Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Đánh giá về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong pháp luật phong kiến việt nam 9 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.2 KB, 6 trang )

MỞ ĐẦU
Trong các văn bản pháp luật còn lại của Việt Nam từ thời kì phong kiến mà
điển hình là Quốc triều hình luật (thường gọi là Luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật
lệ ( thường gọi là Luật Gia Long ) thì vấn đề về quan hệ tài sản trong gia đình
chiếm một vị trí quan trọng, phản ánh một cách rõ nét nhất tính dân tộc của nước
Đại Việt. Mặc dù trong xã hội phong kiến Việt Nam luôn tồn tại tư tưởng trọng nam
khinh nữ nhưng liệu đối với vấn đề quan hệ tài sản giữa người phụ nữ và người đàn
ông trong gia đình có tồn tại sự bất bình đẳng này không ? Để làm rõ vấn đề này,
em xin chọn đề bài : “Đánh giá về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong pháp
luật phong kiến Việt nam” để phân tích. Trong quá trình làm bài, em còn nhiều
thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô .
Em xin chân thành cám ơn !

NỘI DUNG
Đánh giá về quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong pháp luật phong kiến
Việt Nam, ta đánh giá chủ yếu thông qua hai bộ luật Quốc Triều hình luật và Hoàng
Việt luật lệ. Tuy nhiên, trong cả hai bộ luật này, quan hệ tài sản giữa vợ và chồng
đều không được quy định một cách trực tiếp mà được quy định một cách gián tiếp
qua chế định thừa kế và chế định hợp đồng.
♦ Đối với quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong gia đình, cả hai bộ luật đều
quy định tài sản thu nhập sau khi kết hôn là tài sản chung cho cả vợ chồng. Ở đây
đều dễ thấy là tư tưởng gia trưởng được thể hiện khá rõ nét trong việc chi phối tài
sản đó. Trong gia đình, người gia trưởng có quyền hành nhiều hơn đối với tài sản
chung. Điều đó thể hiện ở chỗ, các thân thuộc trong gia đình có nghĩa vụ phục tùng
phán quyết của người gia trưởng. Tuy nhiên, điểm tiến bộ trong bộ Quốc triều hình
luật cũng chính là điểm khác biệt với Hoàng Việt luật lệ đó là, mặc dù bị ràng buộc
bởi tư tưởng gia trưởng như vậy, nhưng người vợ trong gia đình phong kiến thời Lê
không hoàn toàn mất quyền đối với tài sản gia đình, thể hiện rõ nhất khi trong việc
1



bán tài sản đều phải có chữ kí của hai vợ chồng. Người ta có thể thấy bằng chứng
đó trong các văn tự bán tài sản kể từ năm thứ hai mươi tám đời Cảnh hưng (1767).
Vào thế kỉ XIX, Bộ luật Gia Long của triều Nguyễn quy định chủ thể chính trong
quan hệ giao dịch dân sự là gia trưởng. Vợ, con, cháu là chủ thể bị hạn chế quyền.
Theo Lệ 1, Điều 82 : “ Trường hợp cha mẹ, ông bà còn sống các con cháu không
thể giao khế ước phân sản, chia gia tài và xin đứng sổ riêng” nhưng Luật cũng quy
định : “ Nếu cha mẹ, ông bà cho phép thì được”. Ngoài ra, bộ luật này cũng không
quy định về tài sản riêng của vợ, người vợ phụ thuộc vào chồng và gia đình chồng.
Như vậy, một cách gián tiếp chúng ta có thể hiểu Bộ luật Gia Long cho phép người
chồng có toàn quyền định đoạt, chuyển nhượng tài sản. Vì vậy so với pháp luật thời
Lê thì pháp luật thời Nguyễn là một bước lùi trong việc quy định quan hệ tài sản
giữa vợ và chồng .
♦ Đối với chế định thừa kế, Bộ luật Gia Long không điều chỉnh quan
hệ thừa kế giữa vợ và chồng, tuy nhiên trong trường hợp chồng chết, nếu là vợ
quan chức thì được hưởng một phần lương bổng của chồng.
Trái ngược với Bộ luật Gia Long, quy định về thừa kế tài sản giữa vợ và
chồng lại là sự tiến bộ trong quy định pháp luật triều Lê về quan hệ tài sản giữa vợ
và chồng. Về quan hệ tài sản và thừa kế của vợ chồng thời Lê qua nghiên cứu các
quy định pháp luật đương thời mà cụ thể là các Điều 374, 375, 376 của bộ Quốc
triều hình luật, chúng ta dễ dàng nhất trí với các nhà nghiên cứu đi trước rằng, tài
sản của vợ chồng được hình thành qua 3 nguồn khác nhau là :
-

Tài sản của chồng thừa hưởng từ gia đình chồng ( phu điền sản )

-

Tài sản của vợ thừa hưởng từ gia đình vợ (thê điền sản )

-


Tài sản do hai vợ chồng tạo dựng nên trong quá trình hôn nhân (tần

tảo điền sản )

2


Phân tích Điều 375 của bộ Quốc triều hình luật và Đoạn 258, 259 của Hồng
Đức thiện chính thứ trong trường hợp vợ chồng chưa có con, chúng ta có thể nhận
thấy :


Đối với tài sản là của nổi :
- Dùng để chi cho tế lễ, thực hiện tục trả miệng
- Số còn lại để lại cho người đang sống ( chồng chết để lại cho vợ và ngược lại



).
Đối với nhà cửa :
Chia đôi nhà cửa, một nửa dùng để tế lễ người chết, một nửa còn lại để cho



người sống ở.
Đối với nợ nần của hai vợ chồng cùng nợ :
- Lấy của nổi ra mà trả.Nếu của nổi không đủ trả hoặc không có của nổi thi số
nợ đó chia làm hai phần :
+ Phần nợ của người chồng lấy phần tài sản của chồng ra mà trả.

+ Phần nợ của người vợ lấy phần tài sản của vợ ra mà trả.
Trong trường hợp vợ chồng bị khánh kiệt tài sản thì phần nợ của người chết để

-

chịu đó, không được đòi vào cha mẹ họ hàng. Còn phần nợ là lệ được đòi,
chồng chết thì đòi vợ,vợ chết thì đòi chồng, không được đòi cha mẹ và họ hang


anh em.
Đối với điền sản có được do bố mẹ dành cho ( phu điền sản và thê điền sản ):
Nếu chồng (hay vợ ) chết trước : Chi làm 2 phần bằng nhau, một phần dành cho
gia đình bên chồng (vợ ) để lo việc tế lễ, một phần dành cho vợ (chồng) để
phụng dưỡng một đời (không có quyền sở hữu). Khi người vợ (chồng ) chết thì
phần tài sản này giao lại cho gia đình bên chồng (vợ).
Sự phân chia tài sản như vậy cho thấy khía cạnh quan trọng của vị trí người

vợ trong gia đình truyền thống Việt Nam. Pháp luật thời Lê đã ghi nhận một cách
bình đẳng sự đóng góp của người vợ trong tài sản chung của vợ chồng. Của cải do
hai vợ chồng làm ra trong quá trình hôn nhân được chia đôi mỗi người một nửa để
làm của riêng, người chồng không có quyền thừa kế tài sản của người vợ. Nếu
người vợ mất đi mà không có con, anh ta chỉ được hưởng hoa lợi từ một nửa tài sản
của người vợ đã quá cố và sau khi anh ta qua đời quyền làm chủ của một nửa tài
3


sản đo được lập tức chuyển giao cho gia đình người vợ. Người chồng chỉ được
quyền sở hữu tài sản của người vợ khi chị ta có những hoạt động xúc phạm chồng.
Bộ luật nhà Lê ghi nhận rằng nếu vợ can tội ngoại tình hay gây thương tích cho
chồng thì tài sản của chị ta sẽ phải giao nộp lại cho chồng. Điều đó nói lên pháp

luật ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản do hai vợ chồng làm
ra. Nó cũng chứng minh rằng sở dĩ người vợ có được vị thế cao trong gia đình vì có
những hoạt động kinh tế của chính mình.
Trong pháp luật về quyền thừa kế tài sản (trong chừng mực có liên quan đến
các tài sản thừa kế) không có khái niệm về sự hưởng chung giữa vợ và chồng,
những tài sản đó vẫn riêng rẽ từ khi kết hôn, dù cho nó có được đặt dưới sự quản lí
chung của hai vợ chồng và các lợi tức của nó trở thành tài sản chung : Người chồng
không có quyền chiếm dụng tài sản của vợ và ngược lại. Vì vậy, nếu vợ chồng li
hôn thì mỗi người có thể mang đi tài sản của người đó.
Ngoài ra trong 3 trường hợp cấm bỏ vợ ( tam thất khữ), trường hợp thứ hai
đã nhấn mạnh đến việc ghi nhận những đóng góp của người vợ : khi lấy nhau thì
nghèo, về sau vợ chồng giàu có (tiền bần tiện, hậu phú quý )thì chồng không được
phép bỏ vợ. Đó cũng là một thể hiện tư tưởng bình đẳng của pháp luật thời Lê.


Đối với điền sản do hai vợ chồng tạo ra trong quá trình hôn nhân :
Giống nhau : Chia làm hai phần bằng nhau, một phần dành cho vợ (chồng)

để làm của riêng, một phần được dành cho chồng (vợ) chia ra như sau : 1/3 dành
cho nhà chồng (vợ) để lo việc tế lễ (thờ cúng ). 2/3 dành cho nhà vợ (chồng )để
phụng dưỡng một đời ( không được làm của riêng ). Khi chết giao lại cho gia đình
bên chồng (vợ ).
Khác nhau :
Chống chết trước
Vợ chết trước
2/3 tài sản được chia từ số tài sản của 2/3 tài sản được chia từ số tài sản của
chồng phải được trả lại cho gia đình vợ, nếu người chồng đi lấy vợ khác
4



chồng,nếu người vợ đi lấy người khác. vẫn được tiếp tục sử dụng.
Ta có thể nhận thấy bất bình đẳng duy nhất trong quan hệ tài sản giữa vợ và
chồng được thể hiện ở chỗ, nếu vợ chết trước, đối với tài sản do bố mẹ hai bên
dành cho, chồng được hưởng một nửa để nuôi dưỡng một đời và khi đi lấy vợ khác
cẫn tiếp tục được giữ số tài sản đó, trong khi đó, nếu chồng chết trước, người vợ đi
lấy chồng khác phải trả phần tài sản này cho gia đình bên chồng – sự bất bình đẳng
này có nguồn gốc từ tư tưởng Khổng giáo trọng nam khinh nữ, chứ không bắt
nguồn từ bất kì lí do nào khác. Mặc dù có sự thừa nhận về quyền của người chồng,
nhưng nếu người người chồng ở rể thì thật khó giữ quyền như vậy. Trong pháp luật
về quyền làm chủ tài sản gia đình, người ta đã đối xử khác biệt với người chồng có
lẽ chủ yếu là vì trong xã hội Việt Nam, con gái sau khi cưới thường được về ở nhà
chồng, hơn là vì người chồng có một uy quyền mạnh mẽ nào đó.
Tóm lại, việc bộ luật nhà Lê thừa nhận người vợ có quyền làm chủ tài sản,
cũng có nghĩa không thừa nhận người chồng có uy quyền tuyệt đối đối với người
vợ.

KẾT LUẬN
Như vậy, trong quan hệ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì phong kiến
Việt Nam, người phụ nữ chưa thực sự bình đẳng với người đàn ông trong gia đình
nhưng phần nào ta cũng nhận thấy được vị trí nhất định của người phụ nữ. Đó cũng
là một sự tiến bộ rõ rệt trong tư tưởng của người làm luật xưa, là điều rất đáng ghi
nhận.

5


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam – Trường đại học Luật


2.

Hà Nội – Nhà xuất bản công an nhân dân, 2009.
Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVIII –
Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia – Viện Nhà nước và Pháp

3.

luật – Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1994.
Luật và xã hội Việt Nam từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XVIII – Insun Yu – Nhà

4.

xuất bản khoa học xã hội , 1994.
Quốc triều hình luật - lịch sử hình thành, nội dung và giá trị – Nhà xuất bản

5.

khoa học xã hội, 2004.
Bộ luật Hồng Đức, di sản văn hóa pháp lí đặc sắc của Việt Nam – Lê Đức

6.

Tiết – Nhà xuất bản tư pháp, Hà Nội – 2010.
Nguyễn Phương Lan, “Quyền sở hữu tài sản của phụ nữ trong bộ luật hồng

7.

Đức”,Tạp chí Luật học, số 3/2003.

Đỗ Đức Hồng Hà, “Một số giá trị về nội dung của bộ luật Hồng Đức”, Tạp

8.

chí nhà nước và pháp luật, số 6/2005.
Phan Hữu Thư, “Các vấn đề dân sự trong quốc triều hình luật”, Tạp chí Luật
học, số 1/1996.

6



×