Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán hiện nay – đánh giá và nhận xét để đẩy mạnh thị trường so vớ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.26 KB, 13 trang )

B – NỘI DUNG
I. Một số vấn đề khái quát chung vềkinh doanh chứng khoán
1. Khái niệm kinh doanh chứng khoán
Theo cách hiểu thông thường, kinh doanh là hoạt động tổ chức sản xuất,
buôn bán hàng hóa để kiếm lời. Hàng hóa gồm nhiều loại, mỗi loại hàng hóa có
những đặc điểm, đặc tính riêng. Khi gắn hàng hóa đó với hoạt động kinh doanh,
làm phát sinh nhiều loại hình kinh doanh, trong đó kinh doanh chứng khoán là
một loại hình kinh doanh đặc biệt. Tính đặc biệt của hoạt động kinh doanh chứng
khoán ở chỗ hàng hóa kinh doanh là chứng khoán, các dịch vụ gắn với chứng
khoán.
Ngoài cách định nghĩa trên, khi nghiên cứu kinh doanh chứng khoán, theo
nghĩa hẹp, khi nghiên cứu kinh doanh chứng khoán chính là đầu tư chứng khoán.
Đầu tư là việc sử dụng vốn để mua chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nó
bao gồm cả hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán.
Khái niệm kinh doanh chứng khoán như trên hay còn được hiểu là đầu tư
chứng khoán, còn bao gồm hai hoạt động sau:
+ Thứ nhất là sử dụng vốn mua chứng khoán (cổ phiếu) nhằm thu lợi
nhuận hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành
chứng khoán (tức là đầu tư chứng khoán theo nghĩa hẹp).
+ Thứ hai là mua đi bán lại chứng khoán để hưởng chênh lệch khi giá
chứng khoán trên thị trường lên xuống, hoạt động này cũng có thể hiểu là hoạt
động kinh doanh chứng khoán.
Đây là sự tiếp cận khái niệm kinh doanh chứng khoán ở phạm vi hẹp nhất
và cũng là cách hiểu phổ biến nhất.
2. Khái niệm về pháp luật kinh doanh chứng khoán
Thị trường chứng khoán có liên quan chặt chẽ với trình độ phát triển, mức
ổn định, tính bền vững của nền kinh tế vĩ mô. Do đó, việc xây dựng môi trường
pháp lý lành mạnh cho thị trường chứng khoán cũng như cho hoạt động kinh
doanh chứng khoán là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Bởi pháp luật kinh doanh
chứng khoán là một mảng quan trọng của pháp luật chứng khoán nói chung và
nếu thiếu cơ sở pháp lý hoặc tồn tại cơ sở pháp lý không phù hợp, chính nó sẽ


hạn chế sự phát triển của thị trường chứng khoán.
“Pháp luật kinh doanh chứng khoán là tổng hợp những nguyên tắc,
những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước ban hành, điều chỉnh những
quan hệ phát sinh trong quá trình kinh doanh chứng khoán. Hình thức thể hiện
0


của pháp luật kinh doanh chứng khoán và pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực
khác là các văn bản luật, nghị định, thông tư, quyết định của các cơ quan có
thẩm quyền”.
Mỗi quốc gia có sự can thiệp nhất định vào thị trường chứng khoán và
hoạt động kinh doanh chứng khoán ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế xã hội và thực tế phát triển thị trường chứng khoán tại quốc gia đó. Ở
Việt Nam hiện nay, Luật chứng khoán đã ra đời được một thời gian và có nhiều
quy định mới chặt chẽ hơn về kinh doanh chứng khoán được áp dụng, giá trị
pháp lý của chúng đã tương xứng với tầm quan trọng của chứng khoán và thị
trường chứng khoán.
3. Các chủ thể kinh doanh chứng khoán và các nghiệp vụ kinh doanh
chứng khoán.
Tương ứng với mỗi nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán có các chủ thể tiến
hành nghiệp vụ đó. Ứng với pháp luật của mỗi quốc gia có những chủ thể được
tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Các chủ thể kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt
Nam được quy định tại chương VI, chương VII của Luật chứng khoán bao gồm:
công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư
chứng khoán. Ngoài ra còn có ngân hàng thương mại.
Trong đó, công ty chứng khoán được phép thực hiện hoạt động môi giới,
tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư, lưu ký chứng khoán và các nghiệp
vụ tài chính khác (khoản 3 Điều 60 luật chứng khoán). Đặc biệt, khoản 2 Điều
60 quy định công ty chứng khoán chỉ được phép thực hiện bảo lãnh phát hành

khi được phép tự doanh chứng khoán. Công ty quản lý quỹ được phép tiến hành
quản lý quỹ và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán (khoản 1 Điều 61 Luật
chứng khoán).
Theo pháp luật, các chủ thể kinh doanh chứng khoán được phân biệt rõ
ràng chức năng, có những nghiệp vụ chủ thể này được phép nhưng chủ thể khác
không được phép tiến hành, vì có những nghiệp vụ mà một chủ thể đồng thời
tiến hành sẽ không đảm bảo sự khách quan và tính hiệu quả so với trường hợp
chúng được tiến hành bởi những chủ thể độc lập.
Chủ thể đầu tiên là công ty chứng khoán, là pháp nhân với hình thức tổ
chức là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn do hai mô hình này có
những ưu thế hơn so với những loại hình công ty khác về chế độ sở hữu, quản
trị, khả năng huy động vốn… phù hợp với hoạt động kinh doanh chứng khoán
hơn cả.
1


Chủ thể tiếp theo là công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Chức năng
của chủ thể này do pháp luật quy định. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
là pháp nhân với hình thức tổ chức là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm
hữu hạn, được phép tiến hành hai nghiệp vụ mà chủ thể kinh doanh không được
phép tiến hành là quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư
chứng khoán.
Cuối cùng là công ty đầu tư chứng khoán. Khoản 1 Điều 96 quy định
“công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần theo quy
định của Luật doanh nghiệp để đầu tư chứng khoán”. Pháp luật quy định về
công ty đầu tư chứng khoán vì mục đích điều chỉnh của Luật là hướng tới những
nhà đầu tư chuyên nghiệp. Việc chỉ cho phép thành lập công ty đầu tư chứng
khoán theo mô hình công ty cổ phần vì dạng mô hình này phù hợp với lĩnh vực
chứng khoán và đầu tư chứng khoán.
II. Thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán của các chủ thể

kinh doanh chứng khoán
Theo quy định của luật chứng khoán, các nghiệp vụ kinh doanh chứng
khoán mà các chủ thể kinh doanh chứng khoán được phép tiến hành bao gồm các
nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn chứng khoán,
bảo lãnh phát hành chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán.
1. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động môi giới chứng
khoán.
“Môi giới chứng khoán là việc công ty chứng khoán làm trung gian thực
hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng” (khoản 20 Điều 6 Luật chứng
khoán). Hoạt động này xuất phát từ nguyên tắc trung gian, theo đó công ty chứng
khoán tìm ra trong số khách hàng của mình những người có nhu cầu mua và bán
loại chứng khoán với giá cả, số lượng và thời điểm mua bán phù hợp. Nếu giao
dịch thành công, công ty chứng khoán thu về một khoản hoa hồng theo thỏa
thuận. Tính trung gian của công ty chứng khoán thể hiện trong hai vai trò: môi
giới thuần túy (công ty chứng khoán là bên thứ ba kết nối hai bên có nhu cầu
tương ứng với nhau) và môi giới nhưng đồng thời làm đại diện cho một trong hai
bên giao dịch. Để thực hiện hoạt động này, giữa công ty và khách hàng tồn tại
một hợp đồng gồm các điều khoản phù hợp tương ứng với vai trò là môi giới đơn
thuần hay đại diện, tùy trường hợp mà mức phí công ty chứng khoán được
hưởng là khác nhau.

2


Hoạt động môi giới chứng khoán luôn được tiến hành bởi chủ thể đặc thù
là các công ty chứng khoán. Chủ thể chứng khoán phải được cấp giấp phép thành
lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán đồng thời phải đăng kí kinh doanh
dịch vụ môi giới chứng khoán tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Trong thực tiễn kinh doanh chứng khoán ở nước ta, nhiều ngân hàng cũng

tham gia vào hoạt động môi giới chứng khoán nhưng muốn thực hiện được điều
đó, họ thường thành lập ra công ti chứng khoán độc lập bằng vốn tự có của mình
để chủ thể kinh doanh này tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán một
cách độc lập và chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán.
Thông thường, công ty chứng khoán tiến hành môi giới chứng khoán cho
khách hàng của mình thông qua các bước: 1. Ký kết hợp đồng mở tài khoản, 2.
Khách hàng ký quỹ tiền mặt và chứng khoán để tiến hành giao dịch, 3. Khách
hàng đặt lệnh mua bán chứng khoán, 4. Khớp lệnh, công ty chứng khoán thanh
toán tiền và chứng khoán cho khách hàng.
Pháp luật chứng khoán nêu rõ công ty chứng khoán mở tài khoản cho
khách hàng trên cơ sở hợp đồng, hợp đồng đó phải bao gồm các điều khoản cơ
bản (thông tin về các bên ký kết, cách thức nhận lệnh của công ty chứng khoán,
quyền và nghĩa vụ của các bên..).
Tuân thủ những quy định này, các công ty chứng khoán hiện nay đều soạn
thảo các mẫu hợp đồng, bao gồm trong đó các điều khoản luật định và điều
khoản bổ sung nhằm thỏa mãn nhu cầu đăng ký tài khoản nhanh, gọn của số
lượng lớn khách hàng và đảm bảo sự bình đẳng giữa họ. Ngoài ra, Luật quy định
các trường hợp đặc biệt, nhân viên kinh doanh của công ty chứng khoán mở tài
khoản giao dịch chứng khoán Khi đó, công ty có trách nhiệm thông báo mã số tài
khoản của nhân viên này cho Ủy ban chứng khoán nhà nước, Trung tâm giao
dịch hoặc Sở giao dịch chứng khoán. Việc kiểm soát này nhằm bảo vệ quyền lợi
của các nhà đầu tư là khách hàng của công ty chứng khoán.
2. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động tự doanh chứng
khoán
“Tự doanh chứng khoán theo pháp luật Việt Nam là việc công ty chứng
khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”. Khi thực hiện nghiệp vụ
này, công ty chứng khoán là các nhà đầu tư tiến hành giao dịch để tìm kiếm lợi
nhuận. Do đó, trước khi tiến hành giao dịch, công ty chứng khoán phải đảm bảo
có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán. Tuy nhiên, công ty chứng khoán với tư
cách là nhà đầu tư có những đặc điểm khác biệt so với các nhà đầu tư khác. Công

ty chứng khoán được xem là nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường. Hơn nữa,
3


ngoài tự doanh, công ty chứng khoán đồng thời tiến hành nghiệp vụ môi giới nên
trong nhiều giao dịch công ty không phải chịu phí môi giới.
Thực tế cho thấy, trong tự doanh chứng khoán, vai trò của công ty chứng
khoán không chỉ dừng lại ở vị trí nhà đầu tư đơn thuần, mà hơn thế, họ là các nhà
tạo lập thị trường. Điều này thể hiện ở việc công ty chứng khoán duy trì tính linh
hoạt của thị trường với một loại chứng khoán khi nó được phát hành, tạo sự cạnh
tranh về giá thông qua giao dịch một chứng khoán nhất định, thu hút sự quan tâm
của các nhà đầu tư tới một loại chứng khoán chưa niêm yết.
Các nhà tạo lập thị trường luôn có xu hướng cạnh tranh lẫn nhau, tạo khả
năng tự điều chỉnh của thị trường, đặc biệt là thị trường OTC. Họ thường được
tiếp cận với các thông tin đặc biệt do họ thường xuyên tiếp cận trực tiếp với các
thông tin trên số lệnh. Đó là lý do đối tượng này cần được kiểm soát chặt chẽ,
được áp dụng một quy chế riêng tương ứng với vai trò quan trọng của nó.
3. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán.
“Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành
cam kết việc tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng
khoán nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để
bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức
phát hành, hoặc hỗ trợ phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công
chúng” (khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán). So với phạm vi bảo lãnh chứng
khoán quy định tại Nghị định 144/2003/NĐ-CP, nội dung của luật chứng khoán
hiện hành có phạm vi rộng hơn ở việc hỗ trợ tổ chức phát hành trong phân phối
chứng khoán. Khi quy định như vậy, các bên hoàn toàn có thể tự do lựa chọn các
hình thức bảo lãnh phát hành.
Trong tập quán và thông lệ quốc tế, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng

khoán thường được thực hiện bởi các tổ chức chuyên nghiệp như chủ thể chứng
khoán, các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức khác được chính quyền cấp
phép thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán.
Nghiệp vụ này giúp công ty chứng khoán tiếp cận sớm hơn với thông tin
phát hành chứng khoán của tổ chức phát hành, thu phí từ việc cung cấp dịch vụ
này, đồng thời có nhiều khả năng đầu tư vào chính chứng khoán đó. Với tổ chức
phát hành, họ được thuận lợi hơn trong việc chào bán khi được bảo lãnh, khả
năng chào bán thành công và bán hết chứng khoán cao. Hơn nữa, trước khi thực
hiện bảo lãnh, công ty chứng khoán đồng thời có thể tư vấn phát hành cho chủ

4


thể phát hành, giúp họ không tốn phí tổn lớn và thu về lượng vốn lớn một cách
hợp lý từ đợt phát hành.
Hiện nay, theo đà phát triển của thị trường chứng khoán, hoạt động bảo
lãnh phát hành cũng như nhiều hoạt động chủ thể kinh doanh khác diễn ra sôi
động hơn trước. Nhưng xét về thực tế, tổ chức bảo lãnh tại Việt Nam vẫn hạn chế
nhiều về tiềm lực, trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm.
Về nguyên tắc, do hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán có bản chất
là dịch vụ thương mại nên chủ thể tiến hành hoạt động này thường phải thỏa mãn
một số điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc quy định này không ngoài
mục đích giúp chính quyền kiểm soát hoạt động của các chủ thể tiến hành.
Xét về lợi ích, khả năng đạt được lợi ích của chủ thể bảo lãnh và phát hành
đều lớn, nhưng xét đến rủi ro, sẽ rủi ro không nhỏ nếu đợt chào bán không thành
công hoặc tổ chức phát hành sau khi mua chứng khoán của tổ chức phát hành lại
không phân phối được. Để hạn chế rủi ro, pháp luật đặt ra giới hạn tổng giá trị
chứng khoán phát hành bảo lãnh không quá 30% vốn tự có của tổ chức bảo lãnh.
4. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động tư vấn đầu tư
chứng khoán và tư vấn tài chính.

Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán cung cấp cho nhà
đầu tư kết quả phân tích, công bố báo cáo phân tích và khuyến nghị liên quan
đến chứng khoán.
Do hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán là nghiệp vụ kinh doanh đặc thù
và có ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán nên hoạt động này thường được thực hiện bởi các tổ chức chuyên nghiệp
như công ty chứng khoán. Trên thực tế, việc cung cấp dịch vụ tư vấn đầu tư
chứng khoán cho khách hàng của các công ty chứng khoán luôn được thực hiện
bởi các chuyên gia về chứng khoán với tư cách là người đại diện cho chủ thể
kinh doanh. Đối với các tổ chức tín dụng và tổ chức tài chính như ngân hàng
thương mại, công ty bảo hiểm… nếu muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh
chứng khoán trong đó có nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán thì các tổ chức
này thành lập công ty chứng khoán độc lập để tiến hành các hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Các chủ thể kinh doanh do tổ chức tín dụng và tổ chức tài
chính thành lập tuy phải chấp nhận sự kiểm soát của các tổ chức này với tư cách
là chủ sở hữu nhưng về nguyên tắc, chúng đều là những công ty con có tư cách
pháp lý độc lập và nhân danh chính nó trong quá trình giao dịch với khách hàng.
Ở nước ta, khi số lượng người đổ vốn vào chứng khoán ngày càng nhiều
trong khi họ thiếu kỹ năng, thiếu kinh nghiệm đầu tư thì tư vấn đầu tư chứng
5


khoán cũng vì thế mà phát triển. Ngược lại, với những nước có thị trường chứng
khoán phát triển, họ chỉ coi tư vấn đầu tư chứng khoán là một nghiệp vụ phụ trợ.
Dù vị trí của nó ở đâu, đây cũng là một nghiệp vụ đòi hỏi chuyên môn cao,
không đòi hỏi tiềm năng tài chính như tự doanh hay bảo lãnh và không bị áp
dụng điều kiện vốn pháp định cũng như điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật như
nhiều nghiệp vụ khác.
5. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động lưu ký chứng
khoán.

Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng
khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở
hữu chứng khoán (khoản 24 Điều 6 Luật chứng khoán). Đây là nghiệp vụ phụ trợ
của Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu
ký, được trung tâm lưu ký chứng khoán chấp nhận tư cách thành viên. Với giấy
chứng nhận đăng ký, các chủ thể được phép thực hiện dịch vụ lưu ký và thanh
toán các giao dịch chứng khoán, đăng ký lưu ký đối với các chứng khoán phát
hành riêng lẻ, làm đại lý chuyển nhượng theo yêu cầu của tổ chức phát hành đối
với chứng khoán phát hành riêng lẻ.
Đối với nghiệp vụ đăng ký chứng khoán, công ty chứng khoán và ngân
hàng thương mại tự mình xây dựng quy trình đăng ký riêng và có quyền thu phí
khi khách hàng sử dụng dịch vụ này.
Với nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, mỗi khách hàng có tài khoản lưu ký
cứng và chỉ có một tài khoản duy nhất. Thêm vào đó, nguyên tắc quản lý biệt lập
tài sản cũng được áp dụng, luật nghiêm cấm các chủ thể lưu ký sử dụng chứng
khoán của khách hàng vì mục đích riêng. Điều 56 Luật chứng khoán nêu rõ
“trung tâm lưu ký và thành viên lưu ký không được coi chứng khoán lưu ký của
khách hàng là tài sản của mình”. Các thông tin của khách hàng liên quan đến
nghiệp vụ lưu ký cũng như các nghiệp vụ khác đều phải được bảo mật. Hành vi
tiết lộ thông tin hay hành vi khác xâm phạm quyền lợi khách hàng đều dẫn đến
nghĩa vụ bồi thường của chủ thể thực hiện lưu ký.
Hiện nay, lưu ký chứng khoán được thực hiện theo hai cấp ứng với hai chủ
thể: Trung tâm lưu ký và thành viên lưu ký. Các chủ thể này đều được phép lưu
ký chứng khoán của công ty đại chúng, các thành viên phải tái lưu ký chứng
khoán đó tại trung tâm. Quy định này được đặt ra nhằm thực hiện lưu ký tập
trung chứng khoán của các công ty đại chúng.
6. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động quản lý danh mục
đầu tư chứng khoán.
6



Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán quản lý theo ủy thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ
chứng khoán.
Bản chất pháp lý của hoạt động này là hợp đồng dịch vụ ủy thác danh mục
đầu tư chứng khoán. Việc kí kết và thực hiện hợp đồng này có thể xem như cách
thức duy nhất để công ty quản lý quỹ và khách hành của họ thỏa mãn được nhu
cầu của mình khi tham gia thị trường chứng khoán.
Nói về nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư, trước đây, theo pháp luật chủ
thể thực hiện là công ty chứng khoán, nhưng nay lại do công ty quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán thực hiện. Như vậy, có sự tách biệt nghiệp vụ này với các nghiệp
vụ vừa nêu của công ty chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán được tiến
hành tự doanh chứng khoán (là đầu tư chứng khoán đúng như tên gọi của nó)
(khoản 1 Điều 96 Luật chứng khoán). Ngân hàng thương mại được tiến hành lưu
ký chứng khoán và cung cấp dịch vụ giám sát hoạt động của công ty quản lý
quỹ, công ty đầu tư chứng khoán (khoản 1 Điều 47 và Điều 98 Luật chứng
khoán). Chủ thể này chỉ được phép tiến hành các nghiệp vụ đó vì pháp luật
chứng khoán Việt Nam không cho phép ngân hàng thương mại trực tiếp kinh
doanh chứng khoán.
7. Pháp luật kinh doanh chứng khoán trong hoạt động quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán
Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán,
theo đó công ty quản lý quỹ chấp nhận sự ủy thác của các nhà đầu tư để tiến
hành việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán bằng nguồn vốn góp của các nhà
đầu tư và trực tiếp quản lý điều hành quỹ này vào mục đích đầu tư trên thị trường
chứng khoán cũng như đầu tư vào các tài sản khác vì quyền lợi của nhà đầu tư.
Bản chất hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán là một dịch vụ về
chứng khoán do công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán tiến hành theo yêu cầu
của các nhà đầu tư để được nhận thù lao dịch vụ là phí quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán.

III. Một số đánh giá, nhận xét về thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh
chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán
1. Thực tiễn áp dụng pháp luật kinh doanh chứng khoán của các chủ thể
kinh doanh chứng khoán với những thành tựu đạt được và hạn chế tồn tại.
Qua hoạt động của các chủ thể kinh doanh, công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán, các hoạt động kinh doanh chứng khoán được thực hiện. Trong bối
cảnh kinh tế có nhiều biến động, các công ty chứng khoán đã vận dụng các quy
7


định pháp luật một cách linh hoạt, cùng với sự hỗ trợ của nhà nước để đạt được
lợi nhuận, sự tồn tại và phát triển trong thị trường chứng khoán. Việc thực hiện
tốt các quy định của pháp luật về kinh doanh chứng khoán của các chủ thể kinh
doanh chứng khoán, đặc biệt là các công ty chứng khoán đã khiến hiệu quả của
việc áp dụng pháp Luật chứng khoán tăng lên. Biểu hiện như, thực thi luật
chứng khoán, để đảm bảo yêu cầu vốn pháp định theo quy định, các chủ thể kinh
doanh không đủ vốn đã rút nghiệp vụ hoặc tăng vốn để đảm bảo nghiệp vụ. Hầu
hết các chủ thể chứng khoán đã được Ủy ban chứng khoán nhà nước cấp phép.
Đối với các sản phẩm dịch vụ tài chính khác, các chủ thể chứng khoán trước khi
thực hiện thường báo cáo Ủy ban chứng khoán nhà nước phương án, quy trình
thực hiện, các biện pháp quản trị rủi ro và phải tuân thủ các quy định của pháp
luật. Chính việc tuân thủ các quy định của pháp luật của các chủ thể kinh doanh
chứng khoán đã góp phần nâng cao tính hiệu quả của các quy định của pháp luật
kinh doanh chứng khoán.
Hầu hết các công ty chứng khoán đều có hoạt động tự doanh. Tuy nhiên,
với lợi thế về thông tin, không loại trừ khả năng các công ty này sẽ “làm giá” cổ
phiếu để thu lợi. Để tư vấn cho nhà đầu tư, các công ty chứng khoán thường
xuyên đưa ra các bản phân tích về thị trường. Trong các bản báo cáo này, doanh
nghiệp đưa ra những mã cổ phiếu tiêu biểu để nhà đầu tư tham khảo và lựa chọn
cổ phiếu để mua. Các chủ thể chứng khoán đang có chiêu thức làm giá một vài

mã cổ phiếu bằng cách cung cấp phân tích tốt về một mã cổ phiếu nào đó rồi tư
vấn cho khách mua vào. Sau đó, nhờ phương tiện truyền thông đưa tin, khi giá
cổ phiếu này đạt đỉnh thì họ tung ra bán. Mảng tư vấn phát hành cổ phiếu cũng là
điều kiện thuận lợi cho các chủ thể chứng khoán tiếp cận nguồn thông tin nội bộ
của các doanh nghiệp. Với hoạt động này, chủ thể chứng khoán có thể nhận mua
một phần hay toàn bộ chứng khoán của doanh nghiệp để đầu tư. Sau khi mua số
cổ phiếu này, chủ thể chứng khoán tiến hành “thối” giá với những hình thức như
vẽ ra triển vọng của doanh nghiệp, tô hồng sự thật và không công bố những mặt
yếu kém của doanh nghiệp, để bản thân kiếm nhiều lời. Với những hoạt động
này, các chủ thể chứng khoán đã có hành vi đầu cơ cổ phiếu, tạo lợi nhuận cho
chính mình nhưng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của nhà đầu tư, đặc biệt là
các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Hiệu quả của việc áp dụng các quy định của pháp luật về
kinh doanh chứng khoán nói chung và quy định về hoạt động tự doanh nói riêng
vì thế bị giảm sút đi rất nhiều.
Tình trạng các nhân viên chủ thể chứng khoán mở nhiều tài khoản tại
chính công ty của mình. Theo quy định của pháp luật kinh doanh chứng khoán,
8


nếu các nhân viên của chủ thể chứng khoán muốn đầu tư, chỉ được phép mở một
tài khoản tại chính đơn vị mình. quy định mở và giao dịch trên một tài khoản duy
nhất cũng áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư, cá nhân khác trên thị trường,
không chỉ đối với nhân viên công ty chứng khoán. tuy nhiên tại nhiều sàn chứng
khoán đã phát hiện nhiều nhân viên công ty chứng khoán vi phạm vì lợi ích cá
nhân hoặc thông đồng với những nhà đầu tư lớn để trục lợi.
Một ví dụ điển hình là trong vòng chưa đầy một tháng, hơn 10 chủ thể
chứng khoán đã bị Sở giao dịch thành phố Hồ Chí Minh HOSE cảnh cáo. Mới
nhất, HOSE thông báo cảnh cáo đại diện giao dịch của 6 chủ thể chứng khoán
do vi phạm quy định giao dịch: Chủ thể chứng khoán Ngân hàng công thương,
chủ thể chứng khoán Sài Gòn, chủ thể chứng khoán Châu Á – Thái Bình Dương,

chủ thể chứng khoán Tầm Nhìn, chủ thể chứng khoán Thăng Long, chủ thể
chứng khoán Ngân hàng ngoại thương ngày 27/8/2007. Hơn ai hết, các chủ thể
chứng khoán biết rõ các quy định, lợi và hại của vi phạm nhưng họ vẫn đua nhau
làm. Có thể thấy, các chủ thể chứng khoán đóng vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh doanh chứng khoán. Việc các công ty này cố tình làm sai quy định của
pháp luật đã làm giảm hiệu quả của pháp luật kinh doanh chứng khoán.
2. Một số phương hướng hoàn thiện nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
kinh doanh chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Để thu hút và đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư, cần phải thay đổi, khắc
phục những hạn chế trên. cơ sở hạ tầng cũng cần thay đổi, cải tiến hơn nữa để
bắt kịp các chuẩn mực của khu vực. Các công ty chứng khoán cần liên tục cải
tiến công nghệ, hoàn thiện công tác quản trị rủi ro, không ngừng nâng cao chất
lượng tư vấn đầu tư; triển khai những sản phẩm mới cho thị trường, cung cấp
cho nhà đầu tư các công cụ đa dạng để có thể bảo vệ cho khoản đầu tư của mình,
không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, coi đó là công tác trọng tâm trong
hoạt động hàng ngày của công ty. Trong tương lai, xu thế chung là các công ty
chứng khoán sẽ tăng nguồn thu từ dịch vụ giữ vai trò chủ đạo, giảm dần sự phụ
thuộc vào hoạt động từ doanh thu tự doanh và nguồn doanh thu này mang tính
không ổn định, phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thị trường..
Cần xem xét hoàn thiện hơn quy định của pháp luật chứng khoán nhằm
tạo nên những quy định cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu hơn tạo điều kiện thuận lợi cho
các chủ thể kinh doanh chứng khoán trong quá trình áp dụng pháp luật kinh
doanh chứng khoán.
Nếu xét đến nội dung hoạt động đầu tư chứng khoán thông qua chứng chỉ
quỹ đầu tư thì cơ chế hoạt động của công ty quản lý quỹ là cơ chế ba bên: công
9


ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát, nhà đầu tư. Thực tiễn thị
trường thời gian qua cho thấy chưa có một công ty quản lý quỹ đầu tư chứng

khoán nào chính thức ra đời. Pháp luật chỉ quy định đây là pháp nhân thực hiện
hoạt động quản lý quỹ đầu tư chứng khoán nhưng bản chất của nó có phải công
ty chứng khoán không lại chưa có khẳng định rõ ràng. Thực tiễn cho thấy đây là
một mô hình chủ thể chứng khoán. Pháp luật cần có quy định rõ ràng hơn về vấn
đề này.
Đối với các ngân hàng lưu ký, thanh toán chứng khoán, thực tiễn đang tiến
hành các hành vi gắn với giao dịch chứng khoán, với mục đích kiếm lời nhưng
pháp luật hiện hành lại chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Yêu cầu đặt ra là
cần xác định lại vị trí của ngân hàng lưu ký, ngân hàng thanh toán trong tổng thể
các loại chủ thể tham gia kinh doanh chứng khoán. Bên cạnh đó, pháp luật nên
xem xét đến vấn đề có nên quy định về phí môi giới chứng khoán hay không, về
hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, cho phép công ty hợp danh thực hiện hoạt
động tư vấn đầu tư.. Như vậy sẽ nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp luật
kinh doanh chứng khoán của các chủ thể kinh doanh chứng khoán.
Lưu ý hai vấn đề là:
+ Pháp luật nên có quy định rõ ràng về biện pháp cũng như chế tài cần
thiết trong áp dụng và thực thi pháp luật về kinh doanh chứng khoán nhằm bảo
vệ quyền lợi của các chủ thể kinh doanh chứng khoán. Điển hình như việc pháp
luật chưa có quy định rõ ràng về biện pháp thực hiện cũng như chế tài cần thiết
mặc dù Luật chứng khoán đã quy định về việc tách bạch hoạt động môi giới với
hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán. Không làm được điều đó, những
quy định khác nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư sẽ giảm hiệu quả.
+ Yêu cầu pháp luật về đạo đức, chuyên môn nghề nghiệp của những
người làm hoạt động tư vấn. Hoạt độngtư vấn đầu tư có thể mang lại nguồn lợi
nhuận lớn cho nhà đầu tư, nhưng cũng có thể dẫn họ đến những hậu quả xấu,
thậm chí là phá sản. Vì vậy, yêu cầu chuyên môn đạo đức, nghề nghiệp của
những nhà tư vấn thường đòi hỏi rất cao để đảm bảo cho hiệu quả của việc áp
dụng pháp luật chứng khoán trong kinh doanh chứng khoán cũng như hoạt động
tư vấn đầu tư chứng khoán
Để đạt được hiệu quả cao nhất trong việc áp dụng pháp luật về kinh doanh

chứng khoán cần có sự kết hợp đồng bộ giữa các yếu tố khác nhau. Việc nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về kinh doanh chứng khoán có ý nghĩa quan
trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán Việt
Nam.
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật chứng khoán Việt Nam – Trường đại học Luật Hà Nội.
2. Luật chứng khoán 2006, bổ sung sửa đổi 2010.
3. />
11


4. />
12



×