Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Nâng cao hiệu dạy học môn hoá học ở trung tâm GDNN GDTX bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn liên quan đến bài học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.61 KB, 17 trang )

NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY - HỌC MÔN HOÁ HỌC Ở TRUNG TÂM
GDNN - GDTHƯỜNG XUYÊN BẰNG VIỆC GIẢI THÍCH CÁC HIỆN
TƯỢNG THỰC TIỄN CÓ LIÊN QUAN ĐẾN BÀI HỌC
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài. (1)
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và giảng dạy bộ môn hóa học tôi
thấy: môn hóa học trong Trung Tâm GDNN-GDThường Xuyên là môn khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lí, phù hợp với thế hệ học trò thì
dễ làm cho HS thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận. Để môn học không còn
mang tính đặc thù khó hiểu tôi chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy - học môn
hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện
tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” với mục đích làm cho môn hóa học
ngày càng dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học.
1.2. Mục đích nghiên cứu. (2)
Hiện nay đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không muốn học hóa
học, ngày càng lạnh nhạt với các giá trị thực tiễn của hóa học. Do đó tôi chọn đề
tài trên là nhằm giúp học sinh của mình hiểu được các hiện tượng tự nhiên, tránh
việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa học hóa học trong
các câu ca dao-tục ngữ mà thế hệ trước để lại và có thể ứng dụng trong thực tiễn
đời sống hàng ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm
chán , xa lạ lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong
môn học.
Tìm tòi các câu hỏi thực tiễn, các câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài,
các câu ca dao mang hàm ý khoa học hóa học, các bài tập thực tiễn…Hệ thống
lại và trình bày từng vấn đề cụ thể, cách áp dụng vào từng bài học cụ thể.
Đó là mục đích thôi thúc tôi tìm tòi, nghiên cứu sáng kiến trên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu. (3)
- Các phương pháp dạy học tích cực.
- Các bài dạy trong chương trình lớp 10 – 11- 12.
- Tình hình thực tiễn ở địa phương.
- Học sinh hệ bổ túc, đặc biệt là học sinh Trung Tâm GDNN-GDTX Thiệu


Hóa (nơi tôi trực tiếp giảng dạy).
1.4. Phương pháp nghiên cứu. (4)
Trong quá trình học tập, giảng dạy và nghiên cứu kiến thức này tôi tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
- Một là nghiên cứu kĩ lý thuyết trong sách giáo khoa.
Ghi chú: (1)(2)(3) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 tự viết

1


- Hai là nghiên cứu tình hình thực tiễn ở địa phương để đưa ra những câu
hỏi sát với thực tế giúp học sinh dễ nhận thấy và nắm được vấn đề.
- Ba là nghiên cứu khả năng tiếp thu của học sinh Trung Tâm GDNNGDTX Thiệu Hóa để có những cách trình bày thật dễ hiểu, phù hợp với từng đối
tượng học sinh.
- Bốn là vận dụng phương pháp giải bài tập vào thực tiễn giảng dạy của
mình, học tập của học sinh, cũng như thu thập ý kiến phản hồi từ học sinh và
đồng nghiệp, rút kinh nghiệm sữa chữa, bổ sung, hoàn thiện hơn.
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận.
2.1.1. Cơ sở pháp lý. (5)
- Dựa trên nội dung của bộ SGK 10, 11, 12 do bộ giáo dục phát hành.
- Dựa trên bài tập của bộ sách bài tập hóa học đang dùng trong trường.
- Dựa trên nội dung của các đề thi do bộ giáo dục ra.
Ø Đó là 3 cơ sở pháp lí vững chắc để tôi chọn, nghiên cứu và viết sáng
kiến kinh nghiệm này.
2.1.2. Cơ sở lý luận . (6)
Hoá học là một môn học khó đối với học sinh vì nó là một môn khoa học
tổng hợp kiến thức của các môn khoa học tự nhiên và xã hội khác. Cho nên sau
khi học xong chương trình lớp 7 các em mới có đủ điều kiện để lĩnh hội kiến
thức của môn học này. Bên cạnh đó một số em học sinh còn cho rằng đây là một

môn học phụ nên các em chưa có ý thức để học tập tốt bộ môn. Do đặc trưng
của môn học và những quan niệm sai lầm về bộ môn cùng với sự cố gắng chưa
cao của giáo viên trực tiếp giảng dạy môn hoá học, dẫn đến kết quả học tập của
học sinh về môn hoá học ở các trường còn thấp. Từ kết quả này lương tâm và
trách nhiệm nghề nghiệp thôi thúc tôi phải làm thế nào để nâng cao chất lượng
học tập, việc làm đầu tiên là nâng cao chất lượng một giờ dạy trên lớp vì đây là
một môn học rất thiết thực với thực tế đời sống và lao động sản xuất. Nó chuyên
nghiên cứu về các chất và sựchuyển hoá của các chất, giúp ta từ các chất ban
đầu tạo ra nhiều chất mới. Nhiều sản phẩm mới và quý không thể thiếu được
trong cuộc sống để từng bước nâng cao mức sống của con người và đáp ứng
toàn bộ yêu cầu của xã hội.
2.1.3 Cơ sở thực tiễn. (7)
Phân môn Hóa học trong trường giữ một vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển trí dục học sinh. Mục đích của môn học là giúp cho học sinh hiểu
đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao cho học sinh những trí thức, hiểu biết về thế giới,
Ghi chú: (4)(5)(6)(7)Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

2


con người thông qua các bài học, giờ thực hành… của hóa học. Học hóa để hiểu,
giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở cấu tạo nguyên tử, phân tử,
sự chuyển hóa các chất bằng các phương trình phản ứng hóa học…Đồng thời
khởi nguồn, là cơ sở phát huy tính sáng tạo đưa những ứng dụng phục vụ trong
đời sống của con người. Hóa học góp phần giải tỏa, xóa bỏ hiểu biết sai lệch làm
phương hại đến đời sống, tinh thần của con người… Để đạt mục đích trong học
hóa học trong Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên thì giáo viên dạy hóa học
là nhân tố tham gia quyết định chất lượng. Do vậy ngoài những hiểu biết về hóa
học, người giáo viên dạy hóa học còn phải có phương pháp truyền đạt thu hút
gây hứng thú khi lĩnh hội kiến thức hóa học của học sinh. Đó là vấn đề cần quan

tâm và nghiên cứu nghiêm túc. Trong sáng kiến kinh nghiệm (SKKN) này tôi có
đề cập một khía cạnh “ Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở Trung Tâm
GDNN-GD Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên
quan đến bài học” với mục đích góp phần sao cho học sinh học hóa học dễ hiểu,
thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi cuốn học sinh khi học… Để hóa học
không còn mang tính đặc thù khó hiểu như một “ thuật ngữ khoa học”.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng.
2.2.1. Địa bàn nghiên cứu.(8)
Việc nghiên cứu và viết sáng kiến kinh nghiệm này là dựa vào sách giáo
khoa, một vài sách tham khảo và tình hình học tập và nghiên cứu của học sinh
Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên nơi tôi đang công tác.
2.2.2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu. (9)
Mặc dù bộ môn hoá học ở Trung Tâm GDNN - GD Thường Xuyên đóng
một vai trò rất quan trọng nhưng đã có rất nhiều em không thích học môn
này .
Phần đa học sinh không biết vận dụng vào thực tiễn. kiến thức của các
em còn yếu và trung bình chỉ cần một số phương trình khó một chút, cân
bằng phương trình sai hay khi áp dụng công thức sai sẽ dẫn tới làm bài tập
tính toán sai kết quả........ Cứ như thế càng ngày các em càng chán học, bỏ
bê học môn hóa học.
Từ những thực trạng trên tôi thấy việc viết sáng kiến kinh nghiệm trên “
Nâng cao hiệu quả dạy - học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN - GD Thường
Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” là
rất cần thiết cho giáo viên hóa học. Lúc này các em sẽ thấy hứng thú, say mê khi
áp dụng vào thực tiễn và học sinh sẽ ngày càng yêu thích học môn hóa học hơn.
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng nghiên cứu. (10)
Ghi chú: (8)(9)(10)Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 tự viết

3



Nguyên nhân dẫn đến thực tiễn đó có một số nguyên nhân cơ bản là:
- Các em chưa tìm thấy hứng thú trong quá trình học.
- Các em thấy khó, chán nản và có ý thức ỉ lại.
- Các em chưa thấy được tầm quan trọng của bộ môn.
Sở dĩ dẫn tới thực tế trên một phần chủ yếu là do giáo viên chưa tạo được
những tiết học lôi cuốn học sinh. Nên dẫn đến chất lượng thấp.
2.3. Biện pháp và phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu đề tài.
2.3.1. Các giải pháp thực hiện.(11)
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường
sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ
vào những kiến thức đã học, tìm cách giải quyết những hiện tượng ở nhà hay
những lúc bắt gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có
hiện tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường
qua các phản ứng hóa học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ
mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn của
bài học.
Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh mặc dù vấn
đề giải thích có tính chất rất phổ thông.
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường
thay cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học
sinh bất ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thường
và hàng ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh

trong quá trình học tập.
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường
thông qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh
trong khi làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn
Ghi chú: (11) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 tự viết

4


giải được toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động,
hiểu được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường
thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười. Có thể xen
vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo
không khí học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hóa.
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn
xung quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình…sau khi đã học bài
giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức
đã học tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm ở nhà
hay những lúc gặp hiện tượng hay tình huống đó. Giúp học sinh phát huy khả
năng ứng dụng hóa học vào đời sống thực tiễn.
* “Nâng cao hiệu quả dạy- học môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD
Thường Xuyên bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến
bài học” bằng cách nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường

từ đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật,
làm cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lí thuyết nếu
đề cập theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó
với thực tiễn hàng ngày.
2.3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện. (12)
* Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương tiện,
nhiều cách như: bằng lời giải thích, bằng hình ảnh, đoạn phim, bài hát… Có thể
tiến hành dạy trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay không dùng máy chiếu…
Điều này còn phụ thuộc vào giáo viên ở , căn cứ vào hoàn cảnh dạy cụ thể và
phong cách dạy khác nhau để huy động tối đa vì hiệu quả giáo dục với nội dung
đề tài này, có những kinh nghiệm có thể áp dụng cho nhiều người, nhưng có những
phong cách dạy không thể áp dụng cho giáo viên khác vì phong cách dạy “nó như
tính cách mỗi con người không thể ai cũng giống ai”nhưng đảm bảo được nội
dung dạy học theo yêu cầu của chương trình. Tôi nói vậy không có nghĩa người
giáo viên không đổi mới phương pháp giảng dạy mà mỗi giáo viên luôn phải tìm
cách đổi mới trong phong cách dạy của mình theo yêu cầu của thực tiễn hiện hành.
Có thể nói “người giáo viên như một đạo diễn cho tiết dạy của mình”.
Ghi chú: (12) Tác giả tự nghiên cứu sách giáo khoa và sách tham khảo để viết

5


* Phần ví dụ minh họa thông qua một số hiện tượng thực tiễn.
Vấn đề 1: Vai trò của ozon trong đời sống và công
nghiệp như thế nào?(13)
Ozon có khả năng cải tạo nước thải, có thể khử được các chất độc như
phenol, hợp chất xianua, nông dược, chất trừ cỏ, các hợp chất hữu cơ gây
bệnh… có trong nước thải. Ozon có thể tác dụng với các ion kim loại như: sắt,
thiếc, chì, mangan… biến nước thải thành nước sạch vô hại. Trên tầng cao khí
quyển 10-30 km quanh trái đất, ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng có

khả năng hấp thụ tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia tử ngoại làm cho
người và động vật bị đột biến gen, gây bệnh nang y… Gần đây, do công nghiệp
phát triển, các nhà máy xuất hiện khí thải, động cơ phản lực… thải vào khí
quyển một lượng bụi và khí ô nhiễm, thì ozon lại góp phần oxi hóa chất gây ô
nhiễm, cũng chính vì vậy tầng ozon bị mỏng dần. Trong vòng 50 năm gần đây,
lượng ozon bị mỏng đi 1%, có một số nơi tầng ozon bị thủng và gây ra không ít
hiện tượng như bão, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y…
Áp dụng: (14)
Đây là vấn đề có liên quan đến giáo dục môi trường. Qua bài học học sinh
tự viết
hiểu được tầm quan trọng của ozon, vừa có ý thức bảo vệ môi trường và kích
thích sự tìm hiểu vấn đề này… Giáo viên có thể đưa vào bài giảng phần ozon.
Vấn đề 2: Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối
ăn NaCl? (15)
NhiÖt ®é s«i dung dÞch lu«n lín h¬n nhiÖt ®é s«i dung
m«i.
Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất 1 atm là 100 0C, nếu cho thêm NaCl thì
lúc đó làm cho nhiệt độ của dung dịch NaCl loãng khi sôi > 100 0C. Vì vậy rau
mống sẽ mềm hơn và xanh hơn, thời gian luộc rau không lâu làm rau ít mất
vitamin và giữ được nhiều chất dinh dưỡng.
Áp dụng: (16)
Vấn đề này có thể có học sinh biết nhưng có học sinh không để ý, nhưng
nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay trong một buổi
nấu ăn, góp phần tạo nên kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết thực. Có thể chèn
vào trong bài giảng của 3 lớp 11 và 2 lớp 10.
Vấn đề 3: Tạo sao không đựng dung dịch HF trong bình đựng bằng
thủy tinh? (17)
Dung dịch HF tuy là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn được thủy
tinh. Do thành phần của thủy tinh có SiO2, cho dung dịch HF vào thì có phản ứng:
6



Ghi chú: (13) (15)(17) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6,7
(14)(16) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

SiO2 + 4HF � SiF4 �+ 2H2O
(dễ bay hơi)
Áp dụng: (18)
Đây là vấn đề bắt buộc trong quá trình dạy về flo và tính chất của HF của
lớp 10, lớp 11 giúp học sinh giải đáp được bài tập mà trong thực tiễn tránh đựng
dung dịch HF trong bình thủy tinh.
Vấn đề 4: Làm thế nào khắc được thủy tinh? (19)
- Muốn khắc được thủy tinh người ta nhúng thủy tinh vào lớp sáp nóng
chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ, vạch… vật cần khắc nhờ
lớp sáp (nến) mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào, thủy tinh sẽ bị ăn mòn ở những
nơi đã bị cạo đi lớp sáp.
SiO2 + 4HF � SiF4 �+ 2H2O
(dễ bay hơi)
- Nếu không có dung dịch HF thì có thể thay bằng dung dịch H 2SO4 đặc
và bột CaF2 (màu trắng). Nhúng thủy tinh vào lớp sáp nóng chảy, nhấc ra cho
nguội, dùng vật nhọn tạo hình, chữ, vạch… vật cần khắc nhờ lớp sáp (nến) mất
đi, rồi rắc bột CaF2 vào chỗ cần khắc, cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm kính
khác hoặc bìa cứng đặc lên trên khu vực khắc, sau một thời gian thủy tinh sẽ bị
ăn mòn ở những nơi cạo lớp sáp. Do:
CaF2 + 2H2SO4 � Ca(HSO4)2 + 2HF �
SiO2 + 4HF � SiF4 �+ 2H2O
Áp dụng: (20)
Đây là vấn đề thực tế, không những cung cấp cho học sinh phương pháp
khắc thủy tinh và còn giải thích hiện tượng đó. Giúp học sinh sẽ nhớ đến bài học
khi gặp vấn đề này. Thậm chí là cơ sở cho việc học nghề, khơi dậy niềm đam mê

học tập và khám phá, càng tốt hơn nếu học sinh được tiến hành thí nghiệm. Giáo
viên có thể đề cập đến trong bài Flo của lớp 10.
Vấn đề 5: Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn” mang hàm
ý khoa học Hóa học như thế nào? (21)
Trong đá thông thường có CaCO3. Trong nước tồn tại phương trình điện li sau:
��
� Ca2++ CO 32
CaCO3 ��

2
Khi nước chảy cuốn theo các ion Ca2+ và CO 3 . Theo nguyên lí chuyển
dịch cân bằng thì cân bằng trên chuyển dịch theo hướng chống lại sự giảm nồng
2
độ Ca2+ và CO 3 nên theo thời gian nước chảy đá sẽ mòn dần.
Áp dụng: (22)

7


Hiện tượng này hay thấy những phiến đá ở những dòng sông chảy qua nếu
Ghi chú: (19) (21) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1 và mục 3,4,5,6,7
(18)(20)(22) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

không để ý trong xây dựng sẽ có ảnh hưởng không ít, góp phần hiểu được dụng
ý khoa học hóa học qua câu tục ngữ làm cho hóa học trở nên gần gũi hơn.
Vấn đề 6: Ca dao Việt Nam có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ. Hễ
nghe tiếng sấm phất cờ mà lên” mang hàm ý của khoa học hóa học như thế
nào? (23)
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: vụ chiêm khi lúa đang trổ đòng mà có
trận mưa kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt và cho năng suất cao sau này.

Vì sao lại như vậy?
Trong ®iÒu kiÖn thêng Ni t¬ tù do vµ « xi kh«ng t¸c dông
víi nhau
Do trong không khí có : 80% khí N 2 và : 20% khí O2, khi có chớp (có tia
lửa điện) tạo điều kiện cho N2 hoạt động:
TL§
��
� 2NO
N2 + O2 ��

2NO +O2 � 2NO2
Khí NO2 tan vào nước mưa: 4NO2 + O2 +2H2O � 4HNO3

HNO3 � H+ + NO 3
(đạm)
Nhờ hiện tượng này hàng năm làm tăng 6-7 kg nitơ cho mỗi mẫu đất. Ngày
nay người ta đã chế ure (NH2)2CO từ không khí để chủ động bón cho cây trồng
và trong nền nông nghiệp hiện đại cần phải dùng nhiều phân bón và nhiệm vụ
của ngành công nghiệp hóa chất là “hướng về không khí đòi lương thực”
Áp dụng: (24)
Đây là câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống. Vấn đề
này có thể xen vào trong tiết dạy phân đạm của lớp 11 tạo cho học sinh ở nông
thôn có thể tự kiểm nghiệm trong đời sống, tự quan sát.
Vấn đề 7: Tại sao nước máy lại có mùi clo? (25)
Khi sục vào nước một lượng nhỏ clo thì sẽ có tác dụng sát khuẩn do clo tan
một phần (gây mùi) và phản ứng một phần với nước:
��
� HCl +HClO
H2O + Cl2 ��


��
� HCl + O. Oxi nguyên tử có khả
Hợp chất HClO không bền: HClO ��

năng diệt khuẩn.
Áp dụng: (26)

8


Hiện nay clo đang được sử dụng để làm sạch nước trong các nhà máy nước
để cung cấp nước trong các thành phố, thị xã, thị trấn…Giúp học sinh hiểu và
giải tỏa thắc mắc, hiểu được vai trò của hóa học và học sinh có thể kiểm nghiệm
Ghi chú: (23)(25) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6
(24)(26) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

qua thực tế. Giáo viên có thể xem vấn đề này vào phần ứng dụng của clo trong
chương trình hóa học lớp 10.
Vấn đề 8 : Tại sao sau những cơn mưa có sấm chớp thì đường xá, khu
phố… trở nên sạch quang, mát mẻ, trong lành. (27)
Do không khí có : 20% oxi nên khi có sấm chớp thì:
��
� 2O3
3O2 ��

O3 � O2 + O
Oxi nguyên tử có khả năng sát khuẩn. Nên ngoài những hạt mưa cuốn bụi
thì O3 là tác nhân làm môi trường sạch sẽ và cảm giác tươi mát.
Áp dụng: (28)
Vấn đề này nên đề cập trong bài giảng về ozon, giúp học sinh kiểm nghiệm

trong đời sống mà đôi khi có nhiều học sinh không để ý đến. Đây là hiện tượng
tự nhiên không xa lạ với học sinh.
Vấn đề 9: Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu? (29)
Ma trơi chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất là như thế này:
Trong xương động vật có chứa một hàm lượng photpho, khi chết phân hủy
một phần thành khí PH3 (photphin). Khi có lẫn một ít điphotphin, khí PH 3 tự bốc
cháy ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu lửa bay trong không khí.
PH
� P2O5 + 3H2O (cháy sáng)
PH3+4O2 ���
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là người ta gặp “ma trơi” tại các nghĩa địa càng
làm tăng thêm tính chất kịch tính.
Áp dụng: (30)
Vấn đề này phải được đề cập trong bài giảng về photpho để giải thích hiện
tượng “ma trơi” trong đời sống tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc
sống lành mạnh.
Vấn đề 10: Tại sao phải ăn muối có Iot? (31)
Ăn muối để bổ sung hàm lượng iot có trong cơ thể, trong cơ thể một người
trưởng thành có chứa 20-50mg iot chủ yếu tập trung trong tuyến giáp trạng.
Thiếu iot trong tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh như bướu cổ nặng hơn có
thể gây đần độn, phụ nữ thiếu iot có thể dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau sinh.
Mỗi ngày phải đảm bảo cho cơ thể tiếp xúc với :150 microgam iot.
Áp dụng: (32)
4

9


Điều này cần đề cập trong bài giảng về iot giúp học sinh hiểu được tại sao mọi
người phải ăn muối iot. Giúp các em tự nhận thấy tầm quan trọng của muối iot.

Cần lưu ý thêm với các em là hợp chất iot có thể bị phân hủy ở nhiệt độ
cao. Vì vậy phải nêm muối iot khi thực phẩm đã được nấu chín.
Ghi chú: (27)(29)(31) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6,7
(28)(30)(32) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

Vấn đề 11: Tại sao khi nấu, xào thịt, đậu phụ không nên cho muối ăn
vào quá sớm? (33)
Vì trong thịt chứa protein vốn có tính keo, khi gặp những chất điện li mạnh
sẽ bị ngưng tụ thành những “óc đậu” khi nấu, xào nếu như cho NaCl vào
sớm,gây khó khăn cho việc thẩm thấu vào đậu, thịt và bị đông tụ cứng lại không
có lợi cho tiêu hóa.
Áp dụng: (34)
Giáo viên có thể xen vào bài giảng của phần protein. Đây cũng là vấn đề thiết
thực bắt gặp trong cuộc sống và phục vụ thiết yếu trong chế biến thực phẩm.
Vấn đề 12: Vì sao tay một người dính cồn iot,cầm bánh mì thì có
chấm xanh trên bánh? (35)
Do cồn iot là hỗn hợp tan của ancol etylic (C2H5OH), iot gặp tinh bột tạo ra
tạo ra phức màu xanh. Điều này cũng có thể giải thích khi bôi cồn iot lên phía
trong quả chuối xanh cũng có hiện tượng tương tự. Do trong quả chuối xanh có
tinh bột. Nhưng nếu chuối chín thì không thấy hiện tượng này do chuối chín
chuyển tinh bột thành đường glucozơ. Người ta sử dụng tinh bột để nhận biết iot
và ngược lại.
Áp dụng: (36)
Điều này được đề cập khi dạy về iot lớp 10 và tinh bột lớp 12. Giúp học
sinh có thể giải thích một hiện tượng trong đời sống, cung cấp cách nhận biết
tinh bột.
Vấn đề 13: Giấm thanh (giấm ăn) là gì? Có ích gì? (37)
Trong giấm ăn có vị chua và có 3-5% là axit axit axetic (CH 3COOH). Giấm
có tác dụng tạo vị chua và có tác dụng và làm cho cơ thể có cảm giác muốn ăn
và tiêu hóa tốt, có khả năng tiêu độc sát khuẩn.

Áp dụng: (38)
Giấm ăn là một thứ gia vị gần gũi trong đời sống. Giáo viên có thể xen vào
trong bài giảng về axit axetic để học sinh liên hệ trong thực tế và hiểu biết về vai
trò giấm ăn đối với con người.
Vấn đề 14: Giáo viên hỏi học sinh: Em hãy cho biết,
nếu diện tích phần bảng đã viết càng nhiều thì diện tích
10


phần bảng không viết sẽ như thế nào và ngược lại? Tổng
diện tích của phần viết và không viết như thế nào? (39)
Học sinh sẽ trả lời được ngay là nếu diện tích phần viết càng nhiều thì diện
tích phần không viết càng ít và ngược lại. Tổng diện tích của 2 phần không đổi.
Ghi chú: (33)(35)(37)(39) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6,7
(34)(36)(38) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

Giáo viên có thể ứng dụng vấn đề này để liên hệ quy luật biến đổi tính phi kim
và kim loại trong nguyên tử của một nguyên tố. Nếu tính phi kim của nguyên tử
một nguyên tố mạnh thì tính kim loại yếu và ngược lại. từ đây có thể phát biểu
quy luật biến đổi tính phi kim và kim loại trong một chu kì, phân nhóm chính.
Áp dụng: (40)
Có thể áp dụng cách nêu vấn đề này hay một ví dụ có tính chất tương tự
để xây dựng quy luật về tính phi kim, kim loại trong một nguyên tố, tính axit
bazơ của oxit, hiđroxit của nguyên tố trong một chu kì, phân nhóm chính. Có thể
giúp học sinh học dễ nhớ hơn.
Vấn đề 15: Khi dạy về bài ankan, giáo viên có thể cách ghi nhớ tên
của 10 ankan đầu dãy đồng đẳng bằng cách đưa ra dòng đọc vần điệu: (41)
Me 1, e 2, bu 4, pro 3, pen 5, hex 6, 7 là heptan, thứ 8 là chú octan, nonan
thứ 9, decan thứ 10.
Hay: Mẹ em phải bón phân hóa học ở ngoài đồng.

Hay: Mê em phải bỏ
phí
học hành ơi người đẹp
Áp dụng: (42)
Đây là cách giúp học sinh liên hệ được ngay giữa tên gọi với số nguyên
cacbon của từng công thức và áp dụng công thức tổng quát C nH2n+2 để viết công
thức phân tử và ngược lại từ công thức phân tử có thể gọi được tên của chúng.
Vì thực tế học sinh mới học đến phần ankan nên rất khó khăn trong gọi tên và
viết công thức phân tử.
Vấn đề 16: Làm thế nào để biết dưới giếng có khí độc (CO), hoặc
nhiều khí thiên nhiên (CH4…) không có khí oxi, để tránh khi xuống giếng bị
ngạt? (43)
Trong các giếng đào đặc biệt nhiều ở vùng đồng bằng thường có khí độc
CO, CH4 ... không có khí oxi. Mà người dân chúng ta hay có thói quen xuống giếng
để tảo giếng. Đã có trường hợp tử vong một lúc nhiều mạng người vì gặp phải
giếng có khí độc CO gây đông máu, CH4… và không có oxi gây ngạt trong tích tắc,
làm người xuống cứu cũng chết. Để tránh tốt nhất không nên xuống dưới giếng
đào, nếu có xuống phải đeo bình oxi. Nếu muốn biết có khí độc hay không thì lấy
dây buộc một con gà thả xuống, nếu nó chết thì chứng tỏ có khí độc.
11


Áp dụng: (44)
Đây là một hiện tượng hay xảy ra, giáo viên nên đưa vào bài giảng để nhắc
nhở học sinh, cộng đồng… tránh những cái chết thương tâm. Vấn đề này có thể
xen vào bài dạy hợp chất của cacbon .
Ghi chú: (41)(43) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6
(40)(42)(44) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

Vấn đề 17: Gương soi có lịch sử như thế nào? (45)

Thời xưa khi muốn soi mình phải soi qua mặt nước, khi đến thời đồ đồng
thau thì gương làm bằng đồng nhưng nhanh ố, sau dần chuyển sang thủy ngân
tráng sau tấm kính phẳng, nhưng thủy ngân gây ngộ độc cho người sản xuất.
Dần dần và ngày nay người ta đã thay thế bằng bạc tráng sau tấm kính nhờ phản
ứng của anđehit với dung dịch AgNO 3/NH3 hay của dung dịch glucozơ và
AgNO3/NH3. RCHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O � RCOONH4 + 2Ag �+
2NH4NO3
Ag tạo ra bám chặt vào gương, người ta quét lên sau mặt gương một lớp
sơn dầu bảo vệ. Phích nước cũng được chế tạo theo kiểu này.
Áp dụng: (46)
Giáo viên có thể nêu vấn đề này trong các tiết dạy về anđehit, glucozơ để
học sinh hiểu được phần nào về sự tạo gương, ruột phích mà hàng ngày ai cũng
bắt gặp.
2.3.3. Tổ chức triển khai thực hiện. (47)
Việc nhìn được thực trạng của học sinh Trung Tâm GDNN – GD Thường
Xuyên Thiệu Hóa nơi tôi công tác nên tôi đã viết sáng kiến. Tôi quyết tâm triển
khai nội dung như sau:
+ Đầu tiên nêu tên đề tài nội dung nghiên cứu trước tổ nhận xét, góp ý.
+ Tiếp theo đưa đề tài đến học sinh thông qua các bài giảng, bài tập có liên
quan đến nội dung trong đề tài.
+ Lồng ghép các bài tập trong các bài kiểm tra.
+ Thu nhập tất cả các ý kiến phản hồi tổng hợp rút kinh nghiệm.
2.3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm. (48)
Trước khi chưa áp dụng đề tài sáng kiến kinh nghiệm “nâng cao hiệu
quả dạy- học môn hóa học ở TTGDNN-GDThường Xuyên Thiệu
Hóa bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan
đế bài học’’ tôi thấy kết quả học sinh như sau:
TT

Số em không yêu Số em xem đó như Số em yêu thích

thích môn học
một môn phụ
môn học

12


Số lượng

20

17

5

Tỷ lệ

47.6%

40.4%

12%

Sau khi áp dụng đề tài này vào giảng dạy tôi thấy chất lượng học sinh
được nâng cao rõ rệt. Các em đã rất hứng thú mỗi khi học.Cụ thể như sau:
Ghi chú: (45) Được tác giả trích từ nguồn tài liệu tham kháo mục 1,2,3,4,5,6
(46)(47)(48) Tác giả tự nghiên cứu SGK và Sách tham khảo lớp 10, 11, 12 để viết

Số em không yêu
thích môn học


Số em xem đó như một Số em yêu thích
môn phụ
môn học

Số lượng

5

8

29

Tỷ lệ

12%

19%

69%

TT

3. Kết luận và kiến nghị.
3.1. Kết luận.
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ
là mục đích hướng tới của từng người giáo viên có lương tâm và trách nhiệm
nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng. Người giáo viên
phải nhận thức rõ vai trò là người “thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri
thức trong từng học sinh. Trong nội dung đề tài: “Nâng cao hiệu quả dạy- học

môn hóa học ở Trung Tâm GDNN-GD Thường Xuyên Thiệu Hóa bằng việc giải
thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học” tôi đã đề cập đến một
số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có thể gặp,
tiếp xúc hàng ngày. Tôi hi vọng đây là vấn đề gợi mở tạo ra một quan niệm
trong dạy - học hóa học, mặc dù trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện
tượng có liên quan đến hóa học hết được mà tôi chỉ nêu ra một số hiện tượng.
3.2. Kiến nghị.
Qua nghiên cứu và áp dụng cho học sinh ở TTGDNN-GDThường Xuyên
Thiệu Hóa tôi thu được hiệu quả nhất định, để học tập môn hóa học của các em
có kết quả cao hơn và kiến thức vững hơn.
Tôi kiến nghị đồng nghiệp ở TTGDNN-GDThường Xuyên Thiệu Hoá góp
ý kiến thêm để đề tài của tôi hoàn thiện hơn.

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Thiệu Hoá, Ngày 12 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
13


Người thực hiện
Trịnh Đình Chung
Tạ Thị Dậu

14


DANH MỤC SÁCH THAM KHẢO


1. Bộ sách giáo khoa hóa học 10-11-12
2. Sách giáo viên 10-11-12
3. Tài liệu giáo khoa chuyên hóa học 11-12
4. Con người và những phát minh
5. Hữu thú đích hóa học
6. Du lịch trong thế giới hóa học
7. Từ điển hóa học phổ thông

NXB Giáo dục.
NXB Giáo dục.
NXB Giáo dục.
NXB Giáo dục.
NXB Thiếu nhi
NXB Văn hóa thông tin
NXB Giáo dục.

15


MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Cơ sở pháp lí

2.1.2. Cơ sở lí luận
2.1.3. Cơ sở thực tiễn
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng
2.2.1. Địa bàn nghiên cứu
2.2.2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu
2.2.3. Nguyên nhân của thực trạng nghiên cứu
2.3. Biện pháp và phương pháp chủ yếu trong nghiên cứu đề tài
2.3.1. Các giải pháp thực hiện.
2.3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện
2.3.3. Tổ chức triển khai thực hiện
2.3.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận và kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
3
3
3
3

4
4
5
12
12
13
13
13

16


17



×