Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước 8 điểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.63 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẪN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VẪN ĐỀ
I. Khái niệm pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính nhà
nước.
1. Khái niệm pháp chế………………………………………………………...1
2. Khái niệm giám sát…………………………………………………………2

II. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước
1.

Hoạt

động

giám

sát

của

Quốc

hội………………………………………….3
2. Hoạt động giám sát của HĐND các cấp…………………………………..4

III. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành
chính Nhà nước
1. Đối với Quốc hội……………………………………………………………
7


2. Đối với Hội đồng nhân dân………………………………………………...8
KẾT LUẬN……………………………………………………………………9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………..10

0


ĐẶT VẪN ĐỀ

Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ đặc biệt của đời sống xã hội.
trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, công dân
đều phảo tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh, triệt để và
chính xác. Mottj trong số các biện pháp pháp lý để bảo đảm pháp chế trong
quản lý hành chính nhà là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước là một chế định có nguồn gốc sâu xa
từ các hình thức xây dựng nhà nước. do vậy để hiểu vẫn đề này em xin được
chọn đề tài ““Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực
nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính Nhà
nước”.

GIẢI QUYẾT VẪN ĐỀ.

I. Khái niệm pháp chế và bảo đảm pháp chế trong quản lí hành chính
nhà nước.
1. Khái niệm pháp chế
Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung pháp
luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị xã hội và con người. Vì vậy
bảo đảm cho pháp chế được củng cố, tăng cường và hoàn thiện là yêu cầu
khách quan của quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân và


1


cũng là yêu cầu của quá trình hoàn thiện con người và các quyền của họ trong
xã hội đặc biệt trong quá trình quản lí hành chính nhà nước.
Như vậy, muốn xây dựng và củng cố pháp chế phải chú ý tiến hành từ
khâu xây dựng pháp luật. Nói đến pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước
là nhấn mạnh đến trật tự pháp luật nhằm bảo vệ và phát triển quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, củng cố và duy trì địa vị pháp lí hành chính của các cơ
quan nhà nước và tổ chức xã hội.
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức- pháp
lí do cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dựng nhằm thực hiện
chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của cơ quan nhà nước và các tổ chức ấy cũng
như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong đời sống xã hội.
Bảo đảm pháp lí trong quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là bằng
những cơ chế và hoạt động pháp lí làm cho pháp luật được thực hiện có hiệu
quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi dậy trí ruệ và tinh
thần, ý chí tự lực tự cường của nhân dân, đem lại những tiện ích và thủ tục
thực hiện thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân theo một trật tự nhất định..
2. Khái niệm giám sát
Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc
làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định. Giám sát luôn gắn với
một chủ thể nhất định. Giám sát luôn gắn với đối tượng cụ thể( giám sát, giám
sát cái gì). Giám sát thể hiện mỗi quan hệ giữa chủ thể tiến hành hoạt động
giám sát và đối tượng chịu giám sát. Giám sát được tiến hành cơ sở những quy
định cụ thể. Chính vì

vậy, giám sát là hoạt động có mục đích của một hay


nhiều chủ thể nhất định- là nội dung của hoạt động quản lí nhà nước và cũng là
một hình thức kiềm chế, đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện

2


nay. Thực hiện tốt công tác giám sát là đòi hỏi cấp thiết của nhà nước pháp
quyền ở nước ta.

II. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
Giám sát là chức năng hiến định của các cơ quan quyền lực nhà nước.
Chức năng này xuất phát từ đia vị pháp lí của Quốc hội, Hội đồng nhân dân.
Phạm vi nội dung quyền hạn hình thức phương pháp giám sát của quốc hội, đại
biểu quốc hội được quy định trong hiến pháp, luật tổ chức quốc hội và nhiều
văn bản pháp luật quan trọng khác.

1.1.

Hoạt động giám sát của Quốc hội.

Hoạt động giám sát của quốc hội vừa là chức năng vừa là nhiệm vụ quyền
hạn của quốc hội. . Quyền đó đã được khẳng định cụ thể tại khoản 2 Điều 84
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi và bổ sung năm 2001) và khoản 2 Điều 2 Luật tổ
chức Quốc hội năm 2001: “Quốc hội…thực hiện quyết định giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”. Quy định này vừa khẳng định Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lức nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vừa khẳng định nguyên
tắc quyền lực nhà nước thống nhất tập trung trong tay nhân dân lao động.
Chính vì vậy mà những quy định trên cũng đồng thời khẳng định: Chủ thể thực

hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội. Quốc hội trong trường hợp này là
toàn thể đại biểu Quốc hội chứ không phải chỉ một đại biểu Quốc hội hay một
bộ phận nào đó của Quốc hội. Vì thế, Quốc hội mới có quyền và đủ điều kiện
thực hiện “quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của nhà nước”.
Hoạt động giám sát của quốc hội đối với các cơ quan nhà nước được
thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau:
Thực hiện trên nhiều kì họp, kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu và
quan trọng nhất của Quốc hội. kỳ hợp là nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung

3


nhất quyền lực nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước, trí tuệ tập thể của
các đại biểu Quốc hội. Trên kì họp Quốc hội qua nghe báo cáo của chính phủ,
các bộ, cơ quan ngang bộ, thảo luận đánh giá các báo cáo và đặc điểm là thông
qua quyền chất vẫn của Đại biểu quốc hội đối với chính phủ và các thành viên
chính phủ kết quả của các buổi họp này có thể được thể hiện thành các nghị
quyết.
Ủy ban thường vụ quốc hội là tổ chức quan trọng nhất không những có
nhiệm vụ giúp quốc hội mà còn trục tiếp thục hiện quyền giám sát đối với
quản lý nhà nước và hiệu lực của quyền được bảo đảm băng nhiều quyền hạn
cụ thể trong đó tiêu biểu là quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ quyết định của chính
phủ
Các uỷ ban hội đồng dân tộc của Quốc hội giúp Quốc hội thực hiện
quyền giám sát đối với quản lý nhà nước và trên các kì họp báo cáo trước quốc
hội về kết quả hoạt động giám sát của mình thể hiện bằng các báo cáo thẩm tra
thuyết trình
Các đoàn đại biểu và từng đại biểu một mặt giúp Quốc hội giám sát hoạt
động của chính phủ mặt khác còn có quyền lực trực tiếp giám sát hoạt động
của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước, cán bộ quản lý có quyền yêu

cầu các cơ quan và người có thẩm quyền trong quản lý hành chính nhà nước
dụng các biện pháp và khắc phục việc làm vi phạm pháp luật chủ trương
đường lối của đảng và nhà nước
Phương tiện giám sát quan trọng của đại biểu quốc hội ngoài quyền chất
vẫn trên các kì họp còn được thực hiện thông qua tiếp xúc cử tri với công dân
để nghe yêu cầu kiến nghị và khiếu nại tố cáo của cử tri hoặc tham dự các kì
họp của Hội đồng nhân dân các cấp ( điều 51-55 luật tổ chức quốc hội thông
qua ngày 25/12/2002)
Trong những trường hợp đặc biệt Quốc hội có thể thành lập ủy ban lâm thời để
điều tra những vẫn đề nhất định ( điều 7,15,23,24 luật giám sát)

4


Tính quyền lực trong hoạt động giám sát của quốc hội đối với bộ máy
hành chính nhà nước không chỉ thể hiện về mặt tổ chức như quyết định thành
lập, bãi bỏ các bộ và các cơ quan ngang bộ của chính phủ ( khoản 8 điều 84
hiến pháp) mà còn thể hiện ở phạm vi đối tượng giám sát mọi quản lý vẫn đề
mọi lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước oqr quyền hạn của quốc hội bầu và
bãi nhiệm các chức danh cao nhất trong bộ máy quản lý hành chính nhà nước
và cả ở quyền đình chỉ hoặc bãi bỏ các quyết định của chính phủ trái với hiến
pháp, luật và nghị quyết
Quyền giám sát của quốc hội đặc biệt lớn không bị giới hạn bởi đối
tượng phạm vi giám sát. Về hình thức quốc hội thục hiện chức năng như tòa án
bảo hiến được thành lập ở nhiều nước. để củng cố pháp chế kỷ luật trong quản
lý hành chính nhà nước cần tăng cường hoạt động giám sát của quốc hội đối
với hệ thống hành chính.
1.2.

Hoạt động giám sát của HĐND các cấp.


Hội đồng nhân dân các cấp, xuất phát từ vai trò, vị trí của nó theo hiến
pháp năm 1992, thực hiện quyền giám sát dối với hoạt động của UBND các cơ
quan chuyên môn của ủy ban nhân dân và các xí nghiệp cơ quan đơn vị trực
thuộc mình cũng như trực thuộc cấp trên đóng tại địa phương. Hoạt động gám
sát của HĐND địa phương là chức năng chủ yếu của cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương được thực hiện trước hết trên các kỳ họp. kì họp là hình
thức hoạt động quan trọng nhất của HĐND. Tại đây HĐND không chỉ quyết
định những vẫn đề quan trọng ở địa phương mà còn thực hiện mà còn thực
hiện quyền giám sát dối với UBND,TAND, VKSND cùng cấp. HĐND các cấp
xuất phát từ vai trò, vị trí của nó theo hiến pháp 1992 thực hiện hoạt động
giám sát của UBND, hoạt động giám sát có thể được thực hiện trên các kì họp.
Thứ nhất, HĐND nghe và thảo luận các báo cáo, các đề án, các dự án của
UBND, TAND, VKSND cùng cấp. Để hoạt động này có hiệu quả, trước đó
thường trực và các ban của HĐND phải làm tốt công tác thẩm tra các báo cáo,

5


các dự án, các đề án nói trên. Thường trực HĐND phải phân công, đôn đốc các
ban trong việc thẩm tra kĩ các báo cáo, các dự án, các đề án trước khi trình ra
kì họp HĐND. Các báo cáo thuyết trình, báo cáo thẩm tra cần ngắn gọn, tập
trung vào những ấn đề cốt lõi để giành thời gian cho việc thảo luận và chất vấn
của đại biểu mới có hiệu quả.
Thứ hai, HĐND thực hiện quyền giám sát bằng cách chất vấn và xem xét
việc trả lời chất vấn các đại biểu là lãnh đạo của ủy ban nhân dân (chủ tịch
UBND, các thành viên khác của UBND) cũng như các đại biểu là lãnh đạo cơ
quan kiểm sát và xét xử ở địa phương trên các kỳ họp, bằng hoạt động của các
nhóm đại biểu trong khu vực bầu cử.
HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, mặc dù như vậy

nhưng hoạt động của HĐND không bị bó hẹp ở phạm vi hoạt động của “cơ
quan quyền lực nhà nước ở bằng cách nghe và thảo luận đánh giá báo cáo của
UBND của các cấp chuyên môn bằng cách chất vẫn trên kỳ họp đối với chủ
tịch và các thành viên UBND, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của Ủy
ban, bằng hoạt động của Thường trực HĐND và các ban của HĐ của các nhóm
đại biểu trong khu vực bầu cử.
Ngoài ra, một hình thức cụ thể của hình thức giám sát quan trọng của
HĐND là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (cử tri). Giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cử tri kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật là nghĩa vụ
của toàn thể đại biểu HĐND chứ không phải riêng của bộ phận nào. Làm tốt
việc này là một biểu hiện thiết thực nhất của việc xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân vì dân. Hoạt động này cũng chính là dịp và điều
kiện để HĐND hoàn thành nhiệm vụ của người đại biểu của dân mà cử tri và
nhân dân địa phương đã tín nhiệm giao cho họ.
Theo quy định của Hiến pháp Luật tở chức HĐND và UBND, HĐND có
quyền bầu và bãi miễn các thành viên UBND, chủ tịch của HĐND cấp dưới
trực tiếp của UBND chủ tịch UBND cùng cấp.

6


Phạm vi giám sát bao gồm toàn diện với mọi vẫn đề và lĩnh vực quản lý
hành chính nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ chức, nhà tường trên đợn vị hành
chính tương ứng bất luận cơ quan tổ chức đó trực thuộc cơ quan nào.
Tóm lại hoạt động giám sát của HĐND trong các lĩnh vực quản lý Nhà
nước có căn cứ, phạm vi, nộ dung hình thức và phương pháp tương tự như
hoạt động giám sát của Quốc hội, nhưng ở nấc thang quyền lực thâp hơn trên
địa bàn lãnh thổ xác định.

III. Nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền

lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành
chính Nhà nước.
1. Đối với Quốc hội.
Cùng với sự đổi mới của đất nước, hoạt động của các cơ quan nhà nước
ta nói chung và của Quốc hội nói riêng đã và đang đạt hiệu quả trong thực tế.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội là yêu cầu bức xúc, đòi
hỏi các biện pháp khả thi sau đây:
Một là: Phải nâng cao chất lượng các văn bản luật để pháp luật thực sự
là phương tiện quản lý đất nước, để người dân lao động làm chủ vận mệnh đất
nước, phát huy trí tuệ để xây dựng đất nước.. Đặc biệt, phải tổ chức nghiên
cứu lại những quy định của Hiến pháp về các quy chế quyền hạn (trong đó có
quyền giám sát) của Quốc hội, từ đó bổ sung các quy định về phương thức
thực hiện quyền giám sát của Quốc hội. Trên cơ sở đó, chúng ta mới có cơ sở
pháp lý đầy đủ để đổi mới tổ chức hoạt động giám sát của Quốc hội.
Hai là: Phải hoàn thiện bộ máy hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động đáp ứng yêu cầu của hoạt động giám sát, ở đây
đòi hỏi tinh gọn bộ máy nhưng đủ để hoàn thành nhiệm vụ với hiệu suất cao
nhất. Đồng thời, tăng thêm thẩm quyền cho các cơ quan của Quốc hội trong
việc thực thi quyền giám sát.
Ba là: Mục tiêu giám sát và thời gian giám sát ở từng nơi, từng thời kỳ,
từng địa phương và cơ sở phải được xác định rõ ràng. Có thể tăng cường số lần
7


họp trong một năm của Quốc hội. Những kết quả của hoạt động giám sát phải
công khai và được bảo đảm thực hiện trong thực tế.
Bốn là: Tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn và kiến thức
pháp luật, kiến thức quản lý nhà nước cho các đại biểu Quốc hội để những
người đó đủ trình độ để xây dựng luật pháp, kiểm tra, giám sát việc thực hiện
luật pháp và quyết đáp những vấn đề quan trọng của đất nước.

2. Đối với Hội đồng nhân dân.
Để bảo đảm việc giám sát của Hội đồng nhân dân có chất lượng, hiệu
quả, thì cần phải chú ý đến các vấn đề sau:
Thứ nhất: Nâng cao chất lượng thảo luận tại các phiên họp toàn thể.
Việc thảo luận các báo cáo tại phiên họp toàn thể sẽ giúp cho các đại biểu Hội
đồng nhân dân tập trung ý chí, tranh luận và thảo luận các vấn đề, nhất là
những vấn đề còn có ý kiến khác nhau, nghe các cơ quan trả lời về các kiến
nghị của cử tri. Trên cơ sở thông tin đã được phân tích, đại biểu sẽ quyết định
chính xác các vấn đề đặt ra.
Thứ hai: Tăng cường quyền chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân:
Các ý kiến đặt ra phải trên cơ sở khảo sát thực tế, nguyện vọng chính đáng của
nhân dân hoặc dựa trên cơ sở khảo sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng
nhân dân. Để bảo đảm việc thực hiện chất vấn có hiệu quả, phải hạn chế những
chất vấn mang tính kiến nghị, thông tin và sự việc không rõ; những người bị
chất vấn phải trả lời rõ ràng, cụ thể, có tính thuyết phục, không vòng vo, né
tránh các nội dung chất vấn, không để vụ việc kéo dài mà phải có biện pháp
khắc phục cụ thể.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của Thường trực Hội
đồng nhân dân. Hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân trong các
nhiệm kỳ đã góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ của Hội đồng
nhân dân và đóng góp tích cực đối với chất lượng và hiệu quả hoạt động của
Hội đồng nhân dân.

8


Tuy nhiên, để nâng cao chất lượng và hiệu quả giám sát của Hội đồng nhân
dân, cần phải coi công tác kiểm tra, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân
dân và các Ban của Hội đồng nhân dân là một việc làm thường xuyên. Thường
trực Hội đồng nhân dân phải chủ động, sáng tạo tìm ra biện pháp hợp lý để đẩy

mạnh hoạt động của Hội đồng nhân dân. Cần phân công hợp lý cho các Ban
trong công tác giám sát, trong việc tiếp công dân nhằm đảm bảo cho pháp luật
và nghị quyết của Hội đồng nhân dân được thực hiện nghiêm chỉnh, góp phần
tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc cho cơ sở, động viên, khuyến
khích cơ sở phát huy những mặt tốt, và chỉ ra được những sai sót cần kịp thời
sửa chữa. Từ đó mà tạo được mối quan hệ tốt và gắn bó giữa Hội đồng nhân
dân và các đơn vị được giám sát.
Thứ tư: Tăng cuờng hơn nữa sự phối hợp hoạt động giữa Đoàn đại biểu
Quốc hội và các cơ quan, đoàn thể ở địa phương: Việc phối hợp với Đoàn đại
biểu Quốc hội ở địa phuơng trong việc tham gia hoạt động giám sát, trong việc
tiếp xúc với cử tri sẽ tạo điều kiện cho các đại biểu Hội đồng nhân dân để trao
đổi thông tin về kiến thức pháp luật, về tình hình chấp hành pháp luật nói
chung, cũng nhu trao đổi về kinh nghiệm trong hoạt động nhằm góp phần nâng
cao chất lượng giám sát của Hội đồng nhân dân.

KẾT LUẬN
Trong điều kiện xã hội Việt Nam hiện nay thì pháp chế là yêu cầu rất quan
trọng trong quản lý hành chính nhà nước. Theo đó để đảm bảo pháp chế trong
quản lý hành chính nhà nước thì cần tăng cường hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực nhà nước. Trong thời gian tới, với việc đẩy mạnh cải cách hành
chính sẽ nâng cao được hiệu quả hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực
nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lí hành chính nhà nước.
Nhưng để làm được điều này trước hết phải đổi mới về tính chất và hoạt động
của cơ quan quyền lực nhà nước đặc biệt trong hoạt động giám sát. Trong đó,

9


Quốc hội phải thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, phát huy được
vai trò giám sát tối cao của mình.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2008;
2. Giáo trình luật hành chính Việt Nam, Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội,
Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2005;
3. Giáo trình luật hành chính và tài phán hành chính, Học viện hành chính
quốc gia, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2005;
4. Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2009;
5. Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001);
6. Luật về hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003;
7. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003;


10



×