Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp huớng dẫn học sinh lớp 1 luyện nói thành câu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.66 KB, 12 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài.
Mỗi chúng ta ai cũng biết ngôn ngữ có một chức năng vô cùng quan trọng
trong cuộc sống con người. Nó là phương tiện để chúng ta giao tiếp hằng ngày
cũng như diễn đạt những gì ta muốn. Song để diễn đạt để mọi người hiểu được ý
nghĩ của mình thì ai cũng cần phải nắm được một vốn từ ngữ, ngữ pháp nhất
định.
Học sinh lớp một là lứa tuổi mới bắt đầu đi học nên các em chưa có vốn
ngữ pháp để nói thành câu. Vì vậy người giáo viên cần có biện pháp giúp học
sinh phát triển lời nói một cách đúng đắn. Ngôn ngữ Tiếng Việt vô cùng phong
phú và trong sáng, nếu ta nói sai lỗi hay nói chưa thành câu sẽ dẫn tới người
nghe khó hiểu đúng được nội dung thông báo.
Trong Tiếng Việt, dạy phân môn Tập đọc là môn rèn cho học sinh các kĩ
năng nghe - đọc - nói - viết và qua đó rèn kĩ năng sống cho học sinh. Bản chất
của kĩ năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá
nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác kĩ
năng sống là khả năng ứng xử phù hợp với những người khác vµ với xã hội, khả
năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống. Học nói là một trong
những kĩ năng cần thiết đối với học sinh đặc biệt là học sinh lớp một.
Mặt khác, mục tiêu của giáo dục hiện nay đang hướng tới giáo dục toàn
diện, đề cao giáo dục kĩ năng sống để giúp học sinh hoàn thiện mình một cách
toàn diện. Môn Tiếng Việt là môn học rèn cho học sinh những kĩ năng cơ bản
ban đầu để các em có cơ sở học các môn khác. Việc giúp học sinh phát triển lời
nói tự nhiên là một mục tiêu không thể thiếu được của môn học này. Nó giúp các
em làm quen với không khí học tập mới, không rụt rè, nhút nhát, mạnh dạn nói
cho các bạn nghe và nghe các bạn nói theo hướng dẫn của giáo viên trong môi
trường giao tiếp mới - giao tiếp văn hoá, giao tiếp học đường. Nếu các em nói
sai sẽ dẫn đến viết sai và sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập của môn học khác.
Xuất phát từ tầm quan trọng của ngôn ngữ nói đặc biệt là đối với trẻ em
mới bắt đầu đi học, là giáo viên dạy lớp một tôi muốn đưa ra “Biện pháp hướng
dẫn học sinh lớp một luyện nói thành câu đạt hiệu quả” mà tôi đã áp dụng trong


quá trình dạy học để trao đổi với đồng nghiệp, học hỏi thêm kinh nghiệm để
giúp học sinh luyện nói tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Giúp học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp
- Góp phần nâng cao chất lượng dạy phân môn tập đọc lớp 1 nói chung,
đổi mới phương pháp dạy học tiếng việt ở tiểu học.
1.3. Đói tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp một trường Tiểu học Nguyễn Bá Ngọc
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích tổng hợp
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
2. NỘI DUNG
1


2.1. Cơ sở lí luận.
Ngôn ngữ đã trở thành một phương tiện giao tiếp, để tiếp thu kinh
nghiệm, và phát triển tư duy tìm hiểu thế giới xung quanh và cũng là phương
tiện để phát triển các chức năng tâm lý khác. Những quá trình tâm lý của trẻ như
tri giác, tư duy trí nhớ…đều được phát triển dưới ảnh hưởng của ngôn ngữ.
Chính vì điều đó khi bước vào trường Tiểu học trẻ em như là một tờ giấy trắng.
Tờ giấy đó thế nào phụ thuộc rất nhiều vào thầy cô giáo, ở lớp 1 không những
chuẩn về kiến thức mà còn phải chuẩn cả về chữ viết, lời nói. Nếu như cuốn
sách giáo khoa Tiếng Việt trước đây kĩ năng nghe, nói bị xem nhẹ thì nay cuốn
sách giáo viên Tiếng Việt mới kĩ năng nghe, nói đã được chú ý đúng mức. Cụ
thể đó là trong sách đã có phần dành cho luyện nói theo hệ thống chủ đề. Giai
đoạn này, phần luyện nói trong tranh tương đối tự do dựa vào gợi ý qua chủ đề
của tranh, không gò bó trong âm thanh, các thanh vừa học. Mục tiêu của phần

luyện nói trong giai đoạn này là giúp học sinh làm quen với không khí học tập
mới, không rụt rè, nhút nhát, mạnh dạn nói cho các bạn nghe và nghe các bạn
nói theo hướng dẫn của giáo viên trong môi trường giao tiếp mới, giao tiếp văn
hoá, giao tiếp học đường.
Chúng ta đã biết, Giáo dục Tiểu học là quá trình giáo dục mang tính chất
nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân. Tiếng Việt là một trong những môn
học quan trọng rèn cho học sinh kĩ năng nghe, đọc, nói, viết giúp các em học
được các môn học khác cũng như giao tiếp hằng ngày.
Dạy Tiếng Việt là dạy cho học sinh các kĩ năng đọc, nghe, nói viết giúp
các em phát triển lời nói tự nhiên một cách đúng đắn.
Đặc điểm tâm lí lứa tuổi của học sinh lớp một là tư duy của các em chưa
phát triển. Lời nói và việc làm của các em còn mang tính tự nhiên vô tư chưa
được rèn rũa. Các em dễ bắt chước những việc làm cũng như lời nói của người
lớn.Vì thế hướng dẫn cho các em nói đúng, nói chuẩn trong giao tiếp là mục tiêu
hàng đầu chúng ta cần thực hiện. Để khắc phục những khó khăn ấy trong dạy
học giáo viên phải thường xuyên uốn nắn để học sinh được rèn luyện theo các
chuẩn mực.
Bản thân giáo viên cần trang bị cho mình kiến thức về lời nói trong giao
tiếp một cách chuẩn mực để học sinh học tập noi theo.
2.2. Thực trạng của việc hướng dẫn học sinh lớp một luyện nói thành
câu ở trường Tiểu học.
2.2. 1. Thực trạng về chương trình dạy học Tiếng Việt.
Trong chương trình dạy học Tiếng Việt lớp 1 hiện nay phần luyện nói
được đưa vào từ đầu năm học. Quá trình luyện nói được lồng ghép trong tất cả
các phân môn đặc biệt là phân môn học vần và được phân bố trong thời gian cả
năm học.
Ở dạng bài học vần gồm 103 bài được chia vào cả kì I và kì II. Mỗi bài
dạy học trong hai tiết. Phần luyện nói được dạy ở tiết 2.
Trong mỗi bài học các em đều được học phần luyện nói theo chủ đề để
phát triển lời nói tự nhiên.

2.2.2. Thực trạng về giáo viên.
2


Phần lớn giáo viên dạy học lớp một đã quan tâm đến việc rèn kĩ năng nói
cho học sinh trong các giờ học và thường xuyên uốn nắn cách nói năng của các
em trong hoạt động giao tiếp.
Mặt khác, đối với học sinh lớp một các em nói chưa gọn thậm chí có em nói
tiếng phổ thông còn chưa chuẩn nên cũng gây khó khăn không ít cho giáo viên
khi hướng dẫn các em thực hiện việc luyện nói.
2.2. 3. Thực trạng về học sinh, phụ huynh.
Đối với học sinh ở lứa tuổi này rất hồn nhiên vô tư. Cách giao tiếp của các
em được xuất phát từ thói quen. Thường các em nói chưa đầy đủ câu, còn bí từ.
Khi hỏi các em thường trả lời không có đầu có cuối. Cũng có những em được
rèn luyện cách giao tiếp và cách ứng xử từ gia đình hoặc có ý thức tiếp thu từ
khi học ở trường Mầm non nên có cách giao tiếp và nói tương đối tốt.
- Học sinh lớp một còn bỡ ngỡ trong tiếp xúc với môi trường mới nên các
em còn rụt rè chưa mạnh dạn trong giao tiếp với mọi người nên ít có cơ hội để
luyện nói.
- Lời nói và việc làm của các em mang tính tự nhiên vô tư chưa được rèn
rũa, các em dễ bắt chước những việc làm cũng như lời nói của người lớn.
- Một số em còn ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương nên nói chưa chuẩn
tiếng phổ thông.
- Một số phụ huynh chỉ mới quan tâm đến kết quả học tập các môn văn hoá
mà ít chú trọng đến việc rèn kĩ năng giao tiếp cho con em mình.
2. 2. 4. Kết quả của thực trạng.
Trước thực trạng trên, sau khi nhận lớp một thời gian ngắn tôi đã tiến hành
một cuộc phỏng vấn nhỏ đối với học sinh hai lớp là 1A và 1B để điều tra về cách
trả lời, cách giao tiếp. Cụ thể như sau:
Các câu hỏi phỏng vấn:

1. Con có thích đi học không?
2. Năm nay con mấy tuổi?
3. Ngày đầu tiên đi học ai mang con đến trường?
4. Trong gia đình con yêu quý ai nhất?
5. Con thích học môn học nào nhất?
6. Ở nhà con thường được ăn món ăn nào?
7. Trước khi ăn cơm con có rửa tay không?
8. Hãy nói về những gì con thấy khi đến trường?
9. Khi đi học con thích học môn nào nhất?
10. Ở nhà ai là người dạy con học bài?
Khi giáo viên đặt câu hỏi phần lớn học sinh trả lời được đúng ý nhưng trả
lời chưa đủ câu còn thiếu chủ ngữ hoặc vị ngữ. Các em chỉ trả lời theo thói quen
nghĩ sao nói vậy. Ví dụ: Khi nghe giáo viên hỏi “con có thích đi học không?” thì
đa số học sinh trả lời là “có” hoặc “không” rất ít em trả lời đầy đủ như: Thưa cô,
em thích đi học ạ! Hay khi nghe câu hỏi: Ở nhà ai thường dạy con học bài thì
học sinh trả lời là “bố ạ” hoặc “mẹ ạ” ít em trả lời được như: Thưa cô, ở nhà bố
em thường dạy cho em học ạ!....
Bảng 1: Kết quả khảo sát chất lượng luyện nói của học sinh lớp một đầu
năm học: 2017 – 2018 thống kê như sau:
3


Lớp
Lớp 1A
(Đối
chứng)
Lớp 1B
(Thực
nghiệm)


Tổng số
HS

HS nói tốt

HS nói được
thành câu
SL
TL

HS nói chưa
thành câu
SL
TL

SL

TL

40

5

12,5%

9

22,5%

26


65%

41

7

17,1 %

10

24,4%

24

58,5%

Nhìn vào kết quả khảo sát ở trên ta thấy rằng chất lượng học sinh nói tốt
và nói được thành câu của cả hai lớp khá thấp, chủ yếu là học sinh nói chưa
thành câu, có tới 65% , mà nguyên nhân chủ yếu đó là:
- Một số em được gia đình rèn luyện thành thói quen nên có câu trả lời tốt.
- Đa số các em chưa hiểu biết rõ về cách nói nên trả lời chưa đủ câu nói chưa
được, tức là các em chỉ mới nói theo thói quen. Nhiều câu khi diễn đạt các em
còn nói lắp, nói ngọng. Học sinh chưa được rèn luyện, tư duy và óc tưởng tưởng
chưa lôgic. Nhiều em chưa được sự uốn nắn, rèn luyện từ gia đình.
- Một số ít do ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương các em còn nói tiếng địa
phương …
Trước thực trạng đó, để học sinh nói thành câu đạt hiệu quả cao tôi đã sử
dụng các biện pháp trong quá trình dạy học như sau:
2.3. Các Biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.

2.3.1. Hướng dẫn học sinh luyện nói thành câu qua môn Tiếng Việt.
Phân môn Học vần là phân môn chiếm nhiều thời gian trong chương trình
Tiếng Việt lớp một. Vì vậy khi dạy tôi đã nghiên cứu kĩ mục đích, yêu cầu để
đưa ra phương pháp, đồ dùng dạy học cho thích hợp và hiệu quả.
Ở giai đoạn đầu, dạy dạng bài thứ nhất (dạng bài làm quen với âm và chữ)
phần luyện nói theo tranh tương đối tự do, theo chủ đề của tranh, không gò bó
các âm và thanh vừa học nên giáo viên chỉ gợi ý theo định hướng bằng các câu
hỏi hướng dẫn cho học sinh trả lời bằng những câu đơn giản, nội dung gần gũi
với các em.
Ví dụ: Khi dạy Bài 3 ( bài dấu / ) Tiết 2
Mục tiêu của phần luyện nói ở đây là giúp các em phát triển lời nói tự nhiên
theo nội dung: Các hoạt động khác nhau của trẻ em. Đây là bài luyện nói về các
hoạt động trong sinh hoạt thường gặp của các bé ở độ tuổi đến trường. giáo viên
cần chuẩn bị những bức tranh minh hoạ về các hoạt động của bé như: đi học, vui
chơi, làm việc nhỏ giúp gia đình...
Khi hướng dẫn học sinh luyện nói trước hết cho học sinh quan sát các bức
tranh minh hoạ và yêu cầu học sinh nêu những gì mình thấy trong tranh. giáo
viên nêu câu hỏi như: Quan sát tranh em thấy những gì? HS thường nêu câu trả
lời như: thấy các bạn ngồi học trong lớp, các bạn nhảy dây, bạn nhỏ tưới rau, ....
Khi học sinh trả lời mà ý chưa thành câu như vậy giáo viên cần nắm bắt và
sửa cách trả lời luôn cho học sinh như: Thưa cô, trong tranh em thấy có các bạn
đang ngồi học ạ! Thưa cô, em thấy các bạn đang chơi nhảy dây ạ!...Cần tạo cho
4


học sinh thói quen biết kính thưa khi trả lời với người trên và nói có đầu có cuối
cho đủ câu.
Sau khi học sinh trả lời được các hình ảnh có trong tranh giáo viên có thể
hỏi thêm: Các bức tranh này có gì giống nhau? Em thích bức tranh nào nhất vì
sao? Học sinh sẽ nêu được câu trả lời nói lên các hoạt động của các bạn nhỏ. Từ

các hoạt động của các bạn có trong tranh giáo viên có thể phát triển thêm về chủ
đề luyện nói bằng các câu hỏi như: Ngoài các hoạt động kể trên em và các bạn
còn có những hoạt động nào khác nữa? Học sinh sẽ nêu được các câu trả lời
khác về những hoạt động khác mà mình cùng bạn đà từng làm như: đá cầu, đọc
truyện tranh, hay chơi đá bóng...Từ đó các em sẽ có nhiều cơ hội để được nói
cho bạn cho cô nghe và được nghe bạn nói. Qua cách thể hiện lời nói của học
sinh, giáo viên sẽ nghe và sửa về cách nói cho từng em sao cho đúng câu và
đúng nghĩa để người nghe dễ hiểu và tạo được thói quen nói lịch sự trong giao
tiếp.
Ở dạng bài “Dạy học âm vần mới”: Ở phần luyện nói giáo viên dựa vào chủ
đề gợi ý trong tranh tiến hành linh hoạt các biện pháp nhằm đạt được yêu cầu về
nói theo chủ đề nhưng chú ý đến từ ngữ có âm mới học và có thể mở rộng cả
những từ ngữ có âm vần chưa học.
Ví dụ: Khi dạy luyện nói ở bài 29: ia.
Yêu cầu đặt ra là giúp học sinh phát triển lời nói tự nhiên theo chủ đề: “Chia
quà”. Giáo viên có thể cho học sinh quan sát tranh và nêu tên chủ đề luyện nói.
Giáo viên đưa các câu hỏi về nội dung bức tranh cho học sinh trả lời như: Tranh
vẽ gì? Ai đang chia quà cho các em nhỏ trong tranh? Bà chia những quà gì? Các
em nhỏ trong tranh có vui không? Khi bà chia quà cho các em bà có vui không?
Ở nhà em ai hay chia quà cho các em? Khi được chia quà em có thích không?
Nếu có em nhỏ hơn mình em sẽ lấy phần quà ít hay phần nhiều?
Dựa theo câu trả lời của học sinh, giáo viên nắm bắt và giáo dục cho học
sinh phải biết chia sẻ với mọi người, biết nhường nhịn em nhỏ, biết kính trọng
người trên, biết lịch sự và nói lời cảm ơn khi được người khác cho quà. Từ đó
rèn cho học sinh thói quen không những nói đủ câu mà còn biết lịch sự trong khi
giao tiếp.
Đối với dạng “Bài ôn tập âm, vần”, giáo viên cần cho học sinh tự ghép âm
đầu đã học và vần. Củng cố cho học sinh cách đánh vần và đọc vần. Hướng dẫn
học sinh vận dụng kiến thức vừa ôn vào thực hành đọc từ dễ đến khó. Đọc tiếng,
đọc từ, cụm từ, đọc câu, đọc toàn bài. Sau phần luyện đọc luyện viết là phần kể

chuyện. Tên truyện gắn với những âm vần đã học. Giáo viên hướng dẫn học sinh
nghe kể chuyện, hiểu truyện và tập kể lại câu chuyện. Từ cách kể chuyện của
học sinh giáo viên có thể rèn cho các em kĩ năng thể hiện trước tập thể. Luyện
nói mạnh dạn trước bạn bè, cảm nhận được nội dung câu chuyện và biết được ý
nghĩa câu chuyện giáo dục cái gì để từ đó vận dụng vào cuộc sống bản thân.
Khi dạy luyện nói cho học sinh lớp Một, nội dung này thường xếp vào
cuối tiết và lại là nội dung khó đối với học sinh. Vì vậy, tôi đã chuẩn bị cho học
sinh một hứng thú học tập thường là được khởi động từ trò chơi giữa tiết hoặc
một bài hát hay để thay đổi không khí. Thêm vào đó là sự chuẩn bị chu đáo đồ
dùng cho đề tài thât hấp dẫn để các em có hứng thú học tập hơn.
5


Ngoài phân môn học vần ra phân môn tập đọc cũng giúp học sinh được
luyện nói nhiều. Qua bài Tập đọc, học sinh được rèn kĩ năng đọc được nghe đọc
và được trả lời câu hỏi qua bài đọc cũng giúp các em luyện nói thành câu một
cách chính xác.
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Hoa ngọc lan”, trước hết giáo viên cần hướng
dẫn học sinh đọc đúng các từ ngữ khó, ngắt nghỉ đúng dấu câu, đúng ý của câu
văn. Khi học sinh đọc được đúng câu cũng là lúc các em được rèn kĩ năng nói
câu đúng. Sau phần luyện đọc từ là đến phần đọc câu và đọc đoạn. Trong quá
trình đọc giáo viên đồng thời uốn nắn cách phát âm và cách ngắt nghỉ đúng cho
học sinh. Khi học sinh luyện đọc câu và đoạn tốt giáo viên cho các em đọc toàn
bài và chuyển sang phần tìm hiểu bài trả lời các câu hỏi về nội dung.
Khi học sinh trả lời câu hỏi về nội dung bài giáo viên cần hướng dẫn học
sinh cách trả lời đủ ý, đủ câu . Ví dụ với câu hỏi “Hương hoa lan thơm như thế
nào?” thường thì học sinh chỉ trả lời là “thơm ngát ạ” như vậy là nói chưa thành
câu. Giáo viên cần sửa ngay thành: “thưa cô, hương hoa lan thơm ngát ạ”. Tức
là nếu học sinh trả lời theo thói quen câu chưa đầy đủ chủ ngữ, vị ngữ như vậy
giáo viên cần thường xuyên sửa hoặc có thể cho một học sinh nói tốt sửa ngay

cho bạn. Tránh để các em nói sai lâu ngày sẽ thành “tật” không sửa được.
2.3.2. Tổ chức các hoạt động tập thể, hoạt động ngoại khoá để rèn kĩ
năng nói, kĩ năng giao tiếp cho học sinh.
Trong các tiết hoạt động tập thể, ở lớp giáo viên tạo điều kiện cho học
sinh được giao lưu với các bạn như bạn này nói triển khai nội dung sinh hoạt,
các bạn khác nghe và trao đổi ý kiến. Như vậy bạn nào cũng được nói cho bạn
nghe và được nghe bạn nói. Ví dụ: Khi sinh hoạt lớp cuối tuần thông thường lớp
trưởng sẽ là người lên triển khai và báo cáo các mặt hoạt động trong tuần của
lớp, các bạn trong lớp đóng góp ý kiến. Trong khi học sinh trao đổi giáo viên
lắng nghe và uốn nắn cho học sinh cách xưng hô như: gọi bạn, xưng tôi, rèn cho
các em cách nói lịch sự tôn trọng người khác và rèn cho các em thói quen biết
bày tỏ ý kiến của mình trước mọi người. Hoặc khi báo cáo với thầy cô giáo cần
phải có câu thưa cô, thưa thầy....Giáo viên thường xuyên cho nhiều học sinh
khác nhau được đảm nhiệm vai trò lớp trưởng để các em có cơ hội được thể hiện
khả năng giao tiếp của mình trước tập thể.
Khi hướng dẫn cho học sinh, sinh hoạt theo chủ đề từng tháng tôi thường
triển khai nội dung sinh hoạt và tổ chức các hoạt động như múa hát, kể chuyện...
thường được tổ chức dưới hình thức thi đua tạo ý chí phấn đấu cho học sinh.
Qua các cuộc thi học sinh sẽ được rèn luyện về kĩ năng nói, kĩ năng ứng xử
trong giao tiếp và luyện ý chí thi đấu. Ngoài ra, hằng tuần thường có một tiết
hoạt động tập thể được sắp xếp vào buổi sáng và được hoạt động theo chủ đề
từng tháng, tôi đã vận dụng thời gian đó cho học sinh được hoạt động thể hiện
lời nói và diễn đạt trước tập thể để có cơ hội uốn nắn rèn luyện nói cho các em
nhiều hơn.
Bên cạnh đó, tôi còn tổ chức cho học sinh lớp mình hưởng ứng nhiệt tình
các cuộc thi giao lưu văn nghệ, kể chuyện do nhà trường tổ chức tạo cơ hội cho
học sinh được thể hiện kĩ năng nói, diễn đạt của mình trước tập thể. Hoặc có thể
tổ chức cho học sinh đi tham quan di tích lịch sử ở địa phương và hướng dẫn
6



cho học sinh phát biểu cảm tưởng trước những di tích lịch sử đó. Qua cách phát
biểu giáo viên có cơ hội uốn nắn về cách nói cho học sinh đồng thời giáo dục
các em tình yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc góp phần làm giàu
vốn từ cho học sinh.
2.3.3. Tổ chức các hoạt động vui chơi để rèn kĩ năng nói, kĩ năng giao
tiếp và phát triển lời nói tự nhiên cho học sinh.
Vui chơi là hoạt động tích cực đối với trẻ. Vui chơi sẽ giúp các em vui
khoẻ và hứng thú học tập. Qua vui chơi các em sẽ mở rộng ngôn ngữ nói trong
giao tiếp của mình. Tuỳ từng loại hình hoạt động của trò chơi mà làm cho các
em phát triển lời nói tự nhiên. Để giúp các em trong vui chơi cũng như trong
họat động học tập, đều sử dụng ngôn ngữ một cách thống nhất, có những trò
chơi tôi đã hoà nhập sắm vai, cùng học sinh làm trọng tài để chơi cùng các em.
Mỗi lần tham gia tôi đều chú ý tạo cho các em vui vẻ, thoải mái nhưng cần khéo
léo nhắc nhở các em sửa lỗi nói hoặc lỗi cư xử chưa hợp lí của mình với bạn. Có
lúc các em chơi với tinh thần hăng say quá, nên sẽ có em có thể nói vài lời chưa
tế nhị, có lúc các em vừa nói vừa cười khiến người nghe không rõ nội dung ...
những lúc đó tôi đã nhắc nhở học sinh nói lại cho đầy đủ hơn.
Tóm lại giáo viên cần tạo điều kiện để gần gũi học sinh, ở mọi nơi mọi lúc
và kịp thời uốn nắn cho các em có thói quen nói một cách chính xác, đầy đủ câu
trong hoạt động giao tiếp của mình.
2.3.4.. Hướng dẫn học sinh luyện nói thành câu qua hoạt động học tập
của các môn học khác.
Ngoài việc luyện nói cho học sinh thông qua môn Tiếng Việt giáo viên có
thể hướng dẫn các em luyện nói qua các môn học khác. Ví dụ, trong môn Toán,
khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu yêu cầu của bài toán bao giờ giáo viên cũng
nêu câu hỏi: Bài toán cho biết gì? Bài toán yêu cầu gì? Khi học sinh trả lời câu
hỏi giáo viên phải hướng dẫn và nhắc nhở cho học sinh cách trả lời đó là: con
thưa cô, bài toán cho biết... bài toán yêu cầu ta tìm....hoặc trong các môn học
khác khi giáo viên nêu câu hỏi bao giờ cũng phải uốn nắn các em cách trả lời

sao cho đầy đủ ý, xưng hô lịch sự, lễ phép.
Trong khi dạy học cũng cần chú ý đến không khí lớp học, tư thế, lời nói
của giáo viên, hoạt động nghe của học sinh và những hoạt động khác có thể chi
phối đến hoạt động luyện nói. Khi luyện nói , nếu lớp ồn hoặc người nghe có
thái độ không tôn trọng người nói, không có ý thức cộng tác thì người nói sẽ mất
hứng. Hoặc khi diễn đạt mà trước ánh mắt quá nghiêm khắc của giáo viên hay
thái độ xét nét của bạn bè, sẽ làm người nói khó hoàn thành được. Vì vậy, trong
lúc luyện nói cần tạo ra sự động viên khích lệ học sinh, bằng ánh mắt trìu mến
và cử chỉ thân thiện để học sinh có tâm thế sẵn sàng khi luyện nói. Hướng cho
các bạn có thái độ tôn trọng bạn mình khi đang nói.
Khi học sinh đang nói, chúng ta không tuỳ tiện ngắt lời kể cả khi các em
nói sai. Vì sự đứt mạch trong suy nghĩ sẽ làm các em lúng túng, gián đoạn. Cần
sửa cho học sinh đúng lúc để các em nói đạt hiệu quả cao. Khi luyện nói cần
hướng cho học sinh cách nói tự nhiên đúng đề tài đúng trọng tâm. Nói chủ động
tự tin và sử dụng ngôn ngữ phù hợp văn minh. Tránh cách nói như đọc thuộc
lòng, lời nói sáo rỗng khiến người nghe cảm thấy khó chịu.
7


2.3.5. Phối hợp với phụ huynh để rèn kĩ năng nói cho học sinh.
Ngay từ cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã nêu thực trạng của vấn đề
luyện nói của học sinh cho phụ huynh biết. Và tôi đã tìm hiểu kĩ những nguyên
nhân dẫn đến thực trạng ấy, để có hướng cùng với phụ huynh khắc phục. Đồng
thời cũng cần chỉ ra cho họ thấy việc cần thiết của luyện nói thành câu. Nói
thành câu là người nói đầy đủ về nội dung thông báo và lịch sự đúng mực với
đối tượng giao tiếp. Nếu nói chưa rõ ràng diễn đạt không đủ ý, sẽ dẫn đến người
nghe không hiểu đúng thông tin và sẽ tạo thói quen không tốt cho quá trình giao
tiếp của các em. “Nói thành câu” là cơ sở để giúp các em nói thành bài, kể được
một câu chuyện mà mình đã được đọc, được nghe. Nó sẽ giúp các em rèn kĩ
năng nói tốt với âm lượng rõ ràng, biết trình bày ý kiến của mình đúng chỗ,

đúng lúc.
Với nhiệm vụ đặt ra ở đây, ở tất cả các môi trường học sinh tiếp xúc,
chúng ta là những người dìu dắt các em nên mỗi chúng ta cần giúp các em rèn
luyện thói quen nói một cách chuẩn mực. Gia đình là những người gần gũi và
giao tiếp với các em nhiều. Vì vậy, cách nói của những người trong gia đình
cũng ảnh hưởng lớn đến thói quen của các em. Nếu phụ huynh quan tâm đến
việc rèn kĩ năng nói cho các em ngay từ đầu chắc chắn các em sẽ học tập và có
thói quen nói đầy đủ câu một cách chính xác.
Giáo viên cần thường xuyên liên lạc với gia đình học sinh có kế hoạch giám sát
các em uốn nắn các em trong việc luyện nói ở trường cũng như ở nhà tạo cho
các em có thói quen nói đúng.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
Sau khi áp dụng một số biện ph¸p hướng dẫn học sinh lớp
một luyện nãi thµnh c©u, đến cuối học k× I t«i đ· tiến hµnh tổ
chức dạy thực nghiệm tại lớp m×nh vµ thu được kết quả có nhiều tiến
bộ. Số em biết nói thành câu theo đúng chủ đề, đúng nội dung tăng lên hẳn so
với đầu năm. Số em trả lời câu chưa đầy đủ đã giảm hẳn.
Do khuôn khổ đề tài có hạn tôi chỉ xin trình bày một hoạt động luyện nói
ở lớp tôi như sau:

Bài 63: em, êm
1. Mục đích yêu cầu của phần luyện nói: Giúp học sinh phát triển lời nói
tự nhiên theo chủ đề : Anh chị em trong nhà
2. Đồ dùng: Tranh minh hoạ chủ đề: Anh chị em trong nhà.
3. Các hoạt động giúp học sinh luyện nói:
- Sau khi cho học sinh luyện đọc lại vần mới ở tiết 1, đọc câu ứng dụng,
luyện viết bài vào vở tập viết, tôi đã tiến hành cho các em luyện nói theo chủ đề.

8



Nội dung
Phương pháp, hình thức tiến hành
- Cho học sinh quan sát tranh minh - HS quan sát tranh
hoạ - nêu nội dung bức tranh và nêu
tên bài luyện nói.
- HS nêu: Thưa cô tranh vẽ hai anh em
đang giúp mẹ rửa trái cây ạ và hình
ảnh người mẹ rất vui khi nhìn thấy
điều đó.
- HS nêu: Con thưa cô: Chủ đề luyện
nói của bài hôm nay là: Anh chị em
trong nhà
- GV cho học sinh luyện nói theo gợi
ý:
- Anh chị em trong nhà còn gọi là anh - HS trả lời: Anh chị em trong nhà còn
em gì.
gọi là anh chị em ruột.
- Tại sao mẹ lại vui khi thấy hai anh - HS nêu: Thưa cô vì mẹ thấy hai anh
em cùng làm việc giúp mẹ.
em rất thương yêu đoàn kết giúp đỡ
nhau ạ!
- GV nhận xét và tuyên dương học
sinh.
- Em hãy kể tên anh chị em trong gia - Nhiều HS xung phong kể.
đình mình cho cả lớp nghe.
- Ở nhà các em có đoàn kết yêu - HS tự nói: Thưa cô, ở nhà các em rất
thương anh chị em mình không.
yêu thương anh chị, em mình ạ!
- Các em đã làm gì để thể hiện tình - Nhiều HS kể:

cảm của mình đối với các anh chị em +Thưa cô, em đã nhường đồ chơi đẹp
trong
cho em mình ạ!
- GV yêu cầu HS tự nói các câu nói +Thưa cô, em đã giúp chị nhặt rau ạ!
về tình cảm anh em trong gia đình.
+Thưa cô, em cùng rửa bát với chị ạ!...
- HS thi nói các câu theo chủ đề:
+ Em rất yêu quý anh, chị của em.
+Khi em bé nhà em khóc em đã dỗ rất
nhẹ nhàng.
+Mẹ cho quà em đã dành phần nhiều
cho em của em.
+Chị em lúc nào cũng nhường nhịn
em....
- GV nhận xét chốt lại các câu HS nói
đúng và hay thể hiện được tình cảm
anh em
- Tuyên dương những HS có câu nói - HS lắng nghe và thực hiện.
tốt.
- Nhắc học sinh về nhà thường xuyên
luyện nói thành câu và diễn đạt đủ ý
để tạo thành thói quen nói đúng.
9


Sau khi tiến hành thực nghiệm cho HS luyện nói theo chủ đề: “Anh chị em
trong nhà” và kiểm nghiệm trong các hoạt động giao tiếp khác tôi đã tiến hành
khảo sát thực nghiệm của cả hai lớp: 1A và 1B, kết quả thu được như sau:
HS nói được
HS nói chưa

thành câu
thành câu
Lớp
SL
TL
SL
TL
SL
TL
1A
40
13
32,5 %
24
60%
3
7,5
1B
41
16
39
24
58,6%
1
2,4%
Như vậy, nhìn vào kết quả nêu trên chúng ta thấy rằng kết quả hai lớp đã có
sự khác biệt, đối với lớp 1A lớp đối chứng thì hiệu quả đưa lại rất thấp, trong khi
đó đối với 1B(lớp thực nghiệm), sau khi tôi đã sử dụng các biện pháp nêu trên
thì hiệu quả đưa lại khá cao.
Với sự nhiệt tình, linh hoạt cùng với những biện pháp sáng tạo, trong tổ

chức các hoạt động luyện nói của học sinh lớp một trường tiểu học Nguyễn Bá
Ngọc và đặc biệt qua kết quả thu được nêu trên điều đó chứng tỏ các biện pháp
tôi thực hiện mang tính thiết thực, khả thi cao..
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Quá trình hướng dẫn luyện nói cho học sinh là một quá trình rèn luyện lâu
dài đặc biệt là đối với học sinh lớp một. Nó được diễn ra ở nhiều môi trường
khác nhau và có liên quan đến nhiều mối quan hệ. Vì vậy để cho học sinh luyện
nói tốt người giáo viên phải có tính kiên trì khéo léo và tế nhị trong ứng xử. Phải
tìm hiểu sâu sắc các đối tượng học sinh và dành cho các em một tình cảm chân
thành rèn luyện cách nói cho các em trong mọi hoạt động giao tiếp.
Qua nghiên cứu, vận dụng trong dạy học tôi thấy việc làm của mình đã có
hiệu quả. Nó đã góp phần làm thay đổi cách nói năng ứng xử cho học sinh cả
lớp. Từ một lớp học có nhiều học sinh chưa nói thành câu rõ ràng nay các em đã
biết lựa chọn từ ngữ phù hợp trong các hoạt động nói cũng như trong các hoạt
động giao tiếp khác. Để đạt được điều đó người giáo viên phải biết sáng tạo
chuyển đổi cách dạy vận dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và giáo dục
cho phù hợp với lứa tuổi học sinh cũng như phù hợp với sự đổi mới của chương
trình và xã hội. Luôn gần gũi quan tâm đến từng đối tượng học sinh nắm bắt
hoàn cảnh, đặc điểm tâm lí các em để có biện pháp giáo dục kịp thời, uốn nắn
cho các em từng lỗi nhỏ để giúp các em tiến bộ. Tạo cho các em sự tin tưởng
tuyệt đối về giáo viên và hướng cho các em xem trường học như là ngôi nhà thứ
hai của mình. Người giáo viên phải luôn rèn luyện để nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn và có những phương pháp sáng tạo trong giảng dạy.
- Để giúp học sinh nói tốt, người giáo viên phải luôn rèn luyện kĩ năng nói của
mình sao cho chuẩn mực. Phải hiểu được tâm lí lứa tuổi các em, nắm được khó
khăn mà các em gặp khi giao tiếp từ đó đưa ra được biện pháp phù hợp.
- Phối hợp chặt chẽ mối quan hệ giữa nhà trường gia đình và xã hội để giáo
dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh được tốt.
3.2 . Kiến nghị

*Đối với giáo viên
Tổng
số HS

HS nói tốt

10


- Không ngừng học hỏi tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ thường
xuyên rèn luyện các kĩ năng giao tiếp để hoàn thiện bản thân.
- Đầu tư vào việc nghiên cứu đổi mới phương pháp dạy học, hình thức tổ
chức để tạo hứng thú học tập cho các em.
- Cần xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc rèn luyện các kĩ năng cho học sinh
ngay từ đầu năm học. Tăng cường giáo dục tích hợp qua các môn học có liên
quan. Phát huy tốt vai trò của giáo viên chủ nhiệm phối hợp chặt chẽ với các
hoạt động của nhà trường theo từng chủ điểm để có kế hoạch giáo dục học sinh.
* Đối với nhà trường, Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh
- Cần tăng cường tổ chức các sân chơi các hoạt động có liên quan để học
sinh có cơ hội được rèn kĩ năng giao tiếp.
- Hµng tuần, hµng tháng có kế hoạch hoạt động và tổ chức sinh hoạt dưới
cờ để đánh giá học sinh giúp các em thấy được những ưu điểm và hạn chế để có
hướng khắc phục
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân rút ra từ thực tế giảng
dạy. Với khả năng còn hạn chế và thời gian nghiên cứu có hạn bản thân không
tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự góp ý chân thành của Hội đồng
khoa học các cấp và bạn bè đồng nghiệp để tôi được học tập và rút kinh nghiệm
trong những lần viết sau.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


TP Thanh Hóa, ngày 5 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết

Trần Thị Bích Phượng

11


MỤC LỤC
NỘI DUNG
1. Mở đầu.
1.1. Lí do chọn đề tài.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm.
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
2.2. Thực trạng.
2.3. Các Biện pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
3. Kết luận, kiến nghị.
3.1. Kết luận.
3.2. Kiến nghị.

TRANG
1
1

1
1
2
2
2
4
8
10
10
10

12



×