan trong nền
kinh tế gồm: Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình thông qua các chính sách kinh
tế vĩ mô của nhà nước, hoạt động đầu tư của các đối tượng khách hàng, trình độ dân
trí, năng lực quản trị, điều hành chính của ngân hàng và cả những bất ổn của tự
nhiên, chính trị... Hơn nữa, rủi ro trong hoạt động kinh doanh NHTMCP nếu xảy ra
sẽ gây ảnh hưởng lớn cho nền kinh tế hơn bất kỳ rủi ro của loại hình doanh nghiệp
nào vì tính chất lây lan có thể làm rung chuyển toàn bộ nền kinh tế cũng như các thể
chế chính trị. Chính đặc điểm đặc thù về lĩnh vực kinh doanh và mức độ lây lan rủi

ro của NHTMCP đối với toàn bộ nền kinh tế nên trong quá trình hoạt động, các
NHTMCP phải thường xuyên thực hiện công tác phân tích tài chính. Trong nội
dung phân tích cần đặc biệt lưu ý tới các nội dung do đặc thù chi phối như: phân
tích cơ cấu nguồn vốn huy động theo nhiều tiêu chí nhằm cân đối được khả năng
thanh toán, khả năng chi trả, phân tích các loại rủi ro trong hoạt động của
NHTMCP, phân tích an toàn vốn, ...
Sản phẩm kinh doanh của NHTMCP là tiền tệ. Sản phẩm này với các đặc tính
riêng có như: tính xã hội hóa cao, cảm ứng và nhạy bén với mọi thay đổi trong nền
kinh tế. Đây chính là đặc điểm cơ bản để phân biệt lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
với các lĩnh vực kinh doanh khác. Giá cả trong kinh doanh ngân hàng chính là lãi
suất. Sự vận động lên xuống của lãi suất ảnh hưởng đến rất nhiều mối quan hệ kinh
tế của NHTMCP với các nhóm đối tượng khác nhau. Để đảm bảo ổn định trong
kinh doanh, các NHTMCP sẽ cần một lượng tiền mặt rất lớn để phục vụ cho các
nghiệp vụ liên quan đến tiền mặt phát sinh đều đặn và tăng lên. Như vậy trong quá

24


trình phân tích tài chính NHTMCP, việc đánh giá khả năng huy động, thanh toán
bằng tiền mặt, phân tích dòng tiền sẽ khác với các doanh nghiệp thông thường.
Tình hình chung của nền kinh tế
Hoạt động của NHTMCP có liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực kinh tế xã
hội. Nên tình hình tài chính của NHTMCP chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự suy thoái
hay tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam hay khủng hoảng tài chính khu vực và thế
giới. Vì vậy, khi phân tích tài chính NHTMCP, ngoài những thông tin từ ngân hàng
cần xem xét các yếu tố khách quan từ phía khách hàng, đối thủ cạnh tranh…
Hình thức pháp lý của NHTMCP
Các NHTMCP có đặc điểm về hình thức pháp lý giống với các công ty cổ phần:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cá nhân
hay tổ chức nắm giữ quyền sở hữu hợp pháp một phần hay toàn bộ phần vốn góp

của NHTMCP gọi là cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ
tài sản khác của ngân hàng trong phạm vi vốn góp của mình. Cổ đông có quyền tự
do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác. Mọi hoạt đông chuyển
nhượng cổ phần diễn ra với tư cách cá nhân nên không ảnh hưởng đến vốn điều lệ
và hoạt động của NHTMCP. Tuy nhiên, giao dịch cổ phiếu của NHTMCP trên thị
trường là tấm gương phản chiếu tình hình tài chính của ngân hàng. Ngược lại, tình
hình tài chính của NHTMCP thay đổi có thể ảnh hưởng lớn đến hoạt động của thị
trường chứng khoán. Nhà đầu tư, các tổ chức tài chính trung gian có thể định giá
NHTMCP thông qua giá trị của cổ phiếu.
- Ngoài hình thức huy động vốn góp ban đầu, NHTMCP có thể phát hành các
loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng để huy động vốn. Đợt phát
hành của NHTMCP có thành công hay không phụ thuộc rất nhiều vào đánh giá của
nhà đầu tư đối với tình hình tài chính của NHTMCP. Việc phân phối lợi nhuận sau
thuế thuộc quyền quyết định của Đại hội cổ đông của công ty, NHTMCP có nhu cầu
tăng vốn có thể ưu tiên giữ lại lợi nhuận.
Vì vậy, phân tích tài chính NHTMCP cần đảm bảo cung cấp thông tin cho đối
tượng quan trọng là nhà đầu tư và cơ quan quản lý hoạt động của thị trường chứng
khoán. Ngoài nội dung phân tích NHTM nói chung còn nội dung phân tích đặc thù
là phân tích tình hình cổ phiếu của NHTMCP.
Các quy định của cơ quan quản lý Nhà Nước
NHTMCP hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực đặc thù – trung gian tài chính lĩnh vực kinh doanh mang tính hệ thống cao và phải chịu sự quản lý nghiêm ngặt

25


×