Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.93 KB, 31 trang )

I.Tổng quan về mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia.
Ngày nay, khi quá trình toàn cầu hóa và khu vực diễn ra mạnh mẽ thì các quốc gia
không còn là các ốc đảo riêng biệt mà gắn bó với nhau ngày càng chặt chẽ thông qua vô
vàn các mối liên kết khác nhau từ kinh tế chính trị đến văn hóa giáo dục,…. Không một
quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập mà không có quan hệ với các
quốc gia khác. Trong mạng lưới liên kết này quyết định và hành động của một quốc gia,
ngay cả khi chúng chỉ mang tính chất nội bộ cũng tạo ra các hậu quả trực tiếp hoặc gián
tiếp đến quốc gia khác và cộng đồng quốc tế. Nói cách khác quan hệ hợp tác quốc tế
không chỉ là nhu cầu nội tại thiết thực của bản thân mỗi quốc gia nhằm thúc đẩy mạnh
mẽ sự phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi nước, mà còn là trách nhiệm - nghĩa vụ của các
quốc gia xét dưới góc độ pháp luật quốc tế.
Luật quốc tế là một hệ thống pháp luật độc lập bao gồm các quy phạm pháp luật
điều chỉnh các quan hệ quốc tế do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế xây
dựng trên cơ sở tự nguyện bình đẳng đấu tranh thương lượng, luật quốc tế được đảm bảo
thực hiện bằng cưỡng chế riêng lẻ hoặc cưỡng chế tập thể hoặc thông qua dư luận tiến bộ
thế giới.
Luật quốc gia là hệ thống các quy phạm pháp luật có mối liên hệ nội tại thống nhất
với nhau được phân định thành các chế định pháp luật, các ngành luật và được thể hiện
trong các văn bản do nhà nước ban hành theo những trình tự thủ tục và hình thức nhất
định.
Giữa luật quốc tế và luật quốc gia có mối quan hệ biện chứng. Mối quan hệ giữa
luật quốc gia và luật quốc tế là vấn đề lí luận truyền thống của luật quốc tế nhưng vẫn
đồng thời mang tính thời sự sâu sắc đối với mỗi quốc gia trong quá trình xây dựng hoàn
thiện và phát triển pháp luật.
Luật quốc gia có ảnh hưởng mang tính quyết định đến sự hình thành và phát triển
của luật quốc tế. Bản chất của quá trình xây dựng các quy phạm pháp luật quốc tế mà các
quốc gia tiến hành thông qua phương thức thỏa thuận chính là quá trình đưa ý chí quốc
gia vào nội dung của luật quốc tế. Ngoài ra trong lịch sử hình thành và phát triển của luật
quốc tế nhiều quy phạm của luật nhân đạo quốc tế, luật ngoại giao, lãnh sự hay nhiều

1




nguyên tắc của luật quốc tế có nguồn gốc xuất phát từ quan điểm, quan niệm của luật
quốc gia.
Luật quốc tế có tác động tích cực nhằm phát triển và hoàn thiện luật quốc gia.
Tính chất tác động của luật quốc tế đối với luật quốc gia được đánh giá bằng thực tiễn
thực thi nghĩa vụ thành viên điều ước quốc tế, tổ chức quốc tế của quốc gia, thể hiện ở
những hoạt động cụ thể. Bên cạnh đó, luật quốc tế còn tác động đến luật quốc gia thông
qua vai trò của hệ thống này đối với đời sống pháp lý tại mỗi quốc gia,phản ánh tương
quan giữa hai hệ thống khi điều chỉnh những vấn đề thuộc lợi ích phát triển và hợp tác
quốc tế của quốc gia.
Hiện nay, việc vận dụng lí luận khoa học pháp lí hiện đại về mối quan hệ giữa luật
quốc gia và luật quốc tế vào thực tiển pháp lí của mỗi quốc gia không có sự đồng nhất về
cách tiếp cận.
Ở Việt Nam, vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế
thông qua giải quyết mối quan hệ giữa điều ước quốc tế hiện đang có hiệu lực với Việt
Nam và pháp luật Việt Nam cũng đang là vấn đề thời sự. Trong bối cảnh của công cuộc
cải cách, mở cửa tại Việt Nam điều ước quốc tế trở thành công cụ pháp lý chủ yếu, điều
chỉnh hiệu quả quan hệ hợp tác quốc tế toàn diện của Việt Nam với các quốc gia và tổ
chức quốc tế.
Từ khi tiến hành đổi mới đến nay, trải qua hơn 20 năm, nước ta ngày càng hội
nhập sâu rộng vào các hoạt động kinh tế, văn hóa , chính trị quốc tế. Trong quá trình đó,
chúng ta đã kí kết nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương. Đặc biệt, với sự
kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới
WTO ngày 07/11/2006, đã có sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia ký kết, gia nhập. Do vậy, trách nhiệm của chúng ta là phải làm sao
đảm bảo để các điều ước quốc tế được thực thi một cách tốt nhất. Muốn vậy, trước hết
cần phải tạo sự hài hòa giữa nội luật với luật pháp quốc tế, điều đó có nghĩa là ta phải làm
rõ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa hai phạm trù pháp luật này. Đây là một trong những
đề tài gây ra nhiều tranh luận nhất trong giới luật gia Việt Nam hiện nay. Những vấn đề

thường được đặt ra đó là: 1) Luật quốc gia và luật quốc tế nằm trong cùng một hệ thống

2


pháp luật hay đó là hai hệ thống pháp luật độc lập; 2) Vị trí của các điều ước quốc tế
trong hệ thống pháp luật Việt; 3) Vấn đề về chuyển hóa và thực thi điều ước quốc tế ở
Việt Nam hiện nay…
II. Mối quan hệ giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
1.

So sánh pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.

Luật quốc tế hiện đại là tổng thể những quy tắc những quy phạm pháp luật quốc tế
do các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế xây dựng trên cơ sở tự nguyện và
bình đẳng thông qua đấu tranh và thương lượng nhằm điều chỉnh mối quan hệ nhiều mặt (
chủ yếu là quan hệ chính trị) giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau ( trước tiên và chủ
yếu giữa các quốc gia ) trong những trường hợp cần thiết luật quốc tế được đảm bảo thi
hành bằng những biện pháp cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể do các chủ thể luật quốc tế
thi hành hoặc bằng sức mạnh đấu tranh của nhân dân cùng dư luận tiến bộ thế giới.
Về đối tượng điều chỉnh pháp luật quốc gia điều chỉnh những quan hệ xã hội phát
sinh trong nội bộ phạm vi lãnh thổ, còn pháp luật quốc tế điều chỉnh những quan hệ xã
hội phát sinh trong đời sống sinh hoạt quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế
Về chủ thể: chủ thể luật quốc gia là thể nhân, pháp nhân và nhà nước tham gia với
tư cách là chủ thể đặc biệt khi nhà nước là một bên trong quan hệ, còn chủ thể của pháp
luật quốc tế là các quốc gia có chủ quyền, các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, các
tổ chức liên chính phủ và các chủ thể khác.
Về trình tự xậy dựng pháp luật: việc xây dựng pháp luật và trình tự xây dựng pháp
luật của pháp luật quốc gia do cơ quan lập pháp thực hiện còn xây dựng và trình tự xây
dựng pháp luật quốc tế do không có cơ quan lập pháp nên khi xây dựng các quy phạm

thành văn, bất thành văn chủ yếu do sự thỏa thuận giữa các chủ thể có chủ quyền quốc
gia của luật quốc tế.
Về biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật: quốc gia có bộ máy cưỡng chế tập trung
thường trực như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù… làm biện pháp bảo đảm thi hành, còn
pháp luật quốc tế thì không có bộ máy cưỡng chế tập trung mà chỉ có một số biện pháp
cưỡng chế nhất định mang tính tự cưỡng chế riêng lẻ hoặc tập thể.

3


Về phương pháp điều chỉnh các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc gia có
nhiều phương pháp điều chỉnh khác nhau còn các ngành luật trong hệ thống pháp luật
quốc tế thì chỉ có một phương pháp điều chỉnh là sự thỏa thuận.
2.Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế
Quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia và việc áp dụng điều
ước quốc tế (chấp nhận hay chuyển hoá - nội luật hoá, các quy phạm điều ước quốc tế)
thực chất phản ánh nội hàm của mối quan hệ giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Vấn đề
này luôn là mối quan tâm hàng đầu của lý luận và thực tiễn của khoa học pháp lý quốc tế
cũng như pháp luật quốc gia từ trước đến nay, và đang đặt ra hàng loạt vấn đề bức thiết
đòi hỏi có sự luận giải vừa mang tính khoa học, vừa mang tính chính trị pháp lý, vừa góp
phần bảo vệ chủ quyền quốc gia, nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản sau đây: Thứ nhất,
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia có phải là hai bộ phận cấu thành của cùng một hệ
thống pháp luật thống nhất hay không, hay chúng là các hệ thống pháp luật khác nhau;
các quy phạm điều ước quốc tế có vị trí như thế nào trong mối tương quan so sánh với
các quy phạm pháp luật quốc gia?. Thứ hai, việc áp dụng điều ước quốc tế được thực thi
bằng phương thức nào, nói một cách khác, điều ước quốc tế sau khi đã được hoàn tất các
thủ tục ký kết, sẽ được áp dụng trực tiếp hay phải thông qua một thủ tục chuyển hóa bằng
việc sửa đổi hoặc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia?. Việc giải quyết
một cách triệt để các vấn đề nêu trên sẽ đặt nền móng cho những luận cứ khoa học vô
cùng quý báu, nhằm xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật quốc tế - đặc biệt là

cơ chế thực thi các điều ước quốc tế theo nguyên tắc pacta sunt servanda; bảo vệ tối đa
lợi ích dân tộc, bảo vệ triệt để chủ quyền và an ninh quốc gia trong điều kiện hội nhập và
toàn cầu hoá.
2.1. Quan hệ thứ bậc giữa Điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia
Sự tương quan giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia, cũng như mối quan
hệ và tác động qua lại giữa chúng là vấn đề trung tâm không những của khoa học pháp lý
quốc tế, mà còn là đối tượng nghiên cứu lâu nay của khoa học luật hiến pháp, khoa học lý
luận chung về Nhà nước và pháp luật, và vẫn là chủ đề của các cuộc tranh luận mà cho
đến nay vẫn tiếp tục diễn ra trong nhiều lĩnh vực của khoa học pháp lý và chưa đến hồi

4


kết thúc. Tiêu điểm của các cuộc tranh luận này đều tập trung vào việc giải quyết các vấn
đề cơ bản như: pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là một hay là hai hệ thống pháp
luật độc lập với nhau; nếu là hai thì hệ thống pháp luật nào có vị trí ưu tiên hơn; mối quan
hệ giữa chúng được biểu hiện như thế nàov.v... Tuy nhiên, các quan điểm được đưa ra đều
dựa trên hai học thuyết cơ bản: Chủ nghĩa nhất nguyên luận (Moniste) và Chủ nghĩa nhị
nguyên luận (Dualiste). Vì vậy, hai học thuyết này có xuất phát điểm dường như trái
ngược nhau. Học thuyết thứ nhất coi pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ
thống tách biệt hoàn toàn với nhau và chỉ có mối liên hệ với nhau ở một mức độ nhất
định mà thôi (chủ nghĩa nhị nguyên); còn học thuyết thứ hai thì cho rằng, pháp luật quốc
tế và pháp luật quốc gia là hai bộ phận cấu thành của một hệ thống thống nhất (chủ nghĩa
nhất nguyên).
2. 1.1. Chủ nghĩa nhất nguyên (hay còn gọi là chủ nghĩa nhất hệ - Moniste)
Đại diện cho học thuyết này là H.Kelsel, A.Verdross, A.Zorn, A.Lasson, B.Kunz.
Học thuyết nhất nguyên quan niệm pháp luật là một hệ thống thống nhất. Cội nguồn sâu
xa, xét về mặt lịch sử tư tưởng của học thuyết này, trước hết là dựa vào quan điểm của
học thuyết pháp luật tự nhiên. Trên cơ sở quan niệm cho rằng bản chất tốt đẹp của con
người là do năng lượng của thiên nhiên mang lại nên không thể được xác định khác

nhau, do đó mọi xung đột được loại trừ.
Học thuyết nhất nguyên đưa ra hai khả năng xác định mối quan hệ giữa luật quốc
tế và luật quốc gia tuỳ theo vị trí ưu tiên của chúng. Một khả năng coi pháp luật quốc tế
có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất nguyên với sự ưu tiên của pháp luật quốc tế) và khả
năng thứ hai là pháp luật của quốc gia có vị trí ưu tiên hơn (chủ nghĩa nhất nguyên với sự
ưu tiên của pháp luật quốc gia).
a. Ưu tiên pháp luật quốc gia
Học thuyết về sự ưu tiên của pháp luật quốc gia đặt chủ quyền của quốc gia lên
trên hết. Pháp luật quốc tế chỉ có giá trị áp dụng, nếu một quốc gia tự công nhận là nó có
giá trị hiệu lực đối với mình.
Trong mối tương quan với pháp luật của quốc gia, pháp luật quốc tế lúc này không
còn giá trị độc lập nữa, mà chỉ được coi là một bộ phận cấu thành của pháp luật quốc gia,

5


hoặc chỉ đơn thuần là “pháp luật của quốc gia trong quan hệ đối ngoại”. Học thuyết này
dần dần bị bác bỏ trong khoa học pháp lý quốc tế hiện đại do có sự xuất hiện của các
quan điểm trong pháp luật quốc tế về “chủ quyền có hạn chế” của quốc gia.
b. Ưu tiên pháp luật quốc tế
Chủ nghĩa nhất nguyên luận sau này dựa trên quan điểm cho rằng, Luật quốc tế có
trước Luật quốc gia. Do đó, Luật quốc tế có vị trí ưu tiên hơn Luật quốc gia. Nếu căn cứ
vào quan điểm này thì sẽ loại trừ khả năng xung đột giữa Luật quốc tế và Luật quốc gia
(trong trường hợp pháp luật quốc gia trái với pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc gia sẽ
bị coi là vô hiệu). Quan điểm này khó được chấp nhận vì mâu thuẫn với các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật các nước và vi phạm thô bạo nguyên tắc chủ quyền quốc gia.
c. Chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà
Trên cơ sở các luận điểm của hai trường phái của chủ nghĩa nhất nguyên nói trên,
đã xuất hiện chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà.Trường phái này đã được thừa nhận rộng
rãi trong khoa học pháp lý quốc tế. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế

có vị trí cao hơn pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, học thuyết này công nhận có khả năng
xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Và để giải quyết xung đột, các
quốc gia, do chịu ảnh hưởng của sự ràng buộc của pháp luật quốc tế, cần phải huỷ bỏ các
văn bản pháp luật của quốc gia mình trái với pháp luật quốc tế. Còn các văn bản pháp
luật quốc gia tạm thời có vị trí thấp hơn so với pháp luật quốc tế .Vì thế, để thực hiện các
cam kết quốc tế, quốc gia cần phải xây dựng các văn bản pháp luật trong nước cho phù
hợp với pháp luật quốc tế. Trong trường hợp có sự xung đột giữa pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế thì pháp luật quốc tế được ưu tiên áp dụng.
Cộng hoà Pháp là một trong những quốc gia điển hình công nhận chủ nghĩa nhất
nguyên: Coi quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) có vị trí ưu thế hơn so với
pháp luật quốc gia. Điều 55 Hiến pháp ngày 4/10/1958 của Cộng hoà Pháp tại Mục 6 về
Điều ước quốc tế đã quy định: “Các điều ước quốc tế đã được phê chuẩn hoặc phê duyệt
theo đúng quy định, có hiệu lực cao hơn luật, kể từ ngày công bố, với điều kiện điều ước
quốc tế đó cũng được bên kia thực hiện”. Các Điều từ 52 đến 55 cũng đã phản ánh học
thuyết nhất nguyên luận trong Hiến pháp của nước Pháp: pháp luật trong nước và pháp

6


luật quốc tế là một hệ thống pháp luật thống nhất, trong đó luật quốc tế chiếm ưu thế so
với pháp luật quốc gia. Tuy vậy, nguyên tắc cơ bản này cũng có một số giới hạn trong quá
trình áp dụng tại Cộng hoà Pháp. Trong trật tự các quy phạm pháp luật, điều ước quốc tế
có vị trí dưới Hiến pháp, nhưng lại có giá trị cao hơn các văn bản quy phạm pháp luật
khác. Pháp luật Hoa kỳ cũng có quy định tương tự, cũng áp dụng chủ nghĩa nhất nguyên
như ở Pháp. Ví dụ, Điều 6 Hiến pháp Hoa kỳ quy định: “Hiến pháp này, các đạo luật của
Hoa kỳ được ban hành theo Hiến pháp này, mọi điều ước đã hoặc sẽ được ký kết dưới
thẩm quyền của Hoa kỳ sẽ là luật tối cao của quốc gia. Quan toà ở các bang đều phải tuân
theo những luật này...” . Mặc dù vấn đề vị trí của điều ước quốc tế trong mối quan hệ với
Luật pháp Thuỵ Sỹ vẫn còn đang được tranh luận trong khoa học cũng như trong thực
tiễn, nhưng hiện có một xu hướng nổi trội ở nước này, đó là: đặt cả điều ước quốc tế và

tập quán quốc tế ở vị trí trên các đạo luật Liên bang hoặc thậm chí còn xếp ngang hàng
với Hiến pháp. Còn tại Hà Lan, Hiến pháp của Hà Lan năm 1953 (được sửa đổi năm
1956) thậm chí còn cho phép các điều ước quốc tế được các cơ quan có thẩm quyền của
Hà Lan ký kết có thể thay đổi và bác bỏ một cách hợp pháp các quy định của bản thân
Hiến pháp.
2.1.2. Chủ nghĩa nhị nguyên (chủ nghĩa lưỡng hệ - Dualiste)
Đại diện xuất sắc cho trường phái này là H. Triepel, D.A. Anzilotti, H.
Lauterpacht, L. Ehrlich. Trái ngược với chủ nghĩa nhất nguyên coi pháp luật quốc tế và
pháp luật quốc gia là hai bộ phận của một hệ thống thống nhất, chủ nghĩa nhị nguyên coi
pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế là hai hệ thống pháp luật hoàn toàn độc lập với
nhau, mặc dù có những lĩnh vực có thể đan xen lẫn nhau, nhưng không phải là một. Chủ
nghĩa nhị nguyên xuất phát từ chỗ cho rằng thẩm quyền, nguồn luật và đối tượng áp dụng
của các quy phạm pháp luật của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia hoàn toàn khác
nhau. Pháp luật quốc gia điều chỉnh quan hệ giữa công dân với nhau và công dân với nhà
nước; pháp luật quốc tế điều chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế với nhau, do đó, chỉ áp dụng cho các quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế,
còn pháp luật quốc gia chỉ áp dụng cho các chủ thể trong nước. Học thuyết nhị nguyên lại

7


được phân chia thành hai trường phái, đó là trường phái nhị nguyên cực đoan và trường
phái nhị nguyên dung hoà.
a. Chủ nghĩa nhị nguyên cực đoan
Chủ nghĩa nhị nguyên cực đoan dựa trên sự tách biệt hoàn toàn hai hệ thống pháp
luật: pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Do vậy, theo trường phái này không có
xung đột giữa hai hệ thống pháp luật trên. Nếu một văn bản pháp luật của quốc gia (luật,
pháp lệnh, nghị định) trái với pháp luật quốc tế (điều ước quốc tế) thì cả pháp luật quốc tế
lẫn pháp luật quốc gia đều có hiệu lực như nhau. Tuy nhiên, quốc gia có nghĩa vụ hoàn
thiện pháp luật trong nước của mình để có thể thực hiện được pháp luật quốc tế (thực thi

các điều ước quốc tế). Như vậy, ở một mức độ nhất định, học thuyết này đã đặt pháp luật
quốc tế (điều ước quốc tế) ở một vị trí ưu tiên hơn so với pháp luật quốc gia.
b. Chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hoà
Chủ nghĩa nhị nguyên luận dung hoà xuất phát từ chỗ tách biệt về cơ bản hai hệ
thống pháp luật - pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia - nhưng không phủ nhận khả
năng xung đột giữa hai hệ thống đó. Xung đột giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc
gia không chỉ được giải quyết theo cách của chủ nghĩa nhất nguyên, với một trật tự trên
dưới của hai bộ phận pháp luật. Cả hai hệ thống được xem như là hai vòng tròn có phần
giao nhau. Vùng giao nhau này xuất hiện thông qua các quy định dựa vào nhau, dẫn chiếu
đến nhau hoặc sự chuyển hoá các quy phạm từ hệ thống pháp luật này sang hệ thống
pháp luật khác. Hệ quả là pháp luật quốc tế chiếm ưu thế nổi trội so với pháp luật quốc
gia. Cũng theo trường phái này, sự chuyển hoá của quy phạm pháp luật quốc tế (điều ước
quốc tế) vào pháp luật quốc gia đòi hỏi phải có một văn bản chính thống của cơ quan có
thẩm quyền của Nhà nước. Và văn bản này sẽ tạo ra khả năng mở cửa lĩnh vực chủ quyền
quốc gia đối với pháp luật quốc tế. Học thuyết này hiện nay đang được một số nước như
CHLB Đức, Italia, Hà Lan, Vương quốc Anh áp dụng. Xu hướng này đã được phản ánh
khá rõ nét trong Công ước Viên năm 1969 của Liên Hợp Quốc về Luật điều ước quốc tế.
Điều 27 Công ước này quy định: “Một bên không thể viện những quy định của pháp luật
trong nước của mình làm lý do để không thi hành luật điều ước”.

8


Tóm lại, chủ nghĩa nhất nguyên dung hoà và chủ nghĩa nhị nguyên dung hoà đã có
những bước phát triển mới và đã xích lại gần nhau. Theo hai học thuyết này, pháp luật
quốc tế có vị trí ưu tiên trên thực tế, và pháp luật trong nước mặc dù có trái với pháp luật
quốc tế, nhưng vẫn còn hiệu lực. Điểm khác biệt duy nhất giữa hai học thuyết này là vị trí
độc lập hoặc vị trí trên dưới của hai hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
3. Về mối quan hệ giữa điều ước của CHXHCN Việt Nam và pháp luật
Việt Nam

Cho tới nay nước ta đã ký được hơn 1000 điều ước quốc tế song phương và là
thành viên của gần 200 điều ước quốc tế đa phương. Ngày 10/10/2001 Việt Nam đã trở
thành thành viên chính thức của Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế. Điều 26
Phần III Công ước Viên về Luật Điều ước năm 1969 quy định nguyên tắc Pacta sunt
servanda như sau: “Mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên tham gia điều ước
và phải được các bên thi hành với thiện ý”. Đồng thời, Công ước Viên cũng đã xác định
mối quan hệ giữa pháp luật trong nước và việc tôn trọng các điều ước quốc tế mà quốc
gia đã cam kết, như sau: “Một bên kết ước không thể viện những quy định của pháp luật
trong nước của mình làm lý do để không thi hành một điều ước mà mình đã cam kết”
(Điều 27 - Công ước Viên) . Việt Nam cũng đã ban hành Pháp lệnh về ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế. Điều 24, Pháp lệnh Ký kết và thực hiện điều ước quốc tế năm 1998 của
Việt Nam cũng đã quy định nguyên tắc tuân thủ điều ước quốc tế (Pacta sunt servanda)
như sau: “Nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nghiêm chỉnh tuân thủ điều ước
quốc tế mà mình đã ký kết là thành viên của Công ước Viên 1969, Việt Nam cam kết thực
thi những “điều ước quốc tế được ký kết trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có
lợi, phù hợp với những nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và các quy định của Hiến
pháp nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (Khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh về ký kết
và thực hiện các điều ước quốc tế). Nhìn tổng thể vị trí của điều ước quốc tế trong hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam đều được ghi nhận bằng một
công thức chung nhất đó là: trong trường hợp điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam
ký kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của luật (Bộ luật, Pháp lệnh, Nghị

9


định) này, thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế ( Khoản 2, Điều 795, Bộ luật
Dân sự năm 2005; Điều 3, Luật các Tổ chức tín dụng năm 1997; Khoản 2, Điều 7 Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000; Khoản 2, Điều 2 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000;
Điều 5 Luật Hải quan năm 2001; Điều 5, Luật Thương mại năm 2005; Điều 8, Pháp lệnh

Trọng tài Thương mại năm 2003 v.v...). Như vậy, Việt Nam đã chấp nhận quan điểm về
giá trị ưu thế của điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia so với pháp luật
trong nước và coi điều ước quốc tế là một bộ phận cấu thành của pháp luật Việt Nam, và
về phương diện hiệu lực thi hành, điều ước quốc tế giữ vị trí thứ hai sau các quy định của
hiến pháp và trước các quy định của bộ luật. Tuy vậy, việc xác định vị trí cụ thể của điều
ước quốc tế trong pháp luật trong nước là chưa được quy định một cách rõ ràng.
Về việc (cách thức) áp dụng các quy phạm điều ước quốc tế, cho đến nay pháp
luật Việt Nam cũng chưa có quy định cụ thể. Vì vậy, việc quy định áp dụng điều ước
quốc tế, trường hợp nào thì áp dụng trực tiếp, trường hợp nào phải thông qua thủ tục
chuyển hoá bằng việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong nước, cần phải
được quy định rõ và cần có cách tiếp cận linh hoạt, mềm dẻo. Nên chăng chỉ chuyển hoá
những điều ước quốc tế có nội dung quá phức tạp hoặc chỉ quy định các nguyên tắc
chung, còn các điều ước quốc tế có các nội dung quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết thì nên
áp dụng trực tiếp mà không cần phải thông qua thủ tục chuyển hoá nhằm giảm bớt gánh
nặng của công tác lập pháp, lập quy của Nhà nước vốn đã rất đồ sộ hiện nay.
Tóm lại, về vị trí của quy phạm điều ước quốc tế, cũng như phương thức áp dụng
điều ước quốc tế cần phải được quy định rõ ràng và chặt chẽ trong đạo luật cao nhất của
Nhà nước ta - Hiến pháp, và đạo luật chuyên ngành - Pháp lệnh về ký kết và thực hiện
điều ước quốc tế. Như vậy, một đòi hỏi cấp bách và không thể trì hoãn là cần tiến hành
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và Pháp lệnh về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế
năm 1998 của Nhà nước ta. Làm được điều đó, là góp phần tạo lập một hành lang pháp lý
cần thiết, làm bệ đỡ cho công cuộc hội nhập một cách sâu sắc và toàn diện của Việt Nam
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, bảo vệ lợi ích và chủ quyền quốc gia trên cơ sở các
nguyên tắc của pháp luật và tập quán quốc tế hiện đại.
4. Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam

10


Mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế ở Việt Nam được quy định tại Luật

số 41/2005/QH11 về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Quốc hội thông qua
ngày 14/6/2005, Chủ tịch nước công bố ngày 24/6/2005 và Luật có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2006) và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (ban hành ngày 12/11/1996,
được sửa đổi, bổ sung ngày 16/12/2002).
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 là văn bản luật điều
chỉnh một cách tổng thể các vấn đề liên quan đến công tác điều ước quốc tế của Việt
Nam. Liên quan đến mối quan hệ giữa luật quốc gia và luật quốc tế, Luật quy định về
nguyên tắc, thứ bậc cũng như việc áp dụng điều ước quốc tế.
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật tuy chủ yếu điều chỉnh việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật trong nước, tuy nhiên cũng quy định việc soạn thảo văn bản
quy phạm pháp luật phải cân nhắc, tính toán đến các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết hoặc gia nhập.
4.1. Vị trí của điều ước quốc tế
Hiện nay, pháp luật Việt Nam chưa quy định rõ ràng về việc điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có vị trí như thế nào trong hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật trong nước. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập
và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật
và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định
khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế (Khoản 1). Do
đó, các quy định của các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia sẽ được
thực thi kể cả trong trường hợp pháp luật Việt Nam còn chưa quy định đầy đủ.. Từ quy
định này, có quan điểm cho rằng điều ước quốc tế có vị trí sau Hiến pháp, trên các văn
bản luật, pháp lệnh.
Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005
Điều 6. Điều ước quốc tế và quy định của pháp luật trong nước

11


1. Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà

Cộng hoàxã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một
vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế.
2. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở
việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có
quy định về cùng một vấn đề.
3. Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ
tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng
thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết
để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.
Bên cạnh đó, năm 2001 Việt Nam cũng đã gia nhập Công ước Viên năm 1969 về
Luật điều ước. Điều 26 Công ước Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 quy định
nguyên tắc Pacta sunt servand quy định "mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các
bên tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý". Nguyên tắc này đã
được chuyển hoá vào quy định của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
năm 2005: "Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuân thủ điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên" (Khoản 6 - Điều 3).
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng đều thấy rõ giá trị ưu
thế của điều ước quốc tế, chẳng hạn:
+ Theo Khoản 2 Điều 759 Bộ luật dân sự năm 2005 "trong trường hợp điều ước
quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định
khác với quy định của Bộ luật này, thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó ".
+ Theo Khoản 2 Điều 2 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em "trong trường
hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có
quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó.".
+ Theo Điều 3 Luật di sản văn hoá: "Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân
Việt Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài đang

12



hoạt động tại Việt Nam; trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì áp dụng quy định của điều ước
quốc tế đó.
Có thể thấy rõ công thức chung được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành của Việt Nam là nếu pháp luật trong nước (từ luật trở xuống) có quy định
khác hoặc trái với điều ước quốc tế về quyền con người mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam gia nhập, thì điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng. Từ đó cho thấy, điều
ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập có giá trị
pháp lý ưu tiên hơn so với pháp luật trong nước.
4.2. Áp dụng điều ước quốc tế
Khoản 3 Điều 6 của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm
2005 quy định Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng
buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần
điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều
ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung,
bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước để thực hiện điều ước quốc
tế đó. Quy định này thể hiện Việt Nam chấp nhận cả hai phương pháp thực hiện điều ước
quốc tế: áp dụng trực tiếp và chuyển hoá điều ước vào văn bản quy phạm pháp luật quốc
nội.
Một ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày
29 tháng 11 năm 2006 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ
chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong
đó quyết định : "2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính
kèm Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới
được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo của
Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp với quy định của
Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm


13


thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư
và các tài liệu đính kèm."
4.3. Trình tự thực hiện điều ước quốc tế.
Khi đề cập đến trình tự thực hiện điều ước quốc tế, vấn đề quan trọng đặt ra đối
với Việt Nam là làm cách nào để bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ phát sinh từ điều
ước. Trên cơ sở quy định tại Chương VI của Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước
quốc tế năm 2005, có thể nêu lên một số nội dung quan trọng sau đây liên quan đến trình
tự thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam, phù hợp với nguyên tắcPacta sunt
servanda như sau:
- Kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế. Theo quy định tại Điều 71 Luật ký kết, gia
nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế bao
gồm những nội dung sau đây: Lộ trình thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến phân công
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế;
Kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực
hiện điều ước quốc tế; Các biện pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần
thiết khác để thực hiện điều ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế.
Việc thực hiện các điều ước quốc tế, trước hết phải xuất phát từ đặc điểm tình
hình, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển. Do đó, các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền phải đề ra tiến trình, các biện pháp tổ chức thực hiện điều ước
trong từng giai đoạn, phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng thời, phải hoàn
thiện cơ chế quản lý việc thực hiện điều ước, quản lý nguồn tài chính, kể cả những đóng
góp, tài trợ quốc tế cho việc thực hiện điều ước quốc tế cũng phải được vạch ra một cách
cụ thể.
- Xác định cơ quan có trách nhiệm thực hiện điều ước quốc tế. Nghĩa vụ thực hiện
các điều ước quốc tế về quyền con người, trước hết là thuộc về Nhà nước. Nhưng trong
bộ máy nhà nước, nghĩa vụ này chủ yếu thuộc về các Bộ, ngành, cơ quan trung ương và

chính quyền địa phương các cấp. Trong phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn của mình, các
Bộ, ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và biện pháp bảo
đảm khả thi các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế. Việc thực hiện từng

14


loại điều ước lại phụ thuộc vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi Bộ, ngành. Trong trường
hợp phát sinh khó khăn, bất cập, các Bộ, ngành, cơ quan trung ương cần phối hợp với Bộ
Ngoại giao kiến nghị Chính phủ những biện pháp cần thiết để khắc phục, nhằm bảo đảm
việc thực hiện nghĩa vụ quốc tế phát sinh trên cơ sở điều ước. Đồng thời, hàng năm và
khi có yêu cầu, các Bộ, ngành có trách nhiệm phối hợp với Bộ Ngoại giao báo cáo Chính
phủ, Chủ tịch nước về tình hình thực hiện điều ước quốc tế rong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ của ngành. Nghĩa vụ phối hợp thực hiện điều ước quốc tế đòi hỏi chung đối với
tất cả các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước ở trung ương và các cấp chính quyền địa phương;
không một Bộ, ngành hoặc cơ quan nhà nước nào có thể đứng ngoài nghĩa vụ này.
Qua phân tích pháp luật Việt Nam, có thể kết luận các điều ước quốc tế đã được
Việt Nam ký kết và gia nhập thì có hiệu lực pháp lý bắt buộc và được nhà nước đảm bảo
thực hiện ngay cả trong trường hợp điều ước quốc tế đó có quy định trái với quy định của
pháp luật trong nước. Bằng việc “nội luật hoá” các quy định của điều ước quốc tế, thì ở
những mức độ khác nhau, đã có thể coi các quy định của điều ước quốc tế đó là một bộ
phận cấu thành của pháp luật trong nước. Chính vì thế, điều ước quốc tế giữ vị trí đặc biệt
trong hệ thống các quy phạm pháp luật quốc gia của Việt Nam.
II) Vấn đề nội luật hóa (chuyển hóa)
1.Cơ sở pháp lý và thực tiễn
Để đi đến ký kết một điều ước quốc tế, Bộ Tư pháp đã phải tiến hành một quy
trình thẩm định kỹ lưỡng về tính hợp hiến, mức độ tương thích các quy định pháp luật
trong nước… Nhưng khi nội dung của điều ước được thi hành trong thực tiễn thì hoàn
toàn vẫn có thể xảy ra mâu thuẫn giữa quy định của hai hệ thống pháp luật quốc gia và
quốc tế. Thực tế này có thể là do tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung

không thống nhất với văn bản được hướng dẫn dẫn đến làm vô hiệu hóa luật. Thực trạng
này thậm chí còn xảy ra ở cả các văn bản pháp luật trong nước. Nguyên nhân thứ hai có
thể dẫn ra ở đây đó là trong quá trình giải thích luật mới phát hiện ra các mâu thuẫn có
thể có nhưng chưa phát hiện được trong quá trình thẩm tra, phê duyệt.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có nguy cơ phải đối mặt
với các ĐƯQT có nội dung trái Hiến pháp. Mà theo quy định của pháp luật Việt Nam thì

15


nội dung ĐƯQT mà Việt Nam ký kết phải “phù hợp với các quy định của Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam ”. Theo đó, có thể hiểu, pháp luật Việt Nam không chấp nhận
những điều khoản trong các điều ước có nội dung trái với Hiến pháp. Điều này xét về một
phương diện nào đó hoàn toàn không có lợi cho các quan hệ ngoại giao của Việt Nam .
Như vậy đòi hỏi chúng ta cần phải có cách xử lí khéo kéo cho vấn đề này để đảm bảo
được các quyền tự chủ và dân tộc tự quyết mà vẫn thể hiện được chủ trương hội nhập
quốc tế “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”
Nghĩa vụ chuyển hoá các quy định của điều ước quốc tế nói chung và điều ước
quốc tế về nhân quyền nói riêng đã được ghi nhận trong bản thân các công ước mà Việt
Nam là thành viên cũng như pháp luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế trong
nước.
Khác với nhiều nước, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
không quy định về việc chuyển hoá điều ước quốc tế mà Việt Nam là một bên ký kết vào
pháp luật trong nước. Tuy nhiên, vấn đề này đã được quy định cụ thể trong Luật ký kết,
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005.
Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005 quy
định: "Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch
nước, Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời
quyết định áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan,

tổ chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, chi tiết để thực
hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó."
2.

Các phương thức nội luật hóa

Việc nội luật hoá (hay chuyển hoá điều ước quốc tế) được thực hiện theo các
phương thức phổ biến sau:
Sửa đổi, bổ sung, ban hành pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện điều ước quốc tế.
Theo quy định tại khoản 10 Điều 14 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế
năm 2005, cơ quan đề xuất ký kết có trách nhiệm kiến nghị về việc áp dụng trực tiếp toàn

16


bộ hoặc một phần điều ước quốc tế hoặc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế.
Như vậy, để thực hiện nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế mà
cần phải sửa đổi, bổ sung pháp luật hiện hành, thì cơ quan đề xuất việc ký kết điều ước
quốc tế phải chủ động phối hợp với Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp kiến nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền thực hiện việc này.
Trong công tác xây dựng pháp luật, theo quy định tại Điều 5 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 2008, một trong những nguyên tắc xây dựng, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật mới là phải "không làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên." Đây cũng là một biện pháp bảo
đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc tế được
tuân thủ nghiêm túc tại Việt Nam
Tiến hành chuyển hoá quy phạm của điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước.
Nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế có liên quan mật thiết đến vấn đề chuyển hoá (nội

luật hoá) các điều ước quốc tế vào pháp luật trong nước. Mục đích cơ bản của vấn đề
chuyển hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam khẳng định thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ phát
sinh từ điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Trong bộ máy nhà nước,
Chính phủ có trách nhiệm chỉ đạo các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc thực hiện điều ước quốc tế mà
CHXHCN Việt Nam là một bên ký kết. Như vậy, nhận thức về nghĩa vụ thực hiện điều
ước quốc tế đã đạt được sự thống nhất cao, được thể chế hoá thành pháp luật, tạo cơ sở
thuận lợi cho việc chỉ đạo của Chính phủ và việc thực hiện của các cơ quan nhà nước.
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, Nhà nước của mỗi quốc
gia là thành viên của ĐƯQT đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức thực thi
các điều khoản của ĐƯQT trong phạm vi quyền lực pháp lý của mình. Hành vi này được
các chuyên gia về luật quốc tế gọi là “chuyển hóa ĐƯQT vào luật quốc gia” (với các tên
gọi khác nhau: “incorporation”, “transformation”, “reception”). Thực tế thực thi ĐƯQT

17


tại các quốc gia hiện nay thường tồn tại hai cách thức chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật
quốc gia: chuyển hóa trực tiếp và chuyển hóa gián tiếp.
Trong pháp luật Việt Nam, tại Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
ĐƯQT 2005 có quy định:
“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp
dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị
sửa đổi,bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT
đó.”
Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách thức áp dụng
ĐƯQT vào thực tiễn pháp luật đó là: áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp.

2.1

Áp dụng trực tiếp

Áp dụng trực tiếp có nghĩa là khi ĐƯQT đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá
nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công
dân hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của ĐƯQT đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình.
Đây là cách thức thực thi ĐƯQT được áp dụng rộng rãi trong pháp luật các nước
trên thế giới từ giữa thế kỉ XX. Nhưng cho đến nay hãy còn khá mới mẻ đối với pháp luật
Việt Nam. Sở dĩ như vậy bởi lâu nay tâm lí chung của cả các cơ quan hữu quan và người
dân Việt Nam thường hiểu chưa đúng rằng pháp luật chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành
viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên truyền các ĐƯQT còn chưa thực sự sâu rộng .
Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã có một số quy định của ĐƯQT được áp dụng
trực tiếp vào đời sống pháp luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê
chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam
kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật doanh nghiệp, Luật luật sư, Luật kinh
doanh bảo hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ,
Luật Điện ảnh. Hoặc Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại hiệp định luôn có hiệu lực

18


cao hơn nội luật và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay không có hành vi chuyển hóa
hầu như không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp dụng mức thuế đã cam kết giữa
các quốc gia.
2.2. Áp dụng gián tiếp
Áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để chuyển
hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra khi nội dung

của ĐƯQT chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn pháp luật
hoặc nội dụng điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong Hiến pháp.
Cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu đãi,
miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan
đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt
Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các ĐƯQT khác cũng
đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là từ khi
chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh,
Luật thương mại…có nhiều quy định tương thích với các quy định của Công ước
BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa
với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Nếu như trước kia, việc chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia còn chưa được
quy định cụ thể, thì với việc Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
ĐƯQT năm 2005, vấn đề áp dụng trực tiếp ĐƯQT vào đời sống pháp luật đã chính thức
được thừa nhận. Theo đó, trong trường hợp nội dung của ĐƯQT đã cụ thể, rõ ràng, Nhà
nước sẽ không cần phải thực hiện các thủ tục chuyển hóa ĐƯQT bằng việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém, mà chỉ cần ra quyết
định thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của ĐƯQT đó để nội dung điều ước có
thể đi vào thời kỳ thực hành. Điều này hứa hẹn đem đến những biến chuyển to lớn cho
công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay.

19


3.

Vấn đề nội luật hóa điều ước quốc tế


Cho dù theo cách suy luận của chủ nghĩa nhất nguyên hay theo thiết chế của chủ
nghĩa nhị nguyên, thì các quốc gia đều có nghĩa vụ là làm cho pháp luật quốc gia mình
phù hợp với pháp luật quốc tế. Về vấn đề này hiện nay có hai quan điểm chính, quan
điểm thứ nhất cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp
luật quốc gia mà không cần phải có sự chuyển hoá (nội luật hoá) các điều ước quốc tế
vào pháp luật quốc gia; còn theo quan điểm thứ hai, thì pháp luật quốc tế không áp dụng
trực tiếp trong các lĩnh vực của pháp luật quốc gia; điều ước quốc tế, muốn phát huy hiệu
lực của mình ở trong các nước thì đòi hỏi phải được chuyển hoá vào nội luật, nghĩa là
toàn bộ hoặc một phần nội dung của điều ước đó phải được chuyển đổi dưới các hình
thức văn bản quy phạm pháp luật (phương thức chuyển hoá điều ước quốc tế thường
được quy định trong hiến pháp và các đạo luật quan trọng về điều ước quốc tế của các
quốc gia).
3.1
Học thuyết về chấp nhận.
Học thuyết về sự chấp nhận hiệu lực trực tiếp của quy phạm điều ước quốc tế rất
gần với chủ nghĩa nhất nguyên. Học thuyết này khước từ việc ban hành một văn bản thi
hành của Nhà nước như là cầu nối giữa quy phạm pháp luật quốc tế và sự áp dụng nó ở
trong nước. Theo học thuyết này, các quy phạm pháp luật quốc tế được áp dụng trực tiếp
ở trong nước. Tuy nhiên, các quy phạm này không vì thế mà mất đi tính chất của nó với
tư cách là các quy phạm pháp luật quốc tế. Với sự chấp nhận, các quy phạm điều ước
được công nhận như là pháp luật trong nước.
Trong thực tiễn lập pháp và hành pháp, học thuyết về sự chấp nhận được vận
dụng ở các nước theo hệ thống pháp luật Ănglô Xắc - xông. Nguyên tắc này cũng được
ghi nhận trong Hiến pháp Hoa Kỳ, Hà Lan, Liên bang Thụy Sỹ,….
Theo pháp luật Châu Âu, Toà án Châu Âu đã công bố rằng luật của cộng đồng
chung Châu Âu không chỉ là luật của các nước thành viên, được áp dụng trực tiếp đối với
các Toà án của các nước đó, mà nó còn cao hơn luật pháp của các nước thành viên, vượt
lên trên sự xung đột với luật pháp quốc gia.
3.2

Học thuyết về sự chuyển hoá

20


Trái ngược với học thuyết về sự chấp nhận, học thuyết về sự chuyển hoá thể hiện
rõ tính nhị nguyên luận. Học thuyết này xuất phát từ chỗ cho rằng các quy phạm pháp
luật quốc tế không thể được áp dụng như các quy phạm pháp luật trong nước vì pháp luật
quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống độc lập với nhau. Những quy phạm điều
ước quốc tế muốn được áp dụng trong nước thì phải được chuyển đổi (chuyển hóa) thành
quy phạm pháp luật trong nước. Qua sự chuyển hoá này các quy phạm pháp luật quốc tế
phát huy hiệu lực với căn cứ áp dụng mới, mà theo căn cứ này bên cạnh các quốc gia, các
chủ thể trong nước cũng là đối tượng áp dụng của pháp luật quốc tế. Thông qua việc
chuyển hoá, quy phạm pháp luật quốc tế sẽ được chuyển đổi thành pháp luật trong nước
thông qua một, hoặc một số văn bản thi hành (luật, nghị định). Đối với điều ước quốc tế,
mỗi điều ước sẽ được chuyển hoá thành pháp luật trong nước bằng một văn bản pháp luật
riêng biệt, phù hợp với quy định của pháp luật quốc gia. Về phương diện pháp luật quốc
tế, thì không tồn tại loại văn bản thi hành này ?
Pháp luật nhiều nước bên cạnh việc thừa nhận ưu thế của điều ước quốc tế so với
pháp luật quốc gia, còn quy định rằng, điều ước quốc tế chỉ có hiệu lực ở trong nước chỉ
sau khi có hành vi chuyển đổi (Điều 25, Điều 29, Luật Cơ bản (GG) của CHLB Đức;
Điều 38 - Các nguyên tắc chung về luật của Italia; điều 28 Hiến pháp năm 1975 của Hy
Lạp).
4. Một số vấn đề về thực thi ĐƯQT ở Việt Nam hiện nay
4.1. Cách thức áp dụng nội dung ĐƯQT vào thực tế pháp luật
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế, Nhà nước của mỗi quốc
gia là thành viên của ĐƯQT đều có quyền hạn và trách nhiệm xác định cách thức thực thi
các điều khoản của ĐƯQT trong phạm vi quyền lực pháp lý của mình. Hành vi này được
các chuyên gia về luật quốc tế gọi là “chuyển hóa ĐƯQT vào luật quốc gia” (với các tên
gọi khác nhau: “incorporation”, “transformation”, “reception”). Thực tế thực thi ĐƯQT

tại các quốc gia hiện nay thường tồn tại hai cách thức chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật
quốc gia: chuyển hóa trực tiếp và chuyển hóa gián tiếp.
Trong pháp luật Việt Nam, tại Khoản 3 Điều 6 Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
ĐƯQT 2005 có quy định:

21


“Căn cứ vào yêu cầu, nội dung, tính chất của ĐƯQT, Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của ĐƯQT đồng thời quyết định áp
dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần ĐƯQT đó với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
trường hợp quy định của ĐƯQT đã đủ rõ, chi tiết để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị
sửa đổi,bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện ĐƯQT
đó.”
Từ quy định này có thể thấy pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách thức áp dụng
ĐƯQT vào thực tiễn pháp luật đó là: áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp.
Áp dụng trực tiếp có nghĩa là khi ĐƯQT đã được ký kết và có hiệu lực thì mọi cá
nhân, tổ chức là đối tượng điều chỉnh của điều ước đó đều có nghĩa vụ thi hành và công
dân. hoàn toàn có thể viện dẫn các quy định của ĐƯQT đó trước Tòa án để bảo vệ lợi ích
chính đáng của mình. Đây là cách thức thực thi ĐƯQT được áp dụng rộng rãi trong pháp
luật các nước trên thế giới từ giữa thế kỉ XX nhưng cho đến nay hãy còn khá mới mẻ đối
với pháp luật Việt Nam . Sở dĩ như vậy bởi lâu nay tâm lí chung của cả các cơ quan hữu
quan và người dân Việt Nam thường hiểu chưa đúng rằng pháp luật chỉ bao gồm các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các cam kết quốc tế mà
Việt Nam là thành viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên truyền các ĐƯQT còn chưa
thực sự sâu rộng . Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã có một số quy định của ĐƯQT được
áp dụng trực tiếp vào đời sống pháp luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội
phê chuẩn Nghị định thư gia nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung
cam kết được áp dụng trực tiếp của Việt Nam là: Luật doanh nghiệp, Luật luật sư, Luật
kinh doanh bảo hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí

tuệ, Luật Điện ảnh. Hoặc Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại hiệp định luôn có hiệu
lực cao hơn nội luật và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay không có hành vi chuyển
hóa hầu như không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp dụng mức thuế đã cam kết
giữa các quốc gia.
Còn áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để
chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra khi
nội dung của ĐƯQT chưa đủ cụ thể, rõ ràng để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn

22


pháp luật hoặc nội dụng điều ước đó có điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong
Hiến pháp. Cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước về quyền ưu
đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ
quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt
Nam; chuyển hóa nội dung Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ (CEDAW) vào trong Luật Bình đẳng giới. Nhiều quy định của các ĐƯQT khác cũng
đã được chuyển hóa thành các quy định trong các đạo luật của Việt Nam, nhất là từ khi
chúng ta gia nhập WTO như: Bộ luật dân sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật cạnh tranh,
Luật thương mại…có nhiều quy định tương thích với các quy định của Công ước
BERN về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công
nghiệp; Pháp lệnh về công nhận và thi hành của trọng tài nước ngoài tại Việt Nam hài hòa
với các quy tắc của Công ước New York năm 1958…
Nếu như trước kia, việc chuyển hóa ĐƯQT vào pháp luật quốc gia còn chưa được
quy định cụ thể, thì với việc Quốc hội thông qua Luật ký kết, gia nhập và thực hiện
ĐƯQT năm 2005, vấn đề áp dụng trực tiếp ĐƯQT vào đời sống pháp luật đã chính thức
được thừa nhận. Theo đó, trong trường hợp nội dung của ĐƯQT đã cụ thể, rõ ràng, Nhà
nước sẽ không cần phải thực hiện các thủ tục chuyển hóa ĐƯQT bằng việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém, mà chỉ cần ra quyết
định thừa nhận toàn bộ hoặc một phần nội dung của ĐƯQT đó để nội dung điều ước có

thể đi vào thời kỳ thực hành.Điều này hứa hẹn đem đến những biến chuyển to lớn cho
công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của nước nhà trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra
mạnh mẽ và sâu rộng như hiện nay.
4.2. Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi
ĐƯQT ở Việt Nam.
4.2.1. Mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT
Để đi đến ký kết một ĐƯQT, Bộ Tư pháp đã phải tiến hành một quy trình thẩm
định kỹ lưỡng về tính hợp hiến, mức độ tương thích các quy định pháp luật trong nước…
Nhưng khi nội dung của điều ước được thi hành trong thực tiễn thì hoàn toàn vẫn có thể
xảy ra mâu thuẫn giữa quy định của hai hệ thống pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực tế

23


này có thể là do tình trạng văn bản hướng dẫn thi hành có nội dung không thống nhất với
văn bản được hướng dẫn dẫn đến làm vô hiệu hóa luật. Thực trạng này thậm chí còn xảy
ra ở cả các văn bản pháp luật trong nước! Nguyên nhân thứ hai có thể dẫn ra ở đây đó là
trong quá trình giải thích luật mới phát hiện ra các mâu thuẫn có thể có nhưng chưa phát
hiện được trong quá trình thẩm tra, phê duyệt.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có nguy cơ phảiđối mặt
với các ĐƯQT có nội dung trái Hiến pháp. Mà theo quy định của pháp luật Việt Nam thì
nội dung ĐƯQT mà Việt Nam ký kết phải “phù hợp với các quy định của Hiến pháp
nước CHXHCN Việt Nam ”. Theo đó, có thể hiểu, pháp luật Việt Nam không chấp nhận
những điều khoản trong các điều ước có nội dung trái với Hiến pháp. Điều này xét về một
phương diện nào đó hoàn toàn không có lợi cho các quan hệ ngoại giao của Việt Nam .
Như vậy đòi hỏi chúng ta cần phải có cách xử lí khéo kéo cho vấn đề này để đảm bảo
được các quyền tự chủ và dân tộc tự quyết mà vẫn thể hiện được chủ trương hội nhập
quốc tế “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia
tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực”.
4.2.2. Vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT.

Về vấn đề giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi ĐƯQT, trong
pháp luật Việt Nam hiện nay mới chỉ có quy định: “Trong trường hợp văn bản quy phạm
pháp luật và ĐƯQT mà CHXHCN Việt Nam là thành viên quy định khác nhau về cùng
một vấn đề thì áp dụng quy định của ĐƯQT”. Từ đây có thể đưa ra phương thức xử lí
những điểm chưa thống nhất giữa ĐƯQT và các văn bản luật trong nước: để thực hiện
điều khoản trái hoặc chưa được quy định trong nội luật thì có thể áp dụng trực tiếp
ĐƯQT đó mà không cần chuyển hóa nội dung điều ước vào pháp luật trong nước hoặc
sửa đổi, bổ sung, ban hành văn bản quy phạm pháp luật trong nước cho phù hợp sau khi
ĐƯQT có hiệu lực thi hành. Tuy nhiên chỉ với quy định này thì chúng ta hãy còn bỏ ngỏ
việc giải quyết mâu thuẫn phát sinh giữa ĐƯQT và Hiến pháp. Một số nước, trong đó
tiêu biếu là Cộng hòa Pháp, đã đưa ra cách giải quyết tương đối linh hoạt cho vấn đề này:
tiến hành sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với nội dung ĐƯQT mà Nhà nước tham gia kết
ước. Vậy nên chăng,ở Việt Nam, pháp luật cho phép đưa vào nội dung của điều ước

24


những điều khoản có nội dung trái với Hiến pháp nhưng trước khi chấp nhận ràng buộc
thì phải tiến hành sửa đổi Hiến pháp? Bởi cần phải lưu ý rằng: pháp luật quốc gia vẫn
trong quá trình tiếp cận với luật pháp quốc tế, những quy định trong nội luật chưa hẳn lúc
nào cũng là tối ưu, nhất là trong khi tình hình thế giới biến đổi không phải từng ngày mà
từng giờ.
Bên cạnh giải pháp tình thế được đưa ra khi “việc đã rồi” như trên, về lâu dài,
chúng ta cần tăng cường hơn nữa công tác chủ động nghiên cứu, phân tích ĐƯQT để xây
có thể xây dựng các quy phạm pháp luật trên cơ sở tính đến ĐƯQT mà Việt Nam sắp
hoặc có thể trở thành thành viên trong tương lai. Mong rằng Việt Nam sẽ sớm có được
một hệ thống pháp luật tương đối phù hợp với chuẩn luật pháp quốc tế.
5. Vấn đề nội luật hóa các nước trên thế giới
5.1. Vương quốc Anh
Điều ước quốc tế không đương nhiên được coi là một bộ phận của pháp luật Anh.

Vì vậy, chúng không thể có hiệu lực thi hành trực tiếp trên lãnh thổ Anh. Điều ước quốc
tế chỉ trở thành một bộ phận của pháp luật Anh khi nó được chuyển hóa thông qua một
đạo luật của Nghị viện và khi đó nó mới có hiệu lực thi hành trong phạm vi của đạo luật
chuyển hóa đó. Hầu hết, các quốc gia thuộc hệ thống thông luật (trừ Hoa kỳ ) đều có quy
định như Anh. Do đó, các quốc gia đều từ chối hiệu lực thi hành trực tiếp điều ước quốc
tế trên lãnh thổ quốc gia. Tuy vậy, quy định về chuyển hóa điều ước quốc tế của pháp luật
Anh không áp dụng đối với mọi điều ước quốc tế. Các điều ước quốc tế về tranh chấp,
chuyển nhượng lãnh thổ hoặc một số thỏa thuận hành chính của Anh sẽ có hiệu lực thi
hành trực tiếp chứ không đòi hỏi phải có đạo luật chuyển hóa của nghị viện Anh.
Trường hợp điều ước quốc tế chưa được chuyển hóa bằng một đạo của Nghi viện
thì về nguyên tắc nó sẽ chưa có hiệu lực thi hành và chưa làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ đối với cá nhân pháp nhân trong nước. Tuy nhiên, trên thực tế điều ước quốc tế
đó vẫn có thể ảnh hưởng đến quá trình thực thi pháp luật của Anh thông qua những cách
thức khác trong từng trường hợp cụ thể.
Khi một đạo luật do Nghị viện Anh ban hành có điều khoản không rõ ràng thì Tòa
án Anh trong một số trường hợp có thể tham khảo điều ước quôc tế chưa được chuyển

25


×