Tải bản đầy đủ (.docx) (57 trang)

Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người và vai trò của nguồn lực con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.38 KB, 57 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC................................................................................................................1
MỞ ĐẦU..................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI............5
1.1.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người..................................5

1.1.1.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người...........................5

1.1.2.

Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của con người6

1.2.

Các vấn đề chung về nguồn lực con người ...............................................9

1.2.1.

Khái niệm về nguồn lực con người......................................................9

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lực con người............................11
1.2.3. Nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa...............................13
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI...............................................................18
2.1. Nhận thức của Đảng về nguồn lực con người thời kì trước đổi mới ...........19


2.2. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người trong thời
kì đổi mới ...........................................................................................................20
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ CỦA NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG CÁCH
MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA............................................................................29
3.1. Vai trò của nguồn lực con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa...........29
3.1.1. Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực kinh tế...............................29
3.1.2. Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực chính trị............................30
3.2.3. Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hoá.............................31
3.1.4. Vai trò nguồn lực con người trong lĩnh vực xã hội ...............................32
3.1.5. Vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực KH-CN .............................33
3.1.6. Vai trò của sinh viên, thanh niên là động lực chủ yếu. .........................35
3.2. Thực trạng và giải pháp để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt
Nam hiện nay...................................................................................................38
3.2.1. Thực trạng về nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay.....................38


3.2.2. Những phương hướng và giải pháp phát huy nguồn lực con người ở
Việt Nam hiện nay............................................................................................43
KẾT LUẬN.............................................................................................................54
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................55


MỞ ĐẦU
Nguồn lực con người là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của
mỗi quốc gia. Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự
phát triển của các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát
triển nguồn nhân lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên
thiên nhiên, nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội, hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba
thập kỷ.

Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực
được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng
phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển
tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng
những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn,
hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho
giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế. Vì vậy,
qua mỗi giai đoạn lịch sử Việt Nam, Đảng ta luôn đề ra các chiến lược để xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa, phát triển nguồn nhân lực vững mạnh. Hiện nay, trong
bối cảnh toàn cầu hóa, đất nước đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước thì việc nhận thức về nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với
cách mạng xã hội chủ nghĩa là thực sự cần thiết. Vì vậy, là một sinh viên chuyên
ngành chủ nghĩa xã hội khoa học thì việc nghiên cứu về sự phát triển nhận thức
của Đảng ta về nguồn lực con người và vai trò của nó đối với cách mạng xã hội
chủ nghĩa là phù hợp với ngành học và cần thiết cho sự bổ sung, củng cố thêm kiến
thức. Vì vậy, tôi xin chọn đề tài “Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt


Nam về nguồn lực con người và vai trò của nguồn lực con người trong cách mạng
xã hội chủ nghĩa’’ làm đề tài nghiên cứu để kết thúc học phần môn …


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ CON
NGƯỜI VÀ CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người

1.1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
1.1.1.1. Con người là một thực thể sinh học xã hội
Con người là sản phẩm của tự nhiên , là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh , con người tự nhiên là con người sinh học mang bản chất tính sinh
vật , cái sinh vật trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá
trình tâm lý trong con người , là điều kiện quyết định sự tồn tại của con người .
Chẳng hạn , đã là con người thì ai cũng phải trải qua các giai đoạn sinh trưởng , tử
vong , ai cũng có nhu cầu ăn , ở , đi lại , sinh hoạt văn hoá , tình cảm hiểu biết .
Song con người không phải là động vật thuần tuý vì họ biết tiến hành lao động sản
xuất ra của cải vật chất để thoả mãn nhu cầu sinh học của mình và cộng đồng .
Chính lao động sản xuất là yếu tố quyết định hình thành và phát triển con người và
ý thức của họ , tạo ra nền văn hoá vật chất và tinh thần . Có lao động con người
mới được coi là sản phẩm của xã hội . Trong quá trình lao động sản xuất ra của cải
vật chất , con người có mối quan hệ với tự nhiên (LLSX), đồng thời giữa con
người cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau (QHSX). Chính vì con người là sản
phẩm của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự
nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng . Các quy luật tự nhiên tác
động tạo nên phương diện sinh học con người . Các quy luật tâm lý ý thức , hình
thành nên các mặt xã hội trong con người . Hệ thống quy luật trên cùng tác động
vào con người tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh giữa cái sinh học và cái xã hội
trong con người . Trong quá trình cải biến tự nhiên con người cũng đã làm ra lịch
sử của mình , do đó con người không những là sản phẩm của tự nhiên-xã hội mà
còn là chủ thể cải tạo tự nhiên xã hội , với hoạt động lao động sản xuất , con người
đã sáng tạo ra trong toàn bộ nền văn hoá vật chất tinh thần , với hoạt động cách
mạng , con người viết thêm những trang sử mới cho chính mình . Mặc dù tự nhiên
và xã hội là những mặt vận động theo những quy luật khách quan song quá trình
hành động của con người luôn luôn tìm cách hạn chế hoặc mở rộng phạm vi tác


động của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình , không thể có

xã hội và phát triển của xã hội , lịch sử nếu không có con người với tư cách là chủ
thể lịch sử .
1.1.1.2.
Bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển thì phải tiêu dùng một lượng nhu yếu
phẩm cần thiết đảm bảo nhu cầu sinh học . Song những thứ ấy không phải là quà
tặng của tạo hoá ban cho mà nó là sản phẩm của quá trình lao động của con người .
Vì thế , quá trình sản xuất ra của cải vật chất là hoạt động tất yếu của loài người .
Chính lao động đã phân định danh giới giữa người với động vật khác , lao động là
hoạt động xã hội , nên mọi sự khác biệt giữa con người và động vật đều là kết quả
của cuộc sống con người trong xã hội . Phần “xác” là bộ phận sinh học trong con
người cũng nhờ có lao động mà khác con vật . Một cá thể sinh học muốn tồn tại và
phát triển được thì nhất thiết phải sống trong xã hội và được xã hội đào luyện .
Như vậy , cá nhân là một thực thể xã hội và bản chất của con người có tính lịch sử
cụ thể . Vì lẽ đó mà bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội ,
không chỉ tổng hoà các mối quan hệ trong hiện tại mà cả trong quá khứ .
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vị trí, vai trò của con người [19]
Với sự ra đời của triết học Mác, vấn đề con người đã được nhìn nhận, đánh
giá và lý giải một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. Đặc biệt, triết học Mác đã
có những phân tích hết sức đúng đắn và khoa học về vị trí, vai trò của con người
đối với sự phát triển xã hội. Vai trò quan trọng không thể thay thế của con người
trong tiến trình phát triển lịch sử thể hiện tập trung trên một số điểm cơ bản sau:
Trước hết, bằng hoạt động cải biến tự nhiên theo nhu cầu mục đích của
mình, đối tượng hoá lực lượng bản chất của mình thông qua thực tiễn, con người
đã tự khẳng định và thể hiện vai trò động lực đối với sự phát triển của xã hội. Nhờ
hoạt động lao động, con người không chỉ tạo nên bước chuyển quan trọng của
mình, “tách” khỏi thế giới động vật để trở thành con người theo đúng nghĩa của từ
này, mà còn "tự nhân đôi mình lên một cách tích cực, một cách hiện thực”
[10,tr120]



V.I. Lênin cũng chỉ rõ rằng, con người là nhân tố quyết định, làm biến đổi
thế giới bằng chính những hành động thực tiễn của mình. Trên cơ sở thực tiễn,
nhận thức của con người về hiện thực khách quan ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc
hơn, tiếp cận gần hơn bản chất của khách thể bằng cách sáng tạo hệ thống những
khái niệm, phạm trù và sử dụng chúng như những phương tiện nhận thức thế giới.
Quá trình vươn lên không ngừng trong nhận thức, phản ánh thế giới khách quan
cũng chính là quá trình con người tích cực hoá năng lực tư duy của mình thông qua
sự trừu tượng hoá, khái quát hoá, suy lý lôgíc để nắm bắt những quy luật vận động,
phát triển của thế giới.
Trên cơ sở đó, con người vận dụng những hiểu biết, tri thức về thế giới vào
hoạt động thực tiễn nhằm cải biến thế giới, phục vụ lợi ích của mình. Chính con
người từng bước nhận thức, khám phá những thuộc tính, bản chất, quy luật, sức
mạnh của tự nhiên và đã vận dụng, sử dụng chúng để cải biến tự nhiên theo mục
đích của mình. Nhờ con người mà tự nhiên hoang sơ đã trở thành tự nhiên nhân
tạo, thành thế giới tự nhiên mang tính người với những đặc tính hoàn toàn mới;
đến lượt nó, giới tự nhiên đã hoà nhập vào đời sống xã hội của con người như một
thành tố không thể thiếu. Đồng thời, trong quá trình tác động vào giới tự nhiên, con
người có thể hoàn thiện mọi tố chất: thể chất, trí tuệ, tình cảm, tâm lý của mình để
ngày càng thể hiện đầy đủ tư cách một thực thể thống nhất giữa cái tự nhiên - sinh
học với cái xã hội - văn hoá.
Thứ hai, do có năng lực nhận thức và cải tạo thế giới, con người đóng vai trò
là chủ thể hoạt động sáng tạo lịch sử, làm cho lịch sử vận động theo hướng tiến bộ.
Lịch sử nhân loại chính là lịch sử hoạt động của con người. Con người là chủ thể
tích cực trong quá trình phát triển xã hội và sáng tạo ra lịch sử của chính mình. Họ
là chủ thể của các quan hệ kinh tế - xã hội và mọi giá trị tinh thần của xã hội. Theo
quan niệm duy vật về lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay
(và tiếp tục sau này), suy cho cùng, được quyết định bởi sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, con người không chỉ là một
bộ phận cấu thành cơ bản mà hơn thế, còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng - kết



nối các yếu tố khác với nhau để chúng phát huy tác dụng. Với tính cách một thành
tố của lực lượng sản xuất, con người vừa là chủ thể sáng tạo và “tiêu dùng” sản
phẩm của sản xuất, vừa là một nguồn lực đặc biệt của quá trình sản xuất. V.I.Lênin
hoàn toàn đúng khi ông coi "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là
công nhân, là người lao động"[17,tr430]
Thực tế cho thấy, lao động của con người không chỉ cải biến tự nhiên, mà
còn cải biến chính bản thân con người và các quan hệ giữa con người với con
người. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn
bộ đời sống loài người”[11, tr641]
Như vậy, con người và xã hội loài người tồn tại, phát triển được không phải
là nhờ vào một sức mạnh thần bí, vô hình nào từ bên ngoài, mà chính là do hoạt
động sản xuất vật chất. Đồng thời, đây cũng là cơ sở cho các hoạt động trong đời
sống tinh thần của con người.
Con người sử dụng sức lao động của mình (cả cơ bắp lẫn trí tuệ) kết hợp với
các công cụ, phương tiện sản xuất khác để tác động vào tự nhiên, cải biến tự nhiên
nhằm thoả mãn các nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình đó, con người
còn không ngừng sáng tạo nên những công cụ lao động mới, thay đổi cách thức sản
xuất, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Lực lượng sản xuất phát triển đòi hỏi
phải thay đổi quan hệ sản xuất lỗi thời và lúc đó, chính con người - với tư cách chủ
thể các quan hệ sản xuất - bằng hoạt động thực tiễn cách mạng của mình tạo lập
nên quan hệ sản xuất mới, phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; theo đó,
tạo nên bước phát triển mới của phương thức sản xuất và của xã hội. Trong các
cuộc cách mạng xã hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm, là lực lượng tiến
hành cuộc đấu tranh đưa xã hội sang một giai đoạn phát triển mới, tiến bộ hơn. Đó
chính là vai trò tích cực của nhân tố con người trong phát triển lịch sử thông qua
quá trình thay thế hợp quy luật hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế
- xã hội khác cao hơn. Nói cách khác, thông qua quá trình đó, con người đã sáng
tạo, "viết nên" lịch sử của mình, của xã hội loài người.



Thứ ba, trong quan hệ so sánh với các nguồn lực khác của sự phát triển xã
hội, con người đóng vai trò nguồn lực trọng yếu nhất; hơn thế, còn là nguồn lực vô
tận, có thể khai thác không bao giờ cạn. Như chúng ta đã biết, sự phát triển xã hội
luôn cần đến một hệ thống các nguồn lực khác nhau, như tài nguyên thiên nhiên,
vốn, lao động,... Trong đó, con người thể hiện như một nguồn tài nguyên quý giá
nhất. Các nguồn lực vật chất ngoài con người đương nhiên là cần thiết cho sự phát
triển, song chúng là những nguồn lực hữu hạn, nghĩa là có thể bị cạn kiệt và một số
trong đó là không thể tái tạo được; hơn nữa, chúng cũng chỉ thực sự phát huy giá
trị khi được kết hợp với nguồn lực con người. Trong khi đó, nguồn lực con người
có những tiềm năng nổi trội hơn hẳn. Đặc biệt, trong điều kiện cách mạng khoa
học và công nghệ phát triển mạnh như ngày nay, trí tuệ được coi là nguồn tài
nguyên vô hạn; đồng thời, lao động trí tuệ của con người có ảnh hưởng quyết định
đối với năng suất, chất lượng lao động và do vậy, con người trở thành nguồn lực
nội sinh quan trọng nhất đối với sự phát triển bền vững.
Như vậy, có thể thấy nhân tố con người đóng vai trò cực kỳ to lớn trong lịch
sử phát triển của nhân loại. Một mặt, trong toàn bộ các nhân tố hợp thành cơ thể xã
hội, con người luôn đứng ở vị trí trung tâm; mặt khác, trong hệ thống động lực
thúc đẩy lịch sử xã hội phát triển, con người là động lực cơ bản, quan trọng nhất và
đóng vai trò quyết định.
1.2. Các vấn đề chung về nguồn lực con người [22,25]
1.2.1. Khái niệm về nguồn lực con người
"Nguồn lực con người" hay "nguồn nhân lực” là khái niệm được hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là
động lực của sự phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
gần đây đề cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau.
- Theo Liên Hợp Quốc thì nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước.



- Theo quan điểm của tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì nguồn nhân lực là
lực lượng lao động , là tổng thể các tiềm năng lao động của con người của
một quốc gia đã được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có khả năng huy
động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước .
- Theo Đảng cộng sản Việt Nam : Nguồn lực con người được xem xét ở các
tiêu chí: Số lượng và chất lượng con người (bao gồm cả thể chất và tinh
thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất); là tổng thể chất dự trữ,
những tiềm năng, những lực lượng thể hiện sức mạnh và sự tác động của con
người trong việc cải tạo tự nhiên và xã hội; là sự kết hợp sức lực và thể lực
tạo nên năng lực sáng tạo, chất lượng, hiệu quả hoạt động và triển vọng phát
triển mới của con người; là kinh nghiệm sống, đặc biệt là
kinh nghiệm được tích lũy qua sự nếm trải trực tiếp của con người tạo thành
thói quen, kỹ năng tổng hợp của mỗi người, của cộng đồng. Điều kiện để
nguồn lực con người đạt tới các tiêu chí đó khi: người lao động có trí tuệ
cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng
và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học,
công nghệ hiện đại đất nước.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác
nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ
bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với tư
cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản
và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc
độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng;
không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với
những tiềm năng, sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.

1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến nguồn lực con người


1.2.2.1. Về trình độ phát triển kinh tế -xã hội
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội là tấm gương phản chiếu chính xác, trung


thực mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và phát triển nguồn nhân
lực.Chất lượng nguồn nhân lực là sự phản ánh, tích hợp của mối quan hệ biện
chứng giữa các thành tố tạo nên thuộc tính bên trong quy định chất lượng nguồn
nhân lực, phản ánh trình độ văn minh của một quốc gia.Trình độ phát triển kinh tế xã hội tạo động lực, nền tảng quan trọng để nâng cao mọi mặt đời sống dân cư của
một quốc gia. Kinh tế tăng trưởng và phát triển tạo điều kiện thuận lợi để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, khoản ngân sách Nhà nước nói chung và nguồn kinh tế
dư thừa trong gia đình nói riêng không ngừng tăng lên.
Như vậy, mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và kinh tế-xã hội là
mối quan hệ nhân quả, quan hệ qua lại hai chiều.Kinh tế-xã hội càng phát triển
thì khả năng đầu tư của nhà nước và xã hội cho phát triển nguồn nhân lực ngày
càng tăng, tạo mọi cơ hội và môi trường thuận lợi cho phát triển nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực của quốc gia, địa phương được phát triển tốt sẽ góp phần đẩy
mạnh phát triển kinh tế-xã hội và trong vòng xoáy ốc thuận chiều này nhân tố nọ
kích thích nhân tố kia phát triển.
1.2.2.2. Về giáo dục và đào tạo
Sự phát triển của hệ thống giáo dục ở mỗi quốc gia có tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển nguồn nhân lực phục vụ các quá trình kinh tế - xã hội của chính
mỗi quốc gia và ngược lại, sự phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân ở một
quốc gia hay vùng lãnh thổ nào đó diễn ra chậm chạp, kém thích ứng thì chính
quốc gia ấy sẽ gặp bất lợi trong quá trình phát triển. Trình độ phát triển của hệ
thống giáo dục quốc dân, đặc biệt là hệ thống đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao càng kém hoàn thiện, kém hiệu quả bao nhiêu thì chất lượng nguồn nhân lực
được đào tạo sẽ yếu kém bấy nhiêu.
Thực tế, đã chứng minh, các quốc gia công nghiệp phát triển luôn quan tâm
thỏa đáng đến công tác giáo dục và đào tạo, ngân sách chi cho đầu tư giáo dục luôn
ở mức cao trong tổng chi ngân sách nhà nước nhằm giải phóng tối đa sức sản xuất,

nâng cao trình độ dân trí và đội ngũ cán các nhà khoa học tạo động lực cho việc
nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ vào sản xuất, đưa các


phát minh, sáng chế từ ý tưởng trên bàn giấy, trong phòn thí nghiệm đến thực tiễn
quá trình lao động sản xuất một cách nhanh nhất.
Đối với mỗi người, giáo dục và đào tạo còn là quá trình hình thành, phát
triển thế giới quan, tình cảm, đạo đức, hoàn thiện nhân cách.Còn đối với xã hội,
giáo dục và đào tạo là quá trình tích tụ nguồn vốn con người để chuẩn bị, cung cấp
nguồn nhân lực cho xã hội. Trong đó, giáo dục phổ thông là nền tảng, là cơ sở tạo
ra nguyên liệu cho đào tạo nguồn nhân lực; giáo dục nghề nghiệp trực tiếp sản xuất
ra sản phẩm cung cấp cho thị trường sức lao động. Với ý nghĩa và tầm quan trọng
ấy, đầu tư cho giáo dục được xem như là đầu tư cho phát triển.
1.2.2.3. Về y tế
Các hoạt động y tế là phần không thể thiếu được trong xã hội loài người, con
người luôn luôn có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ không những của bản thân mà của
cả gia đình mình. Không một ai lại sống mà luôn luôn khoẻ mạnh cả bởi sự thay
đổi thường xuyên của môi trường sống cùng với sự vận động của thế giới tự nhiên.
Các hoạt động y tế mà con người sáng tạo ra cũng chính nhằm mục đích điều hoà
những tác động không tốt của môi trường sống tới con người.Do đó, các hoạt động
y tế là không thể thiếu được trong đời sống con người. Tuy mỗi con người có cuộc
sống khác nhau nhưng các hoạt động y tế lại đóng vai trò tác động chung tới từng
người nhằm duy trì và phát triển giống nòi. Qua những tác động to lớn của y tế tới
đời sống con người như vậy cho nên mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh
tế, xã hội cần phải chú trọng và lấy mục tiêu chăm sóc sức khoẻ cho con người làm
gốc, định hướng cho các chương trình kinh tế – xã hội khác vì một mục tiêu chung
là phát triển bền vững. Còn nếu công tác về y tế ,sức khỏe người dân không được
quan tâm đúng mức sẽ làm cho nguồn nhân lực suy giảm về chất lượng cũng như
số lượng ,không có khả năng lao động dẫn đến năng suất lao động giảm ,không đáp
ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực của quá trình phát triển và nó sẽ kìm hãm gây

ảnh hưởng đến nền kinh tế.


1.2.3. Nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

1.2.3.1. Con người là nguồn lực quan trọng
a. Con người là nhân tố chủ chốt, sử dụng các nguồn lực khắc phục vụ cho quá
trình CNH –HĐH .
Các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên... nó đều chỉ tồn tại ở
dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực khi kết
hợp với nguồn lực con người thông qua sự hoạt động ý thức của con người. Bởi lẽ
con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí biết lợi dụng các
nguồn lực khác gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cũng tác
động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác chịu sự cải
tạo, khai thác của con người và nói đúng thì chúng đều phục vụ nhu cầu, lợi ích
của con người nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu
tố thì yếu tố con người quan trọng nhất. Chẳng hạn như vốn, tài nguyên là những
nguồn lực để tiến hành CNH-HĐH nhưng chúng chỉ trở thành nguồn lực quan
trọng và cấp thiết cho sự phát triển khi nằm trong tay của người biết khai thác và
sử dụng chúng. Thiếu sự hiện diện của con người thì mọi nguồn lực đều trở nên vô
nghĩa .

b. Các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt còn nguồn lực con
người là vô tận .
Nguồn lực con người không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà
còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội nếu biết
chăm lo, bồi dưỡng hợp lý. Đó là cơ sở để làm cho năng lực và hoạt động thực tiễn
của con người phát triển như một quá trình vô tận. Nhờ vậy con người đã từng
bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài nguyên mới, nhiều

công cụ sản xuất mới, đưa xã hội chuyển qua các nền văn minh từ thấp đến cao .


c. Trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn
Một khi nó được vật thể hoá để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.Sự
phát triển vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại đang
dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế
trí tuệ (mà gọi là tri thức).Ở những nước này lực lượng sản xuất trí tuệ ngày càng
phát triển và chiếm tỷ trọng cao. Nguồn lợi mà họ thu được từ lao động chất xám
chiếm tới 1/2 tổng giá trị tài sản quốc gia. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đạt đến
mức nhờ có cuộc cách mạng con người có thể tạo ra những máy móc "bắt chước"
hay phỏng theo những đặc tính trí tuệ của chính con người. Rõ ràng bằng những kỹ
thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con người mà ngày nay nhân
loại đang chứng kiến sự biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình.

d. Cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp
hóa-hiện đại hóa ở Việt Nam


Cơ sở lý luận: Xuất phát từ nhận thức khách quan, trên nền tảng của chủ

nghĩa Mác - Lê-nin:
Dù ở thời đại nào, hay hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng luôn
giữ vai trò quyết định, tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển của lịch sử xã hội,
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời tới nay luôn chăm lo phát triển nguồn nhân
lực, nhất là trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.Trong các nhân tố tạo nên sự phát triển
kinh tế-xã hội thì nhân tố con người có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng.
Ở nước ta hiện nay, cùng với quá trình đổi mới toàn diện đất nước và bước
vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) thì chúng ta

càng nhận thức được vị trí, vai trò lớn lao của nhân tố con người.
Nói đến CNH, HĐH là nhằm mục đích phát triển toàn diện ba hệ thống: kinh
tế - xã hội - môi trường, để phát triển toàn diện con người. Phát triển người là đặc
trưng bản chất của xã hội chủ nghĩa, con người là chủ thể, là nhân tố năng động


nhất, sáng tạo nhất trong mối quan hệ của ba hệ thống đó. Trình độ phát triển kinh
tế ở một quốc gia thì khả năng trí tuệ của người lao động mang tính quyết định.
Nói đến CNH, HĐH ở nước ta là nói đến xây dựng một lục lượng sản xuất hiện
đại, trong đó con người là lực lượng sản xuất hàng đầu.CNH, HĐH ở nước ta hiện
nay khác thời kỳ trước là ngoài việc phát triển có kế hoạch định hướng xã hội chủ
nghĩa còn lấy nhân tố thị trường để điều tiết nền kinh tế. Muốn nâng cao khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh lại chính là nhân
tố con người.Chúng ta tiến hành CNH, HĐH đất nước trong điều kiện tồn tại
những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau, tác động lẫn
nhau.Xét đến cùng để tận dụng những thuận lợi và thời cơ, khắc phục những khó
khăn và nguy cơ để “đi tắt, đón đầu” thực hiện được các mục tiêu CNH, HĐH tùy
thuộc có tính quyết định vào nhân tố con người.CNH, HĐH vì con người và dân
tộc Việt nam, bằng sức mạnh của con người và dân tộc.Việt Nam đi vào CNH,
HĐH bằng trí tuệ của mình dựa trên một nền văn hiến lâu đời của dân tộc. Trong
các yếu tố phát triển nhanh và bề vững thì nguồn lực con người Việt Nam là yếu tố
cơ bản nhất. Bởi vì nguồn lực con người Việt nam với đức tính cần cù, sáng tạo khi
đã có trình độ văn hóa, kỹ thuật, nghiệp vụ cao, có tay nghề vững sẽ là yếu tố
quyết định để tạo ra phương pháp và công nghệ hiện đại.
Nguồn lực con người là điều kiện, là yếu tố đầu vào quyết định nhất. Bởi vì
nguồn nhân lực sẽ quyết định đúng đắn phương hướng, nội dung, bước đi, biện
pháp CNH, HĐH . . .Trên ý nghĩa đó, việc phát triển nguồn nhân lực chỉ số lượng.
Có chất lượng cao, đồng bộ là vấn đề rất cấp bách và cơ bản cho sự nghiệp CNH,
HĐH .Tốc độ tăng trưởng GDP phụ thuộc vào vốn đầu tư, lực lượng lao động, đổi
mới công nghệ. Khả năng cạnh tranh tranh phụ thuộc vào lợi thế so sánh, tăng

trưởng hàm lượng trí tuệ, khả năng đáp ứng quy luật cung - cầu và sự phát triển
bền vững. Những yếu tố đó cho thấy vai trò quyết định của người lao động , chất
lượng lao động cao sẽ làm chi phí sản xuất giảm, năng suất tăng, chất lượng sản
phẩm cùng quy trình công nghệ nghiêm ngặt được bảo đảm, giảm giá thành sản
phẩm.


Do đó, “chính sách hướng vào con người” và phát triển hướng vào nguồn
nhân lực phải được đưa lên vị trí hàng đầu trong các chiến lược và biện pháp quản
lý của Nhà nước và các doanh nghiệp. Vai trò nhân tố con người được biểu hiện tập
trung ở vai trò nguồn nhân lực, nhưng nó có nghĩa rộng hơn, bao gồm những mục
tiêu, động lực, phẩm chất và năng lực của con người. Vì vậy, vai trò nhân tố con
người còn được xem xét ở vai trò của nhân tố tinh thần, tư tưởng mà sự giải phóng
tinh thần và ý thức xã hội là một xung lực to lớn, một trong những động lực căn
bản của phát triện xã hội.
Như vậy, nói đến nguồn nhân lực phát triển bao gồm : nguồn lực thiên
nhiên, nguồn lực về vốn, tín dụng, khoa học và công nghệ. . .thì nguồn lực con
người đóng vai trò quyết định nhất. Bởi vì nguồn lực con người được coi là nguồn
lực vô tận, phong phú, vô giá, quý báu nhất, duy nhất sáng tạo và có khả năng sinh
ra giá trị lớn hơn nhiều lần bản thân nó, trong quá trình sản xuất xã hội. Khả năng
sáng tạo, tích cực, chủ động của nhân tố con người cho phép khai thác tính vô tận
của đối tượng sản xuất và quy trình công nghệ. Ý thức tinh thần, đạo đức của nhân
tố con người quy định tính nhân đạo, nhân văn cho một sự phát triển kinh tế - xã
hội bền vững. Đảng ta xác định nhân tố con người lá “chủ thể của mọi sáng tạo,
mọi nguồn lực của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia”.
Như vậy, nhân tố con người là cái cốt lõi, đặc trưng xã hội, là thuộc tính xã hội, giữ
vị trí trung tâm trong tiềm năng của mọi nguồn lực con người.
Nhân tố con người phản ánh bản chất xã hội, mặt chất lượng của nguồn lực
con người, nhấn mạnh tính chất tích cự, tự giác, sáng tạo của nguồn lực con người,
trong quan hệ với kinh nghiệm, thói quen, thể lực của chủ thể.

Nói đến nhân tố con người là nói đến vai trò chủ thể một quá trình cải tiến
xã hội với những tiềm năng về phẩm chất và năng lực, coi đây là nguồn nội sinh
quyết định sự phát triển. Nó thể hiện ở chỗ một mặt, bản thân hoạt động của nhân
tố con người là một nhân tố chủ quan; mặt khác, nó xuất phát từ yêu cầu khách
quan và là sự thể hiện trên thực tế tính quy luật khách quan.Như vậy, phát huy
nhân tố con người là một quá trình bao gồm hai mặt, tích cực hóa nhân tố con
người trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng nhân tố con người.


Tích cực hóa nhân tố con người và quá trình phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng
có hiệu quả tính tích cực, tự giác, sáng tạo của con người. Nâng cao chất lượng
nhân tố con người là hướng vào gia tăng các giá trị về phẩm chất xã hội : lý tưởng,
chính trị, đạo đức, niềm tin những năng lực tổ chức, quản lý, nhận thức và hoạt
động thực tiễn.
Nếu quá trình tích cực hóa con người nhằm “hiện thực hóa” tiềm năng của
chủ thể, tạo nên động lực phát triển, thì nâng cao chất lượng nhân tố con người
thông qua giáo dục và đào tạo nhằm “tạo tiềm năng”, chuẩn bị con người cho sự
phát triển xã hội, “nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với
lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên
cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc .Là những người thừa kế xây dựng xã hội chủ
nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên”.


Cơ sở thực tiễn:
Từ kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới [25]
- Nhật bản: Sau Thế chiến II, số người không có việc làm ở Nhật bản chiếm

tới 17,5% dân số. Nhờ một loạt chính sách, trong đó có chính sách phát triển con
người, nên chỉ sau một thời gian ngắn, Nhật bản đã trở thành cường CIEM – Trung
tâm Thông tin – Tư liệu 10 quốc có nền kinh tế đứng thứ hai thế giới, và về

phương diện phát triển con người, Nhật bản cũng trở thành nước có chỉ số phát
triển HDI cao (2005: HDI 0,943; xếp thứ 11/177 nước);
- Hàn quốc: Hàn quốc trong ba thập kỷ (1961-1991), từ một nước nghèo, bị
chiến tranh tàn phá trở thành một trong những con hổ châu Á (NICs), có nền kinh
tế mạnh nhất thế giới thứ ba. Bài học chung về sự phát triển của Hàn quốc là sự kết
hợp hữu cơ các nhân tố kinh tế với các nhân tố xã hội. Về nhân tố con người, bài
học của Hàn quốc là đánh thức được “tâm thế phát triển” của cả một dân tộc. Tinh
thần tự nguyện làm thêm giờ với đồng lương thấp, thái độ sẵn sàng hy sinh vì đất
nước trong những lúc khó khăn,… đã bù đắp đáng kể cho sự thiếu hụt về vốn và
nguồn lực tự nhiên.
- Đài loan: Năm 1964, Đài Loan đã thành lập Cơ quan quốc gia về phát triển
nguồn nhân lực với nhiệm vụ giúp chính phủ quy hoạch nguồn nhân lực quốc gia.
Từ năm 1966, căn cứ vào nhu cầu phát triển định kỳ, cơ quan này đề xuất “Kế


hoạch phát triển nhân lực” mỗi năm, căn cứ theo đó mà kiểm tra, điều phối quy
hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Bài học được rút ra từ Đài loan là cơ chế
chỉnh thể điều chỉnh nguồn nhân lực quốc gia với một sách lược “ liền mạch lâu
dài”. Nguồn nhân lực là nhân tố đặc biệt cần có sự bồi dưỡng và đào tạo không
ngừng
Từ sự nghiệp đổi mới của chính nước ta trong những năm qua cho thấy, sự
thành công của công nghiệp hoá - hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào hoạch định
đường lối chính sách, cũng như tổ chức thực hiện nghĩa là phụ thuộc vào năng lực
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. Không có những nhà chính khách,
các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học công nghệ... thì khó có thể có
được những chính sách và chiến lược phát triển đúng đắn.Không có những nhà
kinh doanh tài ba thì cũng sẽ không có người sử dụng một cách có hiệu quả các
nguồn vốn, tài nguyên, công nghệ. Qua những phân tích trên chúng ta có thể thấy
được rằng, nguồn lực con người (nguồn nhân lực) là nguồn lực có vai trò quyết
định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Do vậy

muốn công nghiệp hoá hiện đại hoá được thành công thì phải đổi mới, quan tâm
đến các chính sách đầu tư cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo dục nhằm phát
triển nguồn lực con người.

CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
Vấn đề con người là nội dung cơ bản trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và Triết học Mác - Lênin nói riêng. Con người trong tư tưởng của
chủ nghĩa Mác – Lênin vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong tiến trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn về
nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, coi trọng việc
phát huy tối đa sức mạnh con người nhằm tạo động lực để giải phóng xã hội, giải
phóng con người.


2.1. Nhận thức của Đảng về nguồn lực con người thời kì trước đổi mới [26]
Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp cách mạng, Đảng ta đã nhấn mạnh
rằng: con người là vốn quý nhất và muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì
phải có con người xã hội chủ nghĩa. Với những định hướng đúng đắn của Đảng về
vị trí, vai trò của nhân tố con người, chúng ta đã xây nên những thế hệ con người
Việt Nam có lý tưởng cách mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có ý
thức rõ ràng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính những chuẩn giá trị đó
là động lực quan trọng thúc đẩy con người Việt Nam chiến đấu, lao động, học tập
và sáng tạo, đem lại những thắng lợi đáng tự hào trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng ta đã có nhiều chính sách thu hút các
nhà khoa bảng, nhà khoa học, doanh nhân giỏi tham gia vào Chính phủ để gánh
vác những công việc nặng nề, phức tạp của đất nước ngày từ ngày đầu giành độc
lập. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nhiều lần khẳng định: cán bộ
là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.

Từ những năm đầu 1960, mặc dù cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
đang diễn ra rất ác liệt, nhưng với tầm nhìn chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực có
chất lượng cao, trước mắt phục vụ cuộc kháng chiến cứu nước, nhưng về lâu dài là
phục vụ công cuộc kiến thiết nước nhà, Bộ Chính trị (khóa III) đã ra Nghị quyết về
đào tạo bồi dưỡng cán bộ, trong đó khẳng định “Muốn học sinh giỏi vào các
trường đại học, phải có kế hoạch phát triển và bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ lớp
7, lớp 8”.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất (năm 1975), nền giáo dục của nước ta
bước sang một giai đoạn cách mạng mới, cả nước tập trung hàn gắn vết thương
chiến tranh và xây dựng xã hội chủ nghĩa trên cả nước. Trước tình hình đó, Bộ
Chính trị (khóa IV) ra Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 11/01/1979 về cải cách giáo
dục, trong đó yêu cầu “Trong hệ thống giáo dục phổ thông cần mở những trường lớp phổ thông cho những học sinh có năng khiếu đặc biệt...” nhằm chuẩn bị nguồn
nhân lực chất lượng cao, nhân tài cho đất nước.


Tiếp theo Nghị quyết số 14-NQ/TW về cải cách giáo dục, Bộ Chính trị
(khóa IV) đã ban hành Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 20/4/1981 về “Chính sách
khoa học và kỹ thuật”, trong đó chỉ rõ “Trên cơ sở đảm bảo sự bình đẳng thực sự
về quyền lợi học tập cho mọi người và phổ cập giáo dục cho toàn dân, cần quan
tâm đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật giỏi, những nhân tài của đất nước”.
Tuy nhiên thời kỳ trước đổi mới, chúng ta chưa nhận thức hết những nhân tố tác
động đến phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có nhiều yếu tố liên quan đến vấn đề
con người và động lực phát triển con người. Trong suốt một thời gian dài, chúng ta
đã quá đề cao lợi ích tập thể một cách chung chung, trừu tượng, trong khi đó lợi
ích cá nhân không được quan tâm đúng mức, thậm chí rất mờ nhạt. Chính vì vậy
không tạo được động lực hoạt động của mỗi cá nhân trong xã hội.
2.2. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về nguồn lực con người trong thời kì
đổi mới [21,23,26]
Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, vấn đề con người đã được
Đảng ta đặc biệt quan tâm. Bởi lẽ đổi mới không có mục tiêu, động lực nào khác

nào khác ngoài xuất phát từ con người và vì con người. Con người vừa là chủ thể
vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự nghiệp đổi mới. Đổi mới bắt đầu từ con
người và hướng đến con người. Xuất phát từ mục đích, yêu cầu, nội dung đổi mới,
Đảng ta cũng đã nhìn nhận con người một cách cụ thể và hiện thực hơn. Con người
ở đây không phải là con người chung chung mà là con người cụ thể, con người xã
hội với tính cách là một nhân cách phát triển. Sự hoàn thiện và phát triển của mỗi
cá nhân với những nhu cầu và năng lực tự nó là nền tảng của sự phát triển xã hội.
Sự nghiệp đổi mới chỉ thành công khi từng cá nhân phát triển với tư cách là chủ thể
có ý thức. Thực tiễn đã chứng minh “không phải bộ máy, cũng không phải khâu
nào khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó mà chính là con người
với những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của đổi mới” [18,
tr. 144].


Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), đại hội khởi xướng sự nghiệp
đổi mới, đã khẳng định vai trò quan trọng của nhân tố con người và bắt đầu bằng
mệnh đề “Đổi mới tư duy” [4, tr25]. Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VI
(năm 1986), trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương có nêu “Nhân
tài không phải là sản phẩm tự phát mà phải được phát hiện và bồi dưỡng công phu.
Nhiều tài năng có thể mai một nếu không phát hiện và sử dụng đúng lúc, đúng
chỗ”.
Tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta đã thông qua
Cương lĩnh xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, trong đó ghi rõ “Giáo dục và đào tạo nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, bồi dưỡng nhiều người giỏi về
khoa học, công nghệ, kinh doanh, quản lý kinh tế, xã hội... Nhà nước có chính sách
toàn diện thực hiện giáo dục phổ cập phù hợp với yêu cầu và khả năng của nền
kinh tế, phát triển năng khiếu, bồi dưỡng nhân tài”.
“Mở rộng đào tạo nghề; bồi dưỡng nhiều người giỏi về khoa học, công nghệ,
kinh doanh, về quản lý kinh tế, xã hội và nhiều công nhân lành nghề; nâng cao

trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật cho người lao động”.
Trong văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 (khóa VII) đã
nêu “Hình thành từng bước các trường lớp trọng điểm có chất lượng cao trong các
ngành học, bậc học, cấp học; mở rộng hệ thống trường, lớp năng khiếu ở phổ
thông, xây dựng một số trường đại học trọng điểm quốc gia”.
Trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội và chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”, Đảng ta đã
đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Đại hội VII tiếp tục khẳng định
quan điểm “coi mục tiêu và động lực của sự phát triển là vì con người, do con
người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm về sự thống nhất giữa
mục tiêu của chính sách xã hội - tất cả vì con người”, “mục tiêu giáo dục và đào
tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội


ngũ lao động có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và
sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” [2, tr.
8].
Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Đại hội đưa đất nước ta
tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta khẳng
định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người là yếu tố phát triển nhanh và bền
vững. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn
hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường” [3, tr.
143].
Không chỉ thế, Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt
quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư
liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi
người đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.”[3, tr. 113]
Phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn kết quả sản xuất cũng như tạo điều kiện
cho tất cả mọi người đều được bình đẳng, có cơ hội phát triển như nhau và phát

huy năng lực của mình là sự thể hiện một cách tập trung nhất quan điểm của Đảng
lấy con người là trung tâm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Nói cách khác, thực
hiện công bằng xã hội trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và
trong từng chính sách phát triển chính là biện pháp tích cực nhất để phát triển toàn
diện con người.
Đại hội lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh “nguồn lực con
người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”,
“mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng
đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài
hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội” [6, tr. 143].


Tại Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ X, tư tưởng chỉ đạo về phát
triển nhân tài của Đảng ta được khẳng định: “Xúc tiến xây dựng một số trường đại
học của Việt Nam đạt đẳng cấp quốc tế, đào tạo nhân tài cho đất nước”. “Thực hiện
chính sách trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ
sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao... Thu
hút chuyên gia, đặc biệt là chuyên gia giỏi người Việt Nam định cư ở nước ngoài
tham gia giảng dạy, phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam”. “Thực sự tôn
vinh các doanh nhân có tài và thành đạt, đóng góp nhiều cho xã hội”.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa X tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng nêu rõ định hướng việc phát hiện, trọng dụng nhân tài
của đất nước là: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ, văn hóa đầu đàn;
đội ngũ doanh nhân và lao động lành nghề”. “Phát huy và sử dụng có hiệu quả nhất
nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác nhiều nhất tri thức của nhân
loại. Xây dựng và triển khai lộ trình phát triển kinh tế tri thức đến năm 2020”.
Đại hội lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh “Phát triển và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến

lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ,
cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế và lợi thế cạnh tranh
quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững” [8, tr. 130].
Tại Đại hội lần thứ XII Đảng ta đã khẳng định: “Phát huy nhân tố con người
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung xây dựng con người về đạo đức,
nhân cách, lối sống, trí tuệ và năng lực làm việc; xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh” [9, tr. 53]. Như vậy, vấn đề con người và phát huy nhân tố con người ở
Đại hội XII được tiếp cận một cách toàn diện và hệ thống hơn. Con người được
nhìn nhận trên cả hai phương diện cá nhân và cộng đồng, đồng thời thể hiện rõ
những điều kiện về vật chất và tinh thần đảm bảo cho con người phát triển toàn
diện hơn. Như vậy, có thể khẳng định rằng suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng của
Đảng, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam


luôn quan tâm đến vấn đề con người và phát huy nhân tố con người. Nhờ vậy, sau
30 năm đổi mới toàn diện “đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa” [9, tr. 68].
Mới đây nhất, Báo cáo chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trình bày
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng diễn ra cuối tháng 1/2016 cũng
nêu rõ về vấn đề xây dựng, phát triển văn hoá, con người: “Các cấp, các ngành
phải nhận thức đầy đủ, sâu sắc tầm quan trọng đặc biệt của văn hoá, con người;
phải thực hiện có kết quả mục tiêu xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam
phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc,
nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hoá thực sự trở thành nền tảng tinh
thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội phát triển lớn;
song bên cạnh đó còn không ít những khó khăn, thách thức phải vượt qua. Để tiếp
tục phát huy nhân tố con người một cách hợp lý, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn
cách mạng đang đặt ra hiện nay, cần phải có một hệ thống các giải pháp đồng bộ.

2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về những giải pháp nhằm phát huy
nhân tố con người ở nước ta hiện nay [21]
Thứ nhất, phát triển mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, xây dựng tiềm lực trí tuệ
- cốt lõi của nguồn nhân lực chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng
định: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu và “vì lợi ích mười năm thì phải trồng
cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” [13, tr. 222]. Trí tuệ là một trong
những chỉ số quan trọng nhất của chất lượng nhân tố con người, nhất là trong thời
đại cách mạng khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khoa học
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và sự xuất hiện của kinh tế tri thức hiện
nay. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho con
người, trước hết là với các thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Bởi
vì trong xã hội hiện đại ngày nay, không chỉ cần có những con người chuyên gia
mà còn rất cần những con người công dân, có nhân cách và trách nhiệm cao đối


với cộng đồng và xã hội. Do đó Đảng ta đã coi “Giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” [9, tr. 114]. Vì vậy quan điểm này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo,
được tất cả các cấp, các ngành, gia đình và xã hội quán triệt sâu rộng và thực thi
nghiêm túc nhằm đào tạo những “con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ
quốc, yêu đồng bào, sống tốt và làm việc hiệu quả” [9, tr. 115]… tạo nền tảng đưa
đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên để phát huy vai trò của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp đổi mới hiện
nay, cần phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng hợp lý, hiệu quả
lực lượng lao động. Đồng thời, cần kết hợp giữa nâng cao trình độ dân trí và phát
triển nguồn nhân lực đồng đều ở các vùng miền, các cộng đồng xã hội; gắn chiến
lược phát triển khoa học công nghệ với nâng cao hàm lượng trí tuệ trong nhân tố
con người. Từ chỗ có nguồn lực con người bảo đảm về chất lượng, cần xây dựng
và thực hiện những phương thức, cơ chế phát huy nguồn lực đó lâu dài và bền

vững. Vì lẽ đó, Đại hội XII của Đảng đã có chủ trương “Quy hoạch lại mạng lưới
cơ sở giáo dục nghề, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực cho đất nước, cho từng ngành, từng lĩnh vực với những giải pháp đồng bộ,
trong đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà
trường cũng như quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên
nghiệp và kỹ năng thực hành” [7, tr. 116].
Hai là tạo lập môi trường để hoàn thiện và phát triển con người. Trên cơ sở
lý luận về con người trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã khẳng định: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng
thời là chủ thể phát triển” [8, tr. 76]. Vì vậy để xây dựng con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, trước hết cần phải tạo ra một môi trường kinh
tế phát triển, môi trường chính trị ổn định, môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh,
trong đó mỗi cá nhân sống, lao động sáng tạo, cống hiến và hưởng thụ hài hòa. Đó


×