Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

THỰC HIỆN dân CHỦ ở xã, THỊ TRẤN của HUYỆN sơn hòa, TỈNH PHÚ yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.3 KB, 128 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/………

BỘ NỘI VỤ
.…../……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ CHĂM THƢ

THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, THỊ TRẤN
CỦA HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. VŨ ĐỨC ĐÁN

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của Tôi, các
số liệu trong luận văn là trung thực, khách quan, khoa học, dựa trên kết quả
nghiên cứu và tìm hiểu thực tế và các tài liệu đã được công bố.

Huế, ngày



tháng năm 2017
Học viên

Lê Chăm Thƣ


Lời Cảm Ơn
Hoàn thành luận văn này, Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
- Ban Giám đốc, các Thầy giáo, Cô giáo và cán bộ, công chức, viên
chức các khoa, phòng, ban của Học viện Hành chính Quốc gia.
- Các Thầy giáo, Cô giáo Khoa Nhà nước và Pháp luật đã tham gia góp
ý cho đề cương nghiên cứu của bản luận văn.
- PGS. TS. Vũ Đức Đán - Khoa Nhà nước và pháp luật, người hướng
dẫn khoa học, đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ Tôi hoàn
thành luận văn này.
- Các cơ quan, đơn vị, cá nhân và gia đình đã tạo điều kiện thuận lợi
trong thời gian Tôi tìm hiểu thực tế và cung cấp tài liệu, số liệu để Tôi hoàn
thiện luận văn.
Do thời gian thực hiện luận văn không dài và trình độ còn hạn chế, nên
luận văn có thể còn có những thiếu sót, Tôi rất mong được sự góp ý của các
Thầy giáo, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Học Viên

Lê Chăm Thƣ


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt

MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Ở XÃ, THỊ TRẤN........................................................................................................................... 8
1.1. Khái quát chung về dân chủ và thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn................8
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm, bản chất của dân chủ.............................................. 8
1.1.2. Khái quát về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn.......................................... 21
1.2. Quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn................................26
1.2.1. Nội dung, hình thức, phương pháp thực hiện dân chủ ở xã, thị
trấn26
1.2.2. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện dân
chủ tại xã, thị trấn................................................................................................................ 34
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả thực hiện quy chế dân chủ ở xã, thị
trấn..................................................................................................................................................... 38
1.3.1. Trình độ năng lực, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức ở xã,
thị trấn........................................................................................................................................ 38
1.3.2. Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức cơ sở Đảng................................. 38
1.3.3. Công tác tổ chức thực hiện của chính quyền và các tổ chức chính
trị - xã hội cấp xã.................................................................................................................. 39
1.3.4. Địa bàn dân cư, trình độ dân trí..................................................................... 40
1.3.5. Hệ thống pháp luật................................................................................................. 41
1.3.5. Ý thức của người dân trong thực hiện các quyền dân chủ của mình
đã được quy định trong pháp luật................................................................................ 42
Tiểu kết Chương 1...................................................................................................................... 45


Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở XÃ, THỊ TRẤN

CỦA HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN............................................................... 46
2.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội tác động đến thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn
của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên..................................................................................... 46
2.1.1. Đặc điểm vị trí địa lý, tự nhiên
........................................................................................................................................................

46
2.1.2. Đặc điểm về kinh tế, văn hóa và xã hội
........................................................................................................................................................

47
2.1.3. Đặc điểm về dân cư, dân tộc, tôn giáo
........................................................................................................................................................

49
2.2. Kết quả thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú
Yên..................................................................................................................................................... 50
2.2.1. Quá trình triển khai, quán triệt Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18/2/1998

và các văn bản về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
........................................................................................................................................................

50
2.2.2. Hoạt động của các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và

các đoàn thể nhân dân trong tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
........................................................................................................................................................

52
2.2.3. Kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, bài học kinh nghiệm .. 56


Tiểu kết Chương 2...................................................................................................................... 84
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN DÂN

CHỦ Ở XÃ, THỊ TRẤN CỦA HUYỆN SƠN HÒA, TỈNH PHÚ YÊN......87
3.1. Quan điểm tăng cường thực hiện dân chủ ở các xã, thị trấn của huyện
Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên............................................................................................................ 87
3.1.1. Những quan điểm của Đảng về tăng cường thực hiện dân chủ ở cơ
sở áp dụng cho huyện Sơn Hòa
........................................................................................................................................................

87
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn


Hòa, tỉnh Phú Yên...................................................................................................................... 90
3.2.1. Giải pháp chung
........................................................................................................................................................

90
3.2.2. Giải pháp cụ thể
........................................................................................................................................................

96
Tiểu kết Chương 3................................................................................................................... 108
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................................... 112


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT

QCDC: Quy chế dân chủ
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
Cấp xã: Xã, phường, thị trấn
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
MTTQ: Mặt trận Tổ quốc
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
KNTC: Khiếu nại, tố cáo


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Dân chủ là hiện tượng lịch sử xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của đời sống con người. Dân chủ là bản chất của chủ nghĩa xã hội, và cũng là
bản chất của Nhà nước Việt Nam. Hay nói cách khác, “Nhà nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức” [1]
Dân chủ ở xã, thị trấn đang là vấn đề bức xúc hiện nay. Dân chủ ở xã,
thị trấn nếu được phát huy nghiêm túc, đúng hướng sẽ thực sự là đòn bẩy
quan trọng, là chiếc chìa khóa mở ra tạo sự chuyển biến quan trọng trên nhiều
phương diện với đất nước có hơn 80% dân cư làm nông nghiệp như Việt Nam.
Dân chủ hóa cũng chính là để phát huy các tiềm năng, tài năng của con người;
các năng lực xã hội, và cũng chính là phát huy nội lực của dân tộc.
Sơn Hòa là huyện miền núi của tỉnh Phú Yên, có 13 xã và 01 thị trấn, với
76 thôn buôn, khu phố; có 03 xã khu vực I, với 12 thôn, buôn, khu phố; 05 xã
khu vực II với 26 thôn, buôn (trong đó có 07 thôn, buôn đặc biệt khó khăn); 06

xã khu vực III với 38 thôn, buôn (trong đó có 22 thôn, buôn đặc biệt khó khăn).
Trong những năm qua, nhờ việc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện tốt Chỉ
thị số 30-CT/TW, ngày 18/2/1998 về việc xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở
và các Nghị định của Chính phủ nay là Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11
ngày 20/4/2007 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa 11 về thực hiện dân chủ ở
xã, phường, thị trấn nên đã làm chuyển biến nhận thức của cán bộ công chức,
đảng viên về phát huy quyền dân chủ trực tiếp của cán bộ, công chức và nhân
dân. Phương châm ''dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã đi vào cuộc
sống, tác động tích cực đến tất cả các lĩnh vực về phát


2

triển kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch đúng hướng, tỷ
trọng tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, chăn nuôi phát triển, kinh tế phát
triển toàn diện, tổng thu ngân sách năm sau cao hơn năm trước. Lòng tin của
nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng được củng cố và tăng cường; khối
đại đoàn kết toàn dân được tăng cường, tình làng nghĩa xóm được duy trì, giải
quyết tốt khiếu nại tố cáo những đề xuất, kiến nghị của công dân.
Tuy nhiên, vẫn còn một số cấp uỷ, chính quyền cơ sở chưa nhận thức
đầy đủ tầm quan trọng, ý nghĩa sâu sắc cũng như tính cấp bách và lâu dài của
vấn đề dân chủ, xây dựng và thực hiện QCDC. Việc xây dựng hương ước, quy
ước một số nơi chưa coi trọng, nội dung chưa thể hiện được các quyền của
nhân dân. Thanh tra nhân dân được kiện toàn, song chất lượng hoạt động chưa
cao, chưa thực sự là công cụ giám sát tin cậy của nhân dân.
Sở dĩ tác giả lựa chọn vấn đề dân chủ ở xã, thị trấn mà không phải dân
chủ các loại hình ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp là vì các
đơn vị này có những đặc điểm riêng so với xã, thị trấn, ít bị các quan hệ dòng
tộc, làng xóm tác động, và có trình độ nhận thức cao hơn ở xã, thị trấn. Xã, thị
trấn là cấp chính quyền cơ sở là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ

sở, nơi gần dân nhất, trực tiếp lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân, đồng thời là nơi tập trung chủ yếu của cư dân nông thôn, với địa bàn rộng
lớn, chiếm khoảng 80% dân số, 70% lao động xã hội.
Từ việc xác định rõ vị trí và tầm quan trọng đó, tác giả tìm hiểu và phát
hiện ra những bất cập trong việc triển khai tổ chức, thực hiện. Những bất cập
liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý của bộ máy chính quyền; những
bất cập liên quan đến trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức; những
bất cập liên quan đến sự nhận thức của người dân…Vậy, để phát huy những
mặt tích cực, khắc phục những tồn tại, yếu kém trong quá trình tổ chức thực
hiện dân chủ ở cơ sở đặc biệt là dân chủ ở xã, thị trấn trong cả nước nói


3

chung và các xã, thị trấn trên địa bàn huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên nói riêng,
góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân và vì dân tác giả chọn đề tài "Thực
hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên" làm luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính với mong
muốn, đề tài sẽ đề xuất một số giải pháp, kiến nghị có tính khả thi trong việc
thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở đồng thời giúp người dân thực hiện tốt hơn
quyền làm chủ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề dân chủ, dân chủ ở cơ sở, quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở từ
lâu đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nhà khoa học, những người làm
công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Cho đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này của các cá nhân, tập thể
được công bố. Ví dụ:
- "Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước

ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, 2003 của TS. Nguyễn Văn Sáu và GS.
Hồ Văn Thông.
- "Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay", Nxb
Chính trị quốc gia, 2005 của TS. Nguyễn Văn Sáu và GS.TS. Hồ Văn Thông
chủ biên.
- "Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn" của PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
- "Thực hiện dân chủ trong thời kỳ đổi mới ở nước ta", của Th.S Hoàng
Văn Nghĩa, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8, năm 2002.
- "Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở", của TS. Đặng Đình
Tân và Đặng Minh Tuấn, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7/2002.


4

- "Quan hệ giữa thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở với xây dựng chính
quyền cơ sở nông thôn", của TS. Nguyễn Văn Sáu, Tạp chí Lý luận chính trị,
số 11-2002.
- "Chung quanh những vấn đề quy chế dân chủ ở nước ta hiện nay" của
Lương Gia Ban, Tạp chí Cộng sản, số13, tháng 5 năm 2002.
- "Dân chủ ở cơ sở một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam",
của Trần Bạch Đằng, Tạp chí Cộng sản, số 35, tháng12/2003.
- "Để thực hiện dân chủ ở cơ sở", của Lê Quang Minh, Tạp chí Cộng
sản số 11, tháng 4 năm 2003.
- "Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng hệ thống chính trị ở
cơ sở vững mạnh", của Trịnh Ngọc Anh, Tạp chí Cộng sản, số 11, tháng 4/2003.

- "Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi mới: thành tựu, vấn đề
và giải pháp", của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Lý Luận chính trị, số


3/2004.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở", của Lê Xuân Đình, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng 10/2004.
- "Những điểm mới của quy chế dân chủ ở cấp xã", của Th.S Ngô Thị
Tám, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 10/2003.
- "Để thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", của Trần Quang Nhiếp, Tạp
chí Cộng sản, số 2, tháng1/1999.
- "Đưa cuộc vận động thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở lên một bước
mới, rộng rãi hơn, hiệu quả hơn, thiết thực hơn", của Tổng Bí thư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Nông Đức Mạnh, Tạp chí Cộng sản, số 20, tháng
10/2004.
- "Dân chủ và phát huy dân chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới"
của TS. Lê Trọng Ân, Tạp chí Cộng sản, số 24, tháng 12/2004.


5

- "Dân chủ và thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh", của
Th.S Phạm Văn Bính, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 8/2000.
- "Tiếp tục xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", của
Trương Quang Được, Tạp chí Cộng sản, số 12, tháng4/2002.
- "Khâu đột phá của quá trình phát huy dân chủ ở nước ta trong thời
kỳ đổi mới", của Tòng Thị Phóng, Tạp chí Cộng sản, số 21, tháng 11/2003.
- "Cở sở lý luận - thực tiễn của phương châm "dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra và mâý vấn đề về xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở", của
Đỗ Quang Tuấn, Tạp chí Cộng sản, số 8, tháng4/1998.
- "Về dân chủ ở cơ sở", của PGS. Nguyễn Huy Qúy, Tạp chí Cộng sản,
số 4, tháng 2/2004.
- "Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa", Nxb Sự thật, Hà Nội,
1991 của Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo.

- "Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: quan điểm, lý
luận và phương pháp nghiên cứu", Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/1992 của
Hoàng Chí Bảo.
- "Dân chủ ở cơ sở là điểm mấu chốt để thực hiện quyền dân chủ", Tạp
chí Quản lý nhà nước, số1/1999 của Lê Minh Châu.
- "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ với việc thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ Chính trị học của
Nguyễn Thị Tâm, 2000.
- "Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong các trường trung học phổ
thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay - thực trạng và giải pháp", Luận án tiến sĩ
Chính trị học của Nguyễn Thị Xuân Mai, 2004...
Các công trình nghiên cứu kể trên đã đi sâu nghiên cứu việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở gắn với với việc tăng cường củng cố, hoàn thiện hệ
thống chính trị ở cơ sở. Các công trình đó cũng đã làm rõ bản chất, nội dung,


6

tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ. Các tác giả cũng đã chỉ ra phương
hướng và giải pháp nhất định nhằm bảo đảm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở. Tuy nhiên, vẫn còn hiếm hoặc chưa có công trình nghiên cứu làm thế nào
để viết về thực hiện dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là việc nghiên cứu tại một địa
bàn cụ thể.
Vì vậy, luận văn này là một cố gắng bước đầu của tác giả, góp phần
nghiên cứu, bổ sung vào chỗ còn thiếu hụt mà cụ thể ở đây là trên địa bàn xã,
thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Từ nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp luật về việc thực hiện dân chủ ở xã,
thị trấn và thực trạng thực hiện dân chủ ở địa phương đề ra giải pháp tăng
cường thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện dân theo chủ Pháp lệnh số 34
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ở xã, thị trấn trên địa bàn huyện Sơn Hòa,
tỉnh Phú Yên.
- Phạm vi nghiên cứu: Thực hiện dân chủ tại các xã, thị trấn ở huyện
Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 2007 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ và thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở cũng như những quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay về vấn đề này và về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, các phương pháp cụ thể khác như phương pháp: lịch sử cụ thể,


7

phân tích, tổng hợp; kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác: thống kê,
so sánh, điều tra xã hội học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần hình thành cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo tổ
chức triển khai hoạt động thực tiễn của các cơ quan Đảng và Nhà nước, nhằm
nâng cao chất lượng thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong giai đoạn hiện
nay.
- Tác giả phân tích đưa ra quan niệm, đặc trưng, bản chất của dân chủ;
quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn; những yếu tố ảnh
hưởng đến kết quả thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn

- Đánh giá toàn diện kết quả thực hiện dân chủ ở xã trên địa bàn các xã,
thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.
- Đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm thực hiện tốt Quy chế
dân chủ ở cơ sở nói chung và ở cấp xã, thị trấn của huyện Sơn Hòa nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận, pháp luật về thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn
Chương 2: Thực trạng thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn của huyện Sơn
Hòa, tỉnh Phú Yên
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện dân chủ ở xã,
thị trấn của huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên


8

Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN, PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN DÂN CHỦ
Ở XÃ, THỊ TRẤN
1.1. Khái quát chung về dân chủ và thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn
1.1.1. Quan niệm, đặc điểm, bản chất của dân chủ
1.1.1.1. Quan niệm về dân chủ
Dân chủ từ bao đời nay luôn là đề tài hấp dẫn đối với các học giả trong
và ngoài nước bởi dân chủ liên quan mật thiết tới cuộc sống của con người và
sự phát triển của xã hội. Vấn đề dân chủ đã, đang và sẽ còn là một vấn đề thời
sự được quan tâm tìm tòi, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của mọi quốc
gia, trong đó có đất nước Việt Nam.
Dân chủ là khái niệm xuất hiện từ thời cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp cổ,
dân chủ là do hai từ hợp thành: Demos là nhân dân và Kuatos là quyền lực
hay chính quyền. Dân chủ có nghĩa là quyền lực của nhân dân, là một trong

những hình thức tổ chức chính trị nhà nước của xã hội mà đặc trưng là việc
tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số, thừa nhận
quyền tự do bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân là cội nguồn của
quyền lực. Khi bàn về khái niệm dân chủ là gì, các nhà khoa học đề xuất khá
nhiều ý kiến:
- Ý kiến thứ nhất cho rằng, dân chủ là sản phẩm của quan hệ giai cấp,
là tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền đối với xã hội.
- Ý kiến thứ hai hiểu khái niệm dân chủ bao hàm ba nội dung cơ bản là
nội dung chính trị (dân chủ chính trị), nội dung văn minh nhân đạo (dân chủ
xã hội là thành quả quan trọng nhất của văn minh và nhân đạo của loài người)
và nội dung xã hội của dân chủ (dân chủ xã hội là hình thức tồn tại của xã hội
hiện đại).


9

- Ý kiến thứ ba cho rằng, dân chủ cần được xem xét theo nhiều khía
cạnh, nhưng với nghĩa chung nhất, phổ biến nhất, dân chủ là quyền lực thuộc
về nhân dân.
- Ý kiến thứ tư của một số nhà khoa học, tôn vinh dân chủ là một công
trình bi tráng trong hàng chục vạn năm của loài người. Đó là khát vọng, lý
tưởng chung mà hàng triệu con tim và khối óc cùng hướng tới, đấu tranh
không mệt mỏi để giành lấy dù phải hy sinh xương máu. Dân chủ là khát vọng
mà chính chúng ta đang vươn tới.
- Ý kiến thứ năm cho rằng, dân chủ không chỉ là một vấn đề chính trị
hay xã hội, mà xét theo bề sâu chính là một vấn đề văn hóa. Bởi thế, xử lý vấn
đề dân chủ không thể tách rời khỏi mối quan hệ truyền thống - hiện đại trong
văn hóa. Dân chủ còn là một yếu tố của văn hóa, một thành tựu của văn hóa
đã có từ lâu đời trong truyền thống văn hóa của dân tộc. Theo các nhà kinh
điển: dân chủ là sản phẩm tự quyết của nhân dân, phản ánh sự tồn tại của con

người với tất cả ý trí, tài năng và lợi ích của họ; dân chủ là sản phẩm của đấu
tranh giai cấp; quyền dân chủ bị chế định bởi tương quan giai cấp, trạng thái
phát triển của sản xuất và trình độ văn hóa chung, trước hết là văn hóa chính
trị của nhân dân; dân chủ là một hình thức Nhà nước mà ở đó thừa nhận
quyền ngang nhau của dân cư trong việc xác định cơ cấu nhà nước và quản lý
xã hội [53, tr.129-130-131].
Như vậy, dân chủ là vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có nội dung rộng lớn
và luôn luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người.
Để hiểu rõ bản chất, nội dung và tính chất của dân chủ, phải xem xét nó dưới
nhiều góc độ, khía cạnh: là phương thức của phong trào chính trị xã hội của
quần chúng; là hình thức nhà nước, hình thức tổ chức và thực hiện quyền lực
xã hội; là một hệ thống quyền hành, tự do và trách nhiệm của công dân được


10

quy định bởi hiến pháp và pháp luật; là nguyên tắc tổ chức toàn thể xã hội và
với tư cách là một chế độ chính trị.
Tuy tiếp cận vấn đề dân chủ dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng chung
quy lại các ý kiến đều thống nhất ở luận điểm: Dân chủ là quyền lực thuộc về
nhân dân. Như vậy, dù xem xét dân chủ dưới góc độ nào thì thực chất bản
chất, nội dung, tính chất và khuynh hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn
phụ thuộc vào chỗ quyền lực chính trị thuộc về tầng lớp nào, giai cấp nào và
phục vụ cho tầng lớp nào, giai cấp nào trong xã hội đó. Và điều đó lại lần nữa
chứng minh thêm cho tính đúng đắn của luận điểm: sự khác nhau về chất giữa
dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ tư sản.
Trên thực tế thì chưa có một xã hội nào đạt được tình trạng dân chủ
tuyệt đối do nhiều lý do khách quan và chủ quan như: trình độ phát triển kinh
tế - xã hội, năng lực nhận thức của công dân và của chính quyền, truyền thống
lịch sử, văn hóa pháp quyền...Vì thế, đối với đất nước Việt Nam ta thì dân chủ

còn được hiểu như một mục tiêu phấn đấu của dân tộc như đã ghi rõ trong
Hiến pháp là: thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh. Những mục tiêu đó đều có mối liên hệ, gắn bó lôgic với nhau.
Dân có giàu thì nước mới mạnh. Có dân chủ thì mới có công bằng xã hội. Có
dân chủ thực sự thì dân mới giàu và quốc gia mới mạnh. “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong [33, tr.554]. Đất nước giàu
mạnh, xã hội công bằng và dân chủ là những yếu tố không thể thiếu được của
một nền văn minh và một đất nước phồn thịnh. Với mục tiêu phấn đấu như
vậy, việc phát huy dân chủ ở cơ sở được coi là chủ trương, biện pháp và là
hành động tất yếu của nhân dân và chính quyền trong quá trình phát triển của
đất nước Việt Nam.
Dân chủ được bảo đảm và phát huy bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiên,
việc thực thi dân chủ phải luôn gắn liền với mối quan hệ giữa nhà nước và


11

nhân dân. Ở nước ta hiện nay, hệ thống chính trị dựa trên thiết chế “ Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Việc phát huy, thực hiện dân
chủ được tiến hành không tách rời khỏi thiết chế này.
Trong lịch sử, từ khi giai cấp và nhà nước xuất hiện, dân chủ được tổ
chức thành chế độ dân chủ như hình thức thể hiện và biểu đạt quyền lực của
chế độ nhà nước. Chế độ nhà nước nào cũng mang tính chất giai cấp, nó thực
hiện và bảo vệ lợi ích và quyền lực của một giai cấp nhất định, đó là giai cấp
thống trị. Mọi nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) trước chủ nghĩa xã hội
thường chỉ là dân chủ do một thiểu số thuộc giai cấp thống trị. Chỉ đến xuất
hiện chủ nghĩa xã hội, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thực sự là nền dân
chủ cho đa số dân chúng trong xã hội. Theo Lênin: “không có chế độ dân chủ
thì chủ nghĩa xã hội không thực hiện được theo hai nghĩa sau đây: (1) giai cấp
vô sản không thể hình thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ

không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho
chế độ dân chủ; (2) chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi
của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu
không thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ [27, tr.167].
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, Nhà nước Xô viết - chế
độ dân chủ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời. Theo Lênin: “ chế độ
Xô viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nhân dân; đồng
thời, nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện
trong lịch sử thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô
sản hay là chuyên chính vô sản” [28, tr.184].
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam Á được thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đã trở thành người
chủ của đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, Miền


12

Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân Miền Bắc đã trở thành người chủ của
mọi quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và hệ
thống chính trị xã hội chủ nghĩa được thiết lập trên phạm vi cả nước. Từ đó
đến nay nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã và đang được xây dựng phát huy vai
trò ngày càng to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển
và đổi mới đất nước.
Dân chủ và khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người
trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ
và quyền làm chủ đã lần lượt được nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận
thức và thể chế hóa thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng
các thiết chế chính trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đã từng
tồn tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ

nghĩa mới thực sự là chế độ dân chủ của đa số nhân dân trong xã hội, là chế
độ dân chủ của dân, do dân và vì dân.
Gần một thập kỷ xây dựng chế độ dân chủ và thực hành dân chủ, quan
niệm về dân chủ và thực hành dân chủ ở nước ta cũng diễn biến cùng với
những năm tháng đổi thay của đất nước. Dân chủ và thực hành dân chủ là một
quá trình cách mạng, không phải là một con đường thẳng tắp mà nhiều quanh
co, phức tạp. Dân chủ với tư cách là một chế độ chính trị thì việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền, trong đó cả nhà nước và công dân đều phải có trách
nhiệm xây dựng pháp luật và đặt mình dưới pháp luật, coi pháp luật là tối
thượng để đảm bảo cho nhà nước thực sự là nước dân chủ. Nghĩa là mọi tổ
chức và công dân, từ Nguyên thủ Quốc gia đến mỗi người dân đều phải “Tôn
trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật” [1].

1.1.1.2. Đặc điểm của dân chủ
Dân chủ không chỉ đơn thuần là một loạt thể chế quản lý cụ thể. Dân
chủ dựa trên nhóm giá trị, quan điểm và thực tiễn đã được nhận thức rõ. Tất


13

cả các giá trị, quan điểm và thực tiễn đó được thể hiện dưới những hình thức
khác nhau tùy theo nền văn hóa và các xã hội trên thế giới. Các nền dân chủ
phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản chứ không phải những thực tiễn thống
nhất. Đó là:
Dân chủ là hình thức chính phủ trong đó quyền lực và trách nhiệm
công dân do công dân trưởng thành trực tiếp thực hiện hoặc thông qua các đại
diện của họ được bầu lên một cách tự do. Dân chủ dựa trên các nguyên tắc đa
số cai trị và các quyền cá nhân. Các nền dân chủ chống lại các chính phủ
trung ương tập quyền và phi tập trung hóa chính quyền ở cấp khu vực và địa
phương, với nhận thức rằng tất cả các cấp độ chính quyền đều phải được tiếp

cận và phải đáp ứng người dân khi có thể.
Các nền dân chủ nhận thức rằng một trong những chức năng chính của
họ là bảo vệ các quyền con người cơ bản như tự do ngôn luận và tự do tôn
giáo; quyền được pháp luật bảo vệ bình đẳng và cơ hội được tổ chức và tham
gia đầy đủ vào đời sống kinh tế, chính trị và văn hóa của xã hội. Thường
xuyên tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng cho công dân ở độ tuổi bầu
cử tham gia. Công dân ở một nền dân chủ không chỉ có các quyền, mà còn có
trách nhiệm tham gia hệ thống chính trị. Đổi lại, hệ thống chính trị đó bảo vệ
các quyền lợi và sự tự do của họ. Các cuộc bầu cử công bằng, thường xuyên
và được tổ chức quy củ là thiết yếu đối với một nền dân chủ.
Các xã hội dân chủ cam kết với các giá trị khoan dung, hợp tác và thỏa
hiệp. Theo lời của Mahatma Gandhi: “Không khoan dung là biểu hiện của
tình trạng bạo lực và cản trở phát triển tinh thần dân chủ thực sự”. Ở Việt
Nam nền dân chủ XHCN giành được do kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh
lâu dài vì tiến bộ xã hội của nhân dân lao động. Vậy, có thể đưa ra một số đặc
điểm cơ bản về dân chủ XHCN:


14

Về chính trị: Nền dân chủ XHCN thể hiện qua sự lãnh đạo chính trị của
giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng Sản đối với toàn xã hội, thực hiện
quyền lực và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, mà trong đó có giai cấp
công nhân .
Về kinh tế: Nền dân chủ XHCN dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất chủ yếu của toàn xã hội, đáp ứng sự phát triển ngày càng cao của lực
lượng sản xuất dựa trên cơ sở khoa học công nghệ hiện đại, nhằm thỏa mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần của toàn thể nhân dân lao động .
Về văn hóa tư tưởng: Nền dân chủ XHCN lấy hệ tư tưởng Mac - LêNin
(hệ tư tưởng của giai cấp công nhân) làm nền tảng, chủ đạo đối với mọi hình

thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới (như văn học, nghệ thuật, giáo dục,
đạo đức, lối sống, văn hóa, xã hội, tôn giáo ...). Nền dân chủ XHCN ở Việt
Nam không nằm ngoài sự phát triển chung của nền dân chủ XHCN trên toàn
thế giới. Do đó, dân chủ XHCN ở Việt Nam cũng có những đặc điểm tương
đồng về bản chất của nền dân chủ XHCN nói chung. Tuy nhiên, do đặc thù
của “phương thức sản xuất châu Á”, Việt Nam không qua chế độ chiếm hữu
nô lệ nên cũng không có nền dân chủ chủ nô. Thời phong kiến, xét về thiết
chế xã hội có hình thức dân chủ làng, xã (tính tự trị làng - xã). Nếu xét về
hành vi dân chủ, thì một số triều đại cũng làm một số việc như trưng cầu ý
dân - Hội nghị Diên Hồng - (nhà Trần), hoặc tuyển dụng quan lại thông qua
thi tuyển, không phân biệt đẳng cấp, giai cấp để chọn người tài đảm trách
công việc quốc gia. Từ khi bị thực dân Pháp đô hộ thì nước ta không những
mất chủ quyền quốc gia mà còn mất dần những yếu tố dân chủ ngay cả ở làng,
xã.

1.1.1.3. Bản chất của dân chủ
Chỉ thị số 53-CT/TW về tăng cường công tác quần chúng của Đảng
(ngày 28/11/1984) lần đầu tiên tổng kết sáng kiến này và nâng lên thành


15

phương châm chung để áp dụng phổ biến. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
của Đảng (12/1986) đã khẳng định rất rõ: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra đó là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân
lao động tự quản lý nhà nước của mình" [28, tr. 112].
Dân biết có nhiều cấp độ. Cấp độ 1: Là sự trang bị vốn hiểu biết, tăng
thêm thông tin để nâng cao nhận thức; Cấp độ 2: Sử dụng vốn hiểu biết của
mình để tham gia vào các quyết định quản lý. Cấp độ 3: Biết là để làm, để
kiểm tra, để tự quản lý những vấn đề ở cơ sở [18, tr. 34].

Những nội dung mà qui chế dân chủ ở cơ sở nêu lên chính là hướng tới
những điều buộc Nhà nước phải cho dân được "biết", phải công khai hóa,
khắc phục các kiểu quản lý thiếu minh bạch. Một số quan điểm cho rằng, dân
chỉ cần biết những vấn đề liên quan đến cuộc sống hàng ngày ở cơ sở, còn
những vấn đề quan trọng khác thì đã có các cơ quan đại diện, có chuyên gia lo
và nghĩ. Quan điểm như vậy là không đúng với bản chất của dân chủ của chế
độ ta, dân biết không chỉ để giải quyết những vấn đề về quyền và lợi ích của
chính họ, mà quan trọng hơn còn đóng góp vào việc cải biến xã hội, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Xã hội càng phát triển, nhu cầu thông tin sẽ càng lớn, vì vậy
phải cho dân biết rộng, biết sâu. Tuy nhiên, do nhận thức có giới hạn, Đảng
cần định hướng cho dân nên biết cái nào trước, cái nào sau, nội dung nào cấp
bách, nội dung nào chưa cấp bách.
Dân bàn là gì? Bàn là tôn trọng quyền được phát ngôn, được biểu thị ý
chí, nguyện vọng của nhân dân đối với cộng đồng cũng như các cơ quan quản
lý. Không có cơ chế dân chủ thì nhân dân sẽ không có điều kiện "bàn" các
vấn đề mà họ quan tâm. Lại có ý kiến cho rằng, dân chỉ nên bàn những vấn đề
về cuộc sống trên địa bàn dân cư, liên quan đến đời sống nhân dân, còn nội
dung vấn đề quan trọng thì nên để nhà nước và các nhà khoa học bàn. Vấn đề
này đã bị thực tiễn vượt qua và phủ nhận.


16

Hãy nhớ lại Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị (khóa VI) mà nông dân
hay gọi tắt là "khoán 10" là bước ngoặt lịch sử. Có được bước ngoặt này lại
không phải từ Trung ương, mà đều xuất phát từ sáng kiến của quần chúng ở
cơ sở. Nội dung của Khoán 10 lần đầu tiên chỉ rõ:
Phát triển kinh tế nhiều thành phần và các hình thức kinh tế hỗn hợp
khác trong nông - lâm - ngư nghiệp, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm gốc. Các
gia đình phát huy sáng kiến làm ăn để tăng nguồn thu nhập cho gia đình mình

và chi tiêu hợp lý để mở rộng sản xuất, từng bước thoát khỏi tâm lý tự sản, tự
tiêu, đi vào kinh tế hàng hóa [77, tr. 75].
Bài học lịch sử cho thấy, nếu nhân dân được bàn, được nói ra những
điều họ suy nghĩ, trăn trở và quan trọng là có cơ chế thu nhận những ý kiến
của nhân dân, thì chắc chắn các quyết định đổi mới sẽ nhanh chóng ra đời,
giảm thời gian tìm tòi, mò mẫm. Đối với từng cơ sở, muốn "dân bàn" có hiệu
quả, hữu ích, tránh hình thức, đòi hỏi phải có lãnh đạo, định hướng sát sao.
Nội dung nào bàn trước, nội dung nào bàn sau; phân loại những vấn đề cần
bàn; cung cấp thêm thông tin cho nhân dân được bàn dân chủ…
"Dân làm" là sự thể hiện thành hành vi cụ thể, biến ý chí thành hành
động, gắn chặt với "dân biết, dân bàn". Ngày nay, bên cạnh lợi ích cộng đồng,
thì lợi ích cá nhân chân chính của người lao động, nhất là lợi ích kinh tế, cần
được coi trọng, để tạo động lực cho phong trào quần chúng. Ngoài những
đóng góp mang tính nghĩa vụ như thuế, đòi hỏi người dân phải phục tùng, còn
xuất hiện nhiều hình thức đóng góp tự nguyện trên các địa bàn dân cư xuất
phát từ chủ trương xã hội hóa của Đảng và Nhà nước để xây dựng các công
trình công cộng (điện, đường, trường, trạm) rất cần sự hỗ trợ của nhân dân.
Để dân làm nhiệt tình thì bản thân người lãnh đạo cũng phải gương mẫu, đi
tiên phong, có tác dụng mở đường, lôi cuốn nhân dân tham gia.


17

"Dân kiểm tra" Chủ tịch Hồ Chí Minh rất xem trọng tác dụng của công
tác giám sát, thanh tra, Người nói: "Muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn
giấy, muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng
không, muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách là khéo
kiểm soát" [51, tr. 6]. Ngày nay thì ta đã có tai mắt nhân dân ở đủ mọi nơi,
mọi chỗ. Các công trình bị rút ruột, làm ẩu, giá khống... sẽ tự nói lên sự thật
bằng cách tự sập, lún, nứt và không sử dụng được. Lúc này vấn đề còn lại là

cơ quan chức năng và các cấp có thẩm quyền xử lý, giải quyết sự thật đó như
thế nào.
Làm thế nào để công tác thanh tra, kiểm tra thực sự hiệu quả? Ta còn nhớ
chuyện Bu-ta-khin ở nước Nga: Chuyện kể Nga hoàng muốn thị sát một vùng
nông thôn để tận mắt chứng kiến dân chúng sống ra sao. Biết trước tin Nga
hoàng sẽ đến lãnh địa của mình thị sát, Bu-ta-khin liền huy động dân sửa sang
đường sá, nhà cửa, lại còn cử những người béo tốt ăn mặc sang trọng đóng giả
nông dân đứng lấp ló ở nhiều nơi để Nga hoàng tình cờ nhìn thấy. Thậm chí hắn
còn thuê họa sĩ vẽ nhiều tranh treo khắp nơi để xóm làng thêm rực rỡ. Khi Nga
hoàng đến, thấy cảnh dân chúng ấm no, hạnh phúc, rất mãn nguyện.

Sinh thời, mỗi khi chuẩn bị vào thăm nơi nào, Bác Hồ vẫn thường lấy
chuyện Bu-ta-khin để nói với những chiến sĩ cảnh vệ rằng: "Khi nào Bác đến
đâu, các chú đừng báo cho nơi đó biết trước. Biết trước sẽ có lắm chuyện bày
vẽ, phô trương hình thức. Và như vậy sẽ không làm cho Bác thấy được thực
tế. Đi tìm hiểu tình hình mà lại thiếu tiếng nói trung thực của dân thì sự thật
chỉ còn một nửa".
Thiếu sự kiểm tra của người dân, thiếu sự kiên quyết của chính quyền,
không bao giờ người dân có thể phát hiện được những vụ việc tiêu cực, không
bao giờ người đại biểu có thể nghe được tiếng nói thật của dân. Nhiều đại
biểu Hội đồng nhân dân có nhiều lần tiếp xúc cử tri, nhiều địa phương chỉ


18

"lựa" mời những cử tri là cán bộ hưu trí, đảng viên..., những người từng ăn
lương nhà nước, về họp ở hội trường xã. Vậy mới có chuyện anh nông dân tri
điền sống cả đời bao lần cầm lá phiếu đi bầu người đại diện cho mình nhưng
không một lần được gặp mặt. Vấn đề là làm thế nào để nghe được tiếng nói
thật của nhân dân? Để có hiệu quả hơn, tại sao không tiếp xúc với cử tri ngay

ở thôn, làng có thể vào cả buổi tối để gặp gỡ được những người ban ngày bận
việc [79].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bàn về vấn đề dân kiểm tra. Người cho
rằng có hai cách kiểm tra: "Một là từ trên xuống" và "Một là từ dưới lên". Từ
trên xuống tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả những việc của cán bộ
mình. Từ dưới lên là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai lầm của người
lãnh đạo và bày tỏ cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là cách tốt nhất để
kiểm soát các cán bộ nhà nước. Kiểm tra có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
phát hiện những khuyết điểm của cán bộ, công chức trong bộ máy Đảng và
Nhà nước để chấn chỉnh những sai phạm, đưa mọi hoạt động vào đúng nền
nếp. Có hình thức khen thưởng, động viên, cổ vũ để thu hút nhân dân vào quá
trình kiểm tra các hoạt động của hệ thống chính trị. Nhân dân có thể phát hiện
ra được các vụ việc sai phạm ở dạng "định tính", nhưng thiếu nghiệp vụ để
"định lượng" sự sai phạm. Đa số các trường hợp dân kiểm tra là phát hiện và
kiến nghị để các cơ quan có đầy đủ nghiệp vụ, thẩm quyền làm sáng tỏ mức
độ sai phạm của cán bộ, công chức.

1.1.1.4. Mối quan hệ của dân chủ và kỷ cương, pháp luật
Dân chủ và Nhà nước pháp quyền là cặp “song sinh” trong một thể chế
chính trị hiện đại. Cùng việc đảm bảo dân chủ phải xây dựng, hoàn thiện pháp
luật, đảm bảo tính kỷ cương, Nhà nước pháp quyền phải thượng tôn pháp luật.
“Pháp luật phải bảo đảm được công lý và lẽ phải. Mọi hạn chế quyền tự do
của công dân phải được xem xét cẩn trọng và chủ yếu nhằm bảo vệ Tổ quốc,


×