Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Một số biện pháp hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của từ trong giờ học vần của lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH TÌM HIỂU
NGHĨA CỦA TỪ TRONG GIỜ HỌC VẦN Ở LỚP 1

Người thực hiện: Phạm Thị Yến
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Lê Văn Tám
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt


THANH HÓA NĂM 2018
A. MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài:
Để đáp ứng mục tiêu giáo dục đào tạo của nước ta, giáo dục Tiểu học
đang đổi mới toàn diện và đồng bộ, góp phần đào tạo những con người có tính
chủ động - sáng tạo, linh hoạt - con người trong thời đại công nghiệp hoá, hiện
đai hoá của thế kỷ 21. Đổi mới phương pháp dạy học là rất quan trọng vì hoạt
động chủ yếu trong nhà trường là hoạt động dạy và học.
Đổi mới phương pháp dạy học có nghĩa là lấy học sinh làm trung tâm theo
phương thức là dạy học tạo sự phát triển tự nhiên, lấy kỹ năng phương pháp làm
mục đích của sự lên lớp. Thầy là người tổ chức, hướng dẫn, trò là người hoạt
động, tìm tòi và chiếm lĩnh kiến thức.
Học sinh Tiểu học được giáo dục toàn diện. Mỗi môn học đều có một đặc
điểm riêng mà giáo viên phải đào sâu suy nghĩ để tìm ra phương pháp dạy học
đạt hiệu quả cao.
Học vần là môn học khởi đầu giúp trẻ chiếm lĩnh một công cụ mới để sử


dụng trong học tập và giao tiếp, đó là chữ viết. Thông qua việc học chữ, trẻ lớp 1
được tiếp thu những kiến thức rất cơ bản về con người và thế giới xung quanh.
Trong giai đoạn học vần, đơn vị ngôn ngữ cung cấp cho học sinh chủ yếu
là từ. Việc dạy học cho học sinh hiểu nội dung ý nghĩa của từ có trong bài là
quan trọng. Dạy học vần cần đảm bảo nguyên tắc dạy chữ gắn với dạy nghĩa lấy
đơn vị tiếng, từ ngữ làm đơn vị trung tâm, đảm bảo cho học sinh hiểu được
những gì mình đọc, viết, nói. Nếu học sinh chỉ đánh vần từng chữ một cách máy
móc, không biết đến ý nghĩa của từ, của câu thì kết quả học tập rất hạn chế.
Dạy học vần cần đặc biệt quan tâm đến yêu cầu giáo dục tư tưởng. Qua
từng bài học, giáo viên giúp các em có vốn hiểu biết ban đầu về quê hương đất
nước và bồi dưỡng cho các em tình cảm yêu quê hương của mình.
Phân môn học vần ở Tiểu học chỉ có ở lớp Một. Phân môn này giúp truyền
thụ cho học sinh những kiến thức cơ bản về cách đọc, viết trên cơ sở phát triển
và hoàn thiện toàn diện các kĩ năng khác (nghe và nói)
Phân môn tập đọc đối với lớp Một chính là giai đoạn sau học chữ: Là
những câu, đoạn về thiên nhiên, đất nước, gia đình, trường học, so với các lớp
trên thì ở lớp Một ngữ liệu có cách diễn đạt trong sáng, dễ hiểu, có tác dụng giáo
dục giá trị nhân văn và cung cấp cho học sinh những hiểu biết về cuộc sống và
kiến thức học ở lớp trên. Để học tốt phân môn tập đọc lớp 1và các phân môn
khác của môn Tiếng Việt ở các lớp trên thì trước hết học sinh phải học tốt phân
môn Học vần, mà trong đó việc học sinh hiểu nghĩa từ là rất quan trọng, đó
chính là nền tảng, gốc rễ của việc học môn Tiếng Việt hiệu quả. Trong thực tế,
học sinh lớp 1 chưa hiểu rõ nghĩa của từ mới. Việc hiểu nghĩa từ mới đối với các
em là khó vì các em còn bé, vốn hiểu biết, vốn từ chưa nhiều, nói câu còn chưa
2


rõ nghĩa. Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc giúp học sinh hiểu nghĩa từ,
ngay từ khi được phân công giảng dạy lớp Một, tôi đã đi sâu vào tìm hiểu và
nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của

từ trong giờ học vần ở lớp 1”.
II. Mục đích nghiên cứu:
1. Nghiên cứu SGK để nắm được nội dung chương trình, trên cơ sở lí luận
thực tiễn, phân tích những ưu điểm, tồn tại để tìm ra những biện pháp, giải pháp
hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy học sinh tìm hiểu nghĩa của từ trong
giờ học vần.
2. Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân dẫn đến những sai lầm của học sinh khi
tìm hiểu nghĩa của từ.
3. Đề xuất một số biện pháp giúp học sinh hiểu nghĩa từ trong giờ Học vần ở
lớp Một.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ
trong giờ học vần lớp Một.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện mục đích đề ra của sáng kiến này, tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
- Nghiên cứu, tham khảo tài liệu.
- Hướng dẫn chuẩn bị của học sinh.
- Sử dụng đồ dùng dạy học.
- Khai thác trên mạng.
- Tham quan và trải nghiệm thực tế.
B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:
Mục tiêu của việc giải nghĩa từ cho học sinh lớp 1 là:
1. Cung cấp cho học sinh một số kiến thức về sử dụng đồ dùng học tập để tìm
hiểu nghĩa từ.
- Qua kênh hình, tranh ảnh, để học sinh hiểu được nghĩa của các từ khoá, từ
ứng dụng, từ trong câu ứng dụng.
2. Bước đầu rèn luyện hình thành các kỹ năng:
- Quan sát kênh hình, tranh ảnh, … để tìm kiếm sưu tầm các tư liệu ở các

nguồn khác nhau.
- Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải
đáp
- Mô tả được nghĩa các từ qua tư liệu.
- Vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
3. Góp phần bồi dưỡng và giáo dục tư tưởng, hướng học sinh đến với cái hay,
cái đẹp mhằm đạt mục tiêu giáo dục học sinh phát triển toàn diện cả về trí lực và
đạo đức.
3


- Ham học hỏi, tìm hiểu.
- Tôn trọng và yêu quý Tiếng Việt
Để đạt được các mục tiêu trên, người giáo viên phải có các biện pháp phù hợp
để hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa của từ.
II. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
1. Một số đặc điểm dạy học Học vần ở lớp 1D trường Tiểu học Lê Văn Tám.
Lớp 1D gồm: 38 học sinh (Nam: 18 em, Nữ: 20 em)
a) Thuận lợi:
- Phòng học có đủ ánh sáng, quạt mát, có bảng chống lóa, sân chơi rộng rãi.
- Có một số tranh ảnh, đồ dùng đã được nhà trường trang bị phù hợp với nội
dung bài học. Nhà trường có máy tính xách tay, máy chiếu đa năng.
- Phần lớn phụ huynh quan tâm đến các em học sinh.
- Hầu hết các em học sinh được qua lớp mẫu giáo.
b) Khó khăn:
- Các em học sinh khi bước vào lớp Một gặp rất nhiều khó khăn và bỡ ngỡ
trong việc tiếp thu kiến thức. Vì ở mẫu giáo hoạt động chủ yếu của các em là vui
chơi còn khi bước vào lớp Mộ thì hoạt động chủ đạo là học tập nên còn một số
em chưa bắt nhịp được với bài học và hiểu được nghĩa từ là một thách thức với
học sinh.

- Trong lớp có một số em hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ đi làm xa
không có điều kiện để quan tâm, nhắc nhở thường xuyên tới các em.
- Còn một vài em không đi học mẫu giáo điều này thực sự khó khăn cho việc
giảng dạy của giáo viên. Vì với các em này ý thức kỷ luật, vốn từ của các em
còn hạn chế. Các em nhút nhát, thiếu tự tin khi giao tiếp với mọi người.
2. Thực trạng của việc sử dụng đồ dùng dạy học để tìm hiểu nghĩa của từ ở
phân môn học vần
Như tôi đã phân tích ở trên, phân môn học vần chỉ có ở lớp Một và người
giáo viên phải giúp các em học sinh hiểu được nghĩa của từ ngay từ bài học đầu
qua mối liên hệ với chữ cái với tiếng chỉ đồ vật, sự vật. Tuy vậy, do tiết học chỉ
có 40 phút mà khả năng tiếp thu bài và trình độ ban đầu của các em là khác
nhau. Điều này hạn chế khả năng truyền thụ kiến thức của giáo viên và lĩnh hội
kiến thức của học sinh dẫn đến việc học sinh thì đọc chay mà không hiểu được
nghĩa của từ
Giáo viên và học sinh chưa tận dụng phát huy hết các tác dụng của đồ
dùng trực quan (tranh ảnh, đồ vật) khiến cho giờ học chưa sinh động và đạt hiệu
quả chưa cao.
Ví dụ: Khi tôi dạy bài 12: i - a trong đó có từ “ba lô”. Rất nhiều em không
hiểu “ba lô” là gì khi tôi chưa cho các em quan sát đồ dùng trực quan hoặc tranh,
ảnh.
Hay khi dạy bài 16: Ôn tập trong đó có từ “thợ nề”. Học sinh không biết
“thợ nề” là gì nếu như GV không có tranh, ảnh cho HS quan sát.
4


Hay khi dạy bài 39: au - âu, trong phần từ ứng dụng có từ “lau sậy” - là
học sinh thành phố nên rất ít em biết về cây lau, cây sậy.
Vì vậy, ngay từ đầu năm , tôi đã khảo sát học sinh và đã thu được kết quả
như sau:
Sĩ số

38

Số HS hiểu nghĩa của từ
SL
SL
12
31,6%

Số HS chưa hiểu nghĩa của từ
SL
TL
26
68,4%

Trước thực trạng của vấn đề mà mình chọn để nghiên cứu, tôi thấy mình
cần phải có trách nhiệm và thôi thúc suy nghĩ, tìm ra những biện pháp tổ chức,
hướng dẫn cho học sinh hiểu nghĩa của từ trong giờ học vần.
III. Giải pháp để giải quyết vấn đề:
1. Biện pháp thứ nhất: Nghiên cứu, tham khảo tài liệu
Giáo viên là người chỉ đạo, hướng dẫn đúng với những hình thức dạy học
sinh động thì kết quả đạt được trong dạy học sẽ cao. Chính vì vậy, để đạt kết quả
cao trong giảng dạy, trong hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa của từ trong giờ
Học vần, trước hết người giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình sách
giáo khoa, các dạng bài ... để có các đã biện pháp dạy học phù hợp. Chính vì
vậy, ngay từ đầu năm, tôi đã thực hiện các hoạt động sau:
1.1.Nghiên cứu tài liệu
Tôi nhận thấy rõ việc nghiên cứu bài dạy, chuẩn bị một nội dung cũng như
phương pháp dạy học rất cần thiết và đặc biệt quan trọng. Bởi vì, chỉ có như
vậy giáo viên mới thực sự chủ động về kiến thức, về việc chuẩn bị đồ dùng dạy
học nhằm giúp cho tiết học phong phú, gây được hứng thú cho học sinh.

Trước hết, tôi nghiên cứu SGK lớp Một, bộ tranh ảnh của bộ môn Học vần và
các bộ môn khác…để hiểu rõ nội dung chương trình, nội dung kiến thức cần
truyền đạt cho học sinh. Các đồ dùng dạy học phục vụ cho việc giải nghĩa từ.
Qua nghiên cứu đã giúp tôi nắm được nội dung xuyên suốt phần học vần nên tôi
mạnh dạn đưa ra một số cách hướng dẫn học sinh tìm hiểu rõ nghĩa từ trong giờ
học vần theo nhóm bài gồm 3 dạng:
* Dạng thứ nhất: Dạng bài học âm
- Từ bài 1 đến bài 10
- Từ bài 12 đến bài 15
- Từ bài 17 đến bài 20
- Từ bài 22 đến bài 26
* Dạng thứ hai: Dạng bài học vần
- Từ bài 28 đến bài 30
- Từ bài 32 đến bài 36
- Từ bài 38 đến bài 42
- Từ bài 44 đến bài 50
5


- Từ bài 52 đến bài 58
- Từ bài 60 đến bài 66
- Từ bài 68 đến bài 74
- Từ bài 76 đến bài 82
- Từ bài 84 đến bài 89
- Từ bài 91 đến bài 96
- Từ bài 98 đến bài 102
* Dạng thứ ba: Dạng bài ôn tập âm, vần:
- Bài 11,16,21,27,31,37,43
- Bài 51,59,67,75,83,90,97,103
Việc lập ra bảng thống kê trên giúp tôi có rất nhiều thuận lợi trong việc

chuẩn bị kế hoạch giảng dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy học, giúp tôi sắp xếp được
đồ dùng dạy học thành hệ thống dễ sử dụng. Lập được bảng thống kê các dạng
bài Học vần, giúp tôi soạn được hệ thống câu hỏi kết hợp với đồ dùng dạy học
để học sinh hiểu rõ nghĩa của từ.
Khi dạy bài học âm học sinh dựa vào tranh, ảnh để thảo luận và tìm ra
được các từ khóa (tiếng có nghĩa) trong bài. Từ việc tìm được từ khóa trong bài
các em đã phần nào hiểu được nghĩa của từ đó thông qua tranh, ảnh…
Ví dụ: Bài 6
Khi học sinh quan sát bức tranh về một người đang “bẻ ngô” kết hợp với
câu hỏi họ đang làm gì? Từ đó học sinh tìm ra được từ “bẻ”: “Bẻ” là làm gẫy
cái gì đó.
1.2 Tham khảo tài liệu:
Qua thực tế giảng dạy môn học vần, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu
rất bổ ích và thiết thực. Vì vậy, ngoài trình độ học vấn đòi hỏi mỗi người giáo
viên Tiểu học cần có ý thức sưu tầm thêm các tài liệu như tranh, ảnh,…phục vụ
cho việc giải thích từ như tìm tài liệu ở các môn khác, sách, báo, từ điển,..Sau
khi nghiên cứu chương trình lớp Một và 3 dạng bài cụ thể tôi tranh thủ các thời
gian rỗi, các ngày nghỉ cuối tuần, thời gian nghỉ hè để đọc tham khảo các tài
liệu, sưu tầm, tích lũy các tranh ảnh, mô hình, vật thật. Tập trung thành hệ thống
với từng dạng bài để khi dạy dạng bài nào sẽ mang ra sử dụng một cách phù hợp
và hiệu quả. Qua sưu tầm và đọc tôi đã nắm vững được các khái niệm cơ bản để
từ đó tôi xây dựng được cách giải nghĩa từ gần gũi với học sinh.
Ví dụ : Để giải nghĩa từ “mùa xuân” (bài 100), “gió xoáy” (bài 92), “luật
giao thông” (bài 101),…tôi sưu tầm những hình ảnh có giá trị, phù hợp với khả
năng nhận thức của học sinh tiểu học và chiếu lên màn hình cho các em quan
sát. Học sinh sẽ có thể hiểu được nghĩa của từ một cách dễ dàng. Học sinh sẽ
thích thú học, giờ học tự nhiên và có hiệu quả cao.
Kết quả: Với việc nghiên cứu và tham khảo tài liệu đã giúp tôi chuẩn bị
được kế hoạch dạy học cho từng từ cần giải nghĩa sao cho có hiệu quả nhất, sử
6



dụng, khai thác triệt để kênh hình, kênh chữ trong SGK và tự làm đồ dùng dạy
học cho mỗi bài phù hợp với quá trình nhận thức của học sinh.
2. Biện pháp thứ 2: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị các điều kiện(tranh ảnh,
đồ dùng học tập, câu hỏi..) và tâm thế để học bài mới.
Với học sinh lớp Một cũng như các anh chị lớp trên việc chuẩn bị bài là
rất quan trọng và cần thiết. Việc này hình thành cho các em phương pháp học tập
bộ môn. Từ đó học sinh sẽ nắm vững phương pháp học tập bộ môn. Nhưng đối
với học sinh lớp Một thì việc chuẩn bị bài là hoàn toàn mới với các em. Chính
vì vậy, ngay từ đầu năm học, tôi rất coi trọng việc hướng dẫn các em chuẩn bị
bài cho tiết học vần. Ngay trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã hướng dẫn
phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh chuẩn bị
tâm thế trước khi đến lớp học. Đối với học sinh, trong các giờ hướng dẫn học,
tôi thường hướng dẫn các em sưu tầm tranh ảnh, báo, đồ vật thật nhằm giúp học
sinh tiếp cận với nghĩa của từ theo các bước sau:
Bước 1: Học sinh quan sát kênh hình (nếu có) trong SGK. Bước này giúp
cho học sinh tiếp cận với nghĩa của từ trong bài.
Bước 2: Tự khai thác kiến thức theo hướng dẫn của giáo viên như hỏi mọi
người, tự chuẩn bị, sưu tầm tranh ảnh,…để chuẩn bị cho việc học các kiến thức
bài học mới.
Bước 3: Giáo viên đưa ra những câu hỏi gợi mở hoặc cũng có thể là
những câu hỏi cần giải đáp của học sinh, những vấn đề chưa hiểu rõ. Để nêu
được những câu hỏi cần giải đáp thì học sinh phải vận động trí óc, phải quan sát
và phân tích kĩ những kênh hình, tranh ảnh, đoạn phim,…Với yêu cầu này, trong
thực tế đối với học sinh lớp 1 thì mỗi tiết học chỉ có 3 đến 4 em có câu thắc mắc,
thậm chí có tiết học không có thắc mắc nào để tìm ra cách giải nghĩa từ. Chính
vì vậy, khi có câu hỏi học sinh nêu ra, tôi thường động viên tinh thần học tập của
các em. Đồng thời cũng khuyến khích các học sinh khác nêu câu hỏi hay, phù
hợp để học sinh trao đổi và giải đáp.

Ví dụ 1: Khi dạy từ “ khỉ ”. Tôi cho HS quan sát tranh và hỏi:

Con gì giỏi leo, giỏi trèo, thích ăn hoa quả và hay làm xiếc?
Học sinh trả lời: Con khỉ
Ví dụ 2: Dạy từ “ tuổi thơ”
Tôi cho các em quan sát các hình ảnh sau và hỏi:
7


Các con thấy tuổi thơ của các con so với tuổi thơ của các bạn nhỏ trong tranh
có gì khác?

Qua tranh, giáo dục cho các em thấy được tuổi thơ của các em được hưởng
cuộc sống yên vui, được sống trong vòng tay ấm áp của người thân.
Từ đó các em cần biết chia sẻ, yêu thương các bạn không cùng hoàn cảnh và
lòng biết ơn ông bà cha mẹ.
Những câu hỏi đưa ra trong giờ học, kết hợp với đồ dùng học tập, các em
học sinh chú ý lắng nghe bạn hỏi. Khi thảo luận, được giải thích các em lắng
nghe sẽ hiểu rõ và ghi nhớ lâu.
Kết quả: Với các yêu cầu trên tôi đã giúp cho học sinh biết cách chuẩn bị
các điều kiện (tranh ảnh, đồ dùng học tập, câu hỏi..) để học tốt phần giải nghĩa
từ khi học bài mới. Đồ dùng học tập đã phát huy trí lực cả 2 đối tượng học sinh
Hoàn thành tốt và Hoàn thành. Tuy vậy, để làm tốt các yêu cầu trên không phải
dễ dàng thực hiện ngay được. Nhưng với mức yêu cầu từ thấp đến cao, dần dần
qua nhiều lần, nhiều tiết học, học sinh sẽ cảm thấy thích thú, tạo thói quen tìm
tòi, háo hức tìm hiểu bài học, tạo ý thức tự học, tự giác và các em thích thú với
công việc sưu tầm, háo hức để đón chờ giờ học sau, cùng nhau tìm ra các cách
giải nghĩa từ trong bài.
3. Biện pháp thứ 3: Khai thác, sử dụng đồ dùng dạy học sẵn có để giải nghĩa
từ

Từ có vai trò đặc biệt trong hệ thống ngôn ngữ, là đơn vị trung tâm của ngôn
ngữ. Để tăng cường vốn từ cho học sinh phải cung cấp từ ngữ mới, do đó công
việc đầu tiên của dạy học là làm cho học sinh hiểu nghĩa của từ. Tầm quan trọng
của việc dạy nghĩa của từ đã được thừa nhận từ bên trong phương pháp dạy
tiếng. Nó là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Dạy
nghĩa của từ là cho học sinh nắm nghĩa từ, bao gồm thêm vào vốn từ cho học
8


sinh những từ mới và những từ đã biết, làm cho các em nắm được nhiều nghĩa
và sự chuyển nghĩa của từ. Đó là phải hình thành ở học sinh khả năng phát hiện
ra những từ mới chưa biết trong văn bản cần tiếp cận. Nắm một số thao tác giải
nghĩa từ khác nhau trong ngữ cảnh khác nhau. Có thể gọi đây là nhiệm vụ chính
xác hóa vốn từ.
Việc giải nghĩa từ được tiến hành trong tất cả giờ học của môn Tiếng Việt và
kể cả các môn khác, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm thì ở
đó có dạy nghĩa từ. Để dạy nghĩa từ trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa của từ
và biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học
sinh.
Đối với học sinh lớp Một, phương pháp trực quan là phương pháp chủ yếu và
hết sức quan trong. Phương pháp trực quan xuất hiện qua phần lên lớp, trong bài
học. Để sử dụng tốt phương pháp này, người giáo viên phải có ý thức chuẩn bị
đồ dùng dạy học thật chu đáo và sử dụng đồ dùng dạy học thật thuần thục, hợp
lý.
a. Khai thác triệt để kênh hình trong SGK và tranh ảnh .
SGK Tiếng Việt hiện hành có ưu điểm là tranh ảnh minh họa được in rất
đẹp, rất phù hợp với tâm lý học sinh lớp Một. Đó là điều kiện để giáo viên sử
dụng tốt phương pháp trực quan. Bên cạnh đó, bộ tranh ảnh dạy Học vần cũng
được in rất đẹp, rõ ràng, tương đối đầy đủ và thiết thực với từng bài
Ví dụ: ở bài 42 trong SGK Tiếng Việt vẽ con hươu rất đẹp


Tôi yêu cầu học sinh quan sát tranh và tôi đưa ra các câu hỏi gợi ý sau:
- Bức tranh vẽ gì? (con hươu sao)
- Sừng của hươu sao có gì đặc biệt? (sừng hươu cong hình vòng cung)
- Đố em biết vì sao con hươu này có tên là hươu sao? (Trên mình hươu có
những chấm trắng như những ngôi sao)
Học sinh nhìn tranh là có thể trả lời ngay được câu hỏi của giáo viên.
Hay dạy từ “ chào cờ” bài 38

9


Tôi đưa ra các câu hỏi gợi sau:
- Tranh vẽ gì? (tranh vẽ buổi chào cờ đầu tuần)
- Tư thế đứng của các bạn trong tranh khi chào cờ như thế nào? (đứng
nghiêm, mắt hướng về quốc kì)
- Khi chào cờ các em cần phải làm gì? (không đội mũ nón, không làm
việc riêng)
Hoặc khi dạy từ “gà mái” ta có thể sử dụng tranh “ Con gà” để học sinh
có thể cùng lúc quan sát con gà trống và gà mái

Tôi đưa ra các câu hỏi gợi sau:
- Tranh vẽ gì? (tranh vẽ con gà trống và con gà mái)
- Gà trống và gà mái có đặc điểm gì khác nhau? (gà mái đuôi ngắn, gà
trống đuôi dài, lông thường sặc sỡ hơn gà mái)
Qua bức ảnh học sinh nêu bật được đặc điểm con gà mái. Ở đây yêu cầu
giáo viên phải sử dụng hết các tranh ảnh sẵn có.
b. Khai thác trên vật thật.
Khi dạy những từ có tính chất gọi tên sự vật cụ thể tôi sưu tầm vật thật.
Ví dụ: múi bưởi, quả cam, cái còi, bi ve, ba lô…


10


Để giải nghĩa cho từ “ba lô” khi dạy bài 12, tôi cho học sinh quan sát
chiếc ba lô thật, học sinh hiểu ngay “ba lô” là đồ vật thường để đựng đồ dùng cá
nhân và hay mang trên vai.
Để dạy từ “ củ sả” bài 21, tôi sưu tầm những hình ảnh sau để HS quan sát.

Sau đó tôi khai thác kinh nghiệm sống của các em bằng cách đặt câu hỏi:
- Trong lớp mình, có em nào đã nhìn thấy cây này? Các em thấy ở đâu?
- Đó là cây gì? Em hãy tả lại cây này cho các bạn nghe ?
- Cây này dùng để làm gì?
Hay khi dạy bài 39: au – âu trong đó có từ “lau sậy”, sau khi cho học sinh
quan sát cây lau thì các em mới nhận biết được hình dáng của cây lau.
Hoặc khi dạy học sinh tìm hiểu về múi bưởi, tôi cho học sinh quan sát quả
bưởi thật đã được bóc vỏ thành từng múi. Sau đó bóc múi bưởi để các em quan
sát tép bưởi.
Kết quả: Với việc khai thác cụ thể tất cả các hình trong SGK cũng như
tranh ảnh, vật thật đã giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức tìm hiểu được nghĩa
từ một cách tự nhiên, nhẹ nhàng và hiệu quả. Tôi đã áp dụng và dạy tốt bài 21:
Ôn tập. Tổ chức tốt cho học sinh khai thác tranh ảnh trong SGK và vật thật giúp
học sinh khai thác sâu và hiểu rõ từ khóa, cũng như từ ứng dụng.
4. Biện pháp thứ 4: Khai thác, sử dụng các đồ dùng dạy học trực quan trên
mạng
Trong thực tế giảng dạy năm trước, tôi thấy sử dụng để giải nghĩa từ cho
các em bằng kênh hình trong sách giáo khoa, tranh ảnh, vật thật cũng đã đạt
được những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng kênh hình, tranh ảnh,
vật thật thì cũng có những từ học sinh sẽ gặp khó khăn khi tìm hiểu nghĩa của từ.
Qua tìm hiểu, tôi thấy đa số các từ khóa trong bài đều có kênh hình hoặc tranh

ảnh. Còn các từ ứng dụng, thường có từ có tranh, vật thật, có từ không. Tôi đã
khai thác trên mạng để tìm tranh hỗ trợ việc giải nghĩa từ.
Ví dụ: Dạy từ “ gió xoáy” bài 92

11


Tôi yêu cầu học sinh quan sát và hỏi:
Qua quan sát hình ảnh trên con có biết đây là gió gì không?
Học sinh trả lời: gió xoáy
Hỏi: gió xoáy gây tác hại gì?
Học sinh trả lời: tàn phá hoa màu, làm hỏng nhà cửa...
Giáo viên: gió xoáy gây ra thiệt hại nặng nề đối với đời sống của người
dân...Nó cũng giống như lũ lụt cuốn đi tất cả mọi thứ.Vì vậy ở trường Lê Văn
Tám chúng ta đã có những cuộc vận động quyên góp để giúp đỡ những người bị
thiên tai.
Hay khi dạy từ khóa “ mùa xuân” (bài 100) tôi cho HS quan sát một số
cảnh về mùa xuân:

Tôi yêu cầu học sinh theo dõi và khai thác vốn hiểu biết của các em qua
các câu hỏi:
Hỏi: Nhìn vào hình ảnh trên con biết được đây là mùa gì trong năm?
Học sinh trả lời: mùa xuân.
Hỏi: tại sao con biết đây là mùa xuân?
Học sinh trả lời: vì con thấy hoa đào, hoa mai...
Đối với các từ ứng dụng không có tranh trong SGK tôi thường tìm tòi,
sưu tầm để HS quan sát. VD : Khi giải nghĩa từ “Thợ mỏ” (bài 15), tôi sưu tầm
những bức ảnh về người thợ mỏ sau đó cho học sinh quan sát, các em đoán ra
ngay được thợ mỏ chính là công nhân khai thác trong hầm mỏ.


12


Dạy từ “ ngày hội” (bài 36)

Khi cho các em quan sát hình ảnh trên, học sinh không cần câu hỏi gợi ý
cũng đã tìm được nghĩa của từ ứng dụng trong bài: Ngày hội chính là cuộc vui tổ
chức theo phong tục hoặc nhân dịp đặc biệt của làng, xã...
Ngoài sưu tầm tranh ảnh trên mạng, tôi còn sưu tầm các video, clip mô tả
các sự vật để giúp học sinh hiểu về các sự vật và nghĩa của các từ mới.
Ví dụ: Khi dạy học sinh hiểu nghĩa từ “gió xoáy”, tôi sưu tầm trên mạng
clip quay một cơn gió xoáy, đưa lên trình chiếu cho học sinh quan sát. Qua đó
học sinh cảm nhận rõ nét về hình dạng, sức mạnh, tác hại của gió xoáy.
Hay khi giúp học sinh hiểu nghĩa từ “chập chững” trong câu “bé đi chập
chững”, tôi dùng điện thoại quay lại cảnh một bé đang chập chững tập đi. Khi
dạy, tôi chiếu cho học sinh xem. Đây là cách trực quan tốt nhất để học sinh hiểu
như thế nào là đi “chập chững”
Trong Tiếng Việt, việc giải nghĩa trong câu là rất quan trọng. Vì có những
từ khi tách ra khỏi câu thì sẽ có rất nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến việc hiểu
sai nghĩa trong ngữ cảnh.
Ví du: Câu ứng dụng trong bài 61 “Con suối sau nhà rì rầm chảy. Đàn dê
cắm cúi gặm cỏ bên sườn đồi”.
Học sinh tìm được từ chứa vần vừa học từ: rầm- cắm- gặm.
Để giải nghĩa các từ này nếu chỉ dùng hình ảnh trong SGK thì học sinh sẽ
khó nhận ra. Nên tôi đã tiến hành như sau:
13


Tôi cho HS quan sát các clip đã sưu tầm trước về cảnh dòng suối chảy
(có cả âm thanh) và đàn dê gặm cỏ đã được chuẩn bị trước.

Hỏi: Qua clip trên, con có nói lại được các động tác cắm cúi, gặm cỏ của
đàn dê không? Con nghe tiếng suối chảy như thế nào?
Và thật hiệu quả, qua quan sát học sinh có thể cảm nhận và miêu tả lại các
từ khóa trong câu dễ dàng và nói được đúng nghĩa của câu, từ chính xác hơn.
Điều tôi tâm đắc hơn cả là tạo được niềm hứng khởi cho học sinh tham gia tìm
hiểu nghĩa từ, tạo ra được sự thích thú trong học tập. Theo tôi đó chính là thành
công lớn của một giờ học, là thành công của giáo viên.
Kết quả: Bằng cách sử dụng đồ dùng trực quan, học sinh lớp tôi tự phát
hiện được nghĩa của từ dễ dàng hơn. Và đặc biệt là khi tôi cho HS quan sát
những hình ảnh, video, clip hỗ trợ cho việc giải nghĩa từ tôi thấy hiệu quả thật
thú vị, học sinh sôi nổi hẳn lên. Em nào cũng háo hức muốn được trả lời câu hỏi
của cô. Có những từ qua quan sát hình ảnh các em đã giải nghĩa được nghĩa của
từ mà không cần có câu hỏi gợi ý.
5. Biện pháp thứ 5: Tổ chức cho học sinh tham quan và trải nghiệm thực tế
để hiểu nghĩa từ
Tôi luôn quan tâm đến việc giúp học sinh hiểu nghĩa các từ mới thông qua
trải nghiệm, tham quan thực tế. Trong quá trình giảng dạy, tôi hệ thống các kiến
thức bài học theo từng tuần, từng tháng, từng chủ điểm để đưa ra kế hoạch cho
học sinh tham quan, trải nghiệm thực tế. Qua các buổi tham quan, giáo viên sẽ
hướng dẫn, dẫn dắt để học sinh hiểu nghĩa các từ mới sẽ học trong tuần tới.
Tôi tổ chức cho học sinh tham quan vườn trường, cảnh quan của trường
để giúp học sinh hiểu nghĩa các từ như: lớp học, sân trường,... hay tên các loại
cây.
Hàng tháng hoặc từng giai đoạn học, tôi cùng nhà trường tổ chức cho học
sinh đi dã ngoại, trải nghiệm thực tế. Qua các buổi trải nghiệm, tôi sẽ hướng dẫn
học sinh tìm hiểu về cuộc sống xung quanh các em. Từ đó các em sẽ hiểu thêm
về nghĩa của các từ mơi.
IV. Hiệu quả:
Sau thời gian dài áp dụng ”Một số biện pháp hướng dẫn học sinh tìm hiểu
nghĩa của từ trong giờ học vần ở lớp Một”, tôi thấy hiệu quả rõ rệt:

* Về phía giáo viên:
14


- Kinh nghiệm trên giúp tôi giảng dạy tốt hơn, chất lượng, hiệu quả hơn.
- Nâng cao được năng lực chuyên môn.
- Giờ dạy nhẹ nhàng, tạo được hứng thú cho học sinh, hiệu quả cao.
* Về phía học sinh:
- Học sinh hiểu nghĩa từ mới, có khả năng sử dụng từ chính xác, vốn từ
phong phú, nói thành câu hoàn chỉnh. Chất lượng học tập phân môn Học vần
nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung được nâng lên rõ rệt.
- Học sinh hứng thú khi tìm hiểu nghĩa của từ trong giờ học vần. Các em
mạnh dạn tìm hiểu và nói về nghĩa từ mới, tự tin trong học tập và giao tiếp.
Đến đầu học kì II, tôi đã khảo sát học sinh và thu được kết quả như sau:

Sĩ số
38

Số HS hiểu nghĩa của từ
SL
30

SL
78,9%

Số HS chưa hiểu nghĩa của
từ
SL
TL
8

21,1%

Bảng tổng hợp trên cho thấy kết quả đạt được của học sinh khi tìm hiểu
nghĩa của từ đã có sự tiến bộ rõ rệt
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Qua quá trình nghiên cứu tôi mới nhận thức được hết vai trò của người
giáo viên trong việc kích thích khả năng suy nghĩ, khả năng lập luận của học
sinh, giúp học sinh chiếm lĩnh tri thức một cách có hệ thống. Trong quá trình đổi
mới phương pháp dạy học theo xu hướng trẻ là trung tâm của quá trình nhận
thức, trẻ là người chủ động tiếp cận và lĩnh hội tri thức khoa học, giáo viên chỉ
là người tổ chức hướng dẫn quá trình nhận thức của trẻ, dạy cho trẻ hiểu rõ
nghĩa của từ đóng vai trò hết sức quan trọng.
Để thực hiện kinh nghiệm trên thành công, người giáo viên phải nắm
chắc mục đích, yêu cầu cầu bộ môn, phải hiểu tâm sinh lý của trẻ mới đến
trường, phải có sự chuẩn bị chu đáo cho bài dạy của mình. Khi thực hiện người
giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học, các hình thức dạy
học.
Người giáo viên phải có lòng yêu nghề, yêu trẻ, tận tâm với nghề nghiệp.
Nếu giáo viên ngại khó, ngại khổ, thiếu thách nhiệm và lương tâm nghề
thì tất yếu sẽ dẫn đến những giờ học tẻ nhạt, làm giảm đi hứng thú học tập của
học sinh. Giáo viên phải vượt lên những khó khăn của bản thân để thực hiện
trọng trách đào tạo những mầm non cho tương lai đất nước. Giáo viên phải phải
tìm tòi, sáng tạo, luôn đổi mới trong phương pháp và hình thức dạy học để bồi

15


dưỡng cho trẻ tình cảm với môn học. Từ đó, các em có sự say mê trong việc học
tập, hứng thú tìm tòi cái mới.

II. Kiến nghị:
1. Đối với Phòng giáo dục:
Mớ các lớp chuyên đề, tập huấn về phương pháp dạy học tích cực giúp
học sinh tìm hiểu nghĩa của từ trong giờ học vần ở lớp Một.
2. Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức chuyên đề, các giờ dạy mẫu về việc giúp học sinh
lớp Một tìm hiểu nghĩa của từ để giáo viên học hỏi kinh nghiệm, nâng cao trình
độ chuyên môn.
- Tạo điều kiện, tổ chức các buổi tham quan, dã ngoại, trải nghiệm thực tế
để tăng vốn từ, vốn hiểu biết cho học sinh.
3. Đối với giáo viên:
- Nắm chắc chương trình phân môn học vần.
- Luôn tìm tòi, nghiên cứu tài liệu, sưu tầm tranh ảnh, video, clip liên quan
đến việc giải nghĩa từ cho học sinh trong giờ học vần.
- Không ngừng học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kĩ
năng sử dụng giáo án điện tử để giờ học sinh động, đạt hiệu quả cao.
Bài viết của tôi đi sâu vào vấn đề cụ thể: biện pháp giúp học sinh lớp Một
hiểu nghĩa từ của phân môn Học vần nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung với
mong muốn được trao đổi một số kinh nghiệm trong quá trình công tác với các
bạn đồng nghiệp. Tuy vậy, trong quá trình viết không tránh khỏi những thiếu sót.
Tôi cũng mong Ban giám hiệu, các đồng nghiệp có ý kiến đóng góp để bài
viết của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA
HIỆU TRƯỞNG NHÀ TRƯỜNG

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.


Phạm Thị Yến

16


MỤC LỤC
TT
A
I
II
III
IV
B
I
II
III
IV
C
I
II

Nội dung
MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phướng pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng SKKN

Giải pháp để giải quyết vấn đề
Hiệu quả của SKKN
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến nghị, đề xuất

Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
4
13
14
14
15

17



×