Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Biểu hiện của sự bất bình đẳng trong quan hệ pháp luật hành chính và các ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.61 KB, 13 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong khoa học pháp lí, quan hệ pháp luật hành chính được xác định
là một dạng cụ thể của quan hệ pháp luật, là kết quả của sự tác động của quy
phạm pháp luật hành chính theo phương pháp mệnh lệnh – đơn phương tới
các quan hệ hành chính nhà nước.Do những đặc điểm mang tính đặc trưng
của quản lí hành chính nhà nước nên quan hệ pháp luật hành chính cũng có
nhưng nét đặc thù, một trong số đó là tính bất bình đẳng trong quan hệ pháp
luật hành chính, vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến sự bất bình đẳng đó, biểu
hiện của nó ra sao và ý nghĩa của nó là gì,qua bài tiểu luận này chúng ta sẽ
đi làm rõ hơn vấn đề này.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận dẫn đến sự bất bình đẳng
1. Khái niệm về bất bình đẳng
Bất bình đẳng theo nghĩa Hán – Việt có nghĩa là sự không ngang bằng, có
nghiã là trong một quan hệ có các bên tham gia thì họ không có được sự
ngang bằng nhau về mọi mặt, điều đó có nghĩa là có một bên sẽ có nhiều
quyền hơn và bên kia mang nhiều nghĩa vụ.Đó là nghĩa rộng nói chung, còn
nếu áp dụng trong quan hệ pháp luật hành chính thì đó sự không ngang bằng
về địa vị pháp lí của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính, một bên
có nhiều quyền hơn có thể áp đặt ý chí của mình lên bên còn lại, bắt buộc
bên kia phải thực hiện những gì mà bên này quy định, nếu như bên kia
không thực hiện đúng thì bên ra quyết định có quyền dùng biện pháp cưỡng
chế.
2. Cơ sở pháp lí dẫn đến sự bất bình đẳng trong quan hệ pháp luật hành
chính.
Như chúng ta đã biết quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ giữa các
chủ thể trong quản lí hành chính nhà nước.Trong quan hệ đó các chủ thể
Năm học 2011 - 2012
1



được phân thành chủ thể đặc biệt và chủ thể thường, chủ thể đặc biệt là các
cơ quan, tổ chức, cán bộ được mang quyền lực nhà nước, được nhân danh
nhà nước trong việc quản lí hành chính nhà nước, còn chủ thể thường có
nghĩa vụ phải tuân thủ những mệnh lệnh của các chủ thể đặc biệt, cho nên
gọi quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “ mệnh lệnh – phục tùng”. Quản
lí hành hính nhà nước là một hình thức hoạt động của Nhà Nước được thực
hiện chủ yếu và trước hết và chủ yếu bởi các cơ quan hành chính Nhà Nước,
có nội dung là dảm bảo chấp hành luật, pháp lệnh, nghị quyết, của các cơ
quan quyền lực nhà nước, nhằm tổ chức và chỉ đạo một cách trực tiếp và
thường xuyên công cuộc xây dựng kinh tế, văn hóa – xã hội và hành chính chính trị.Nói cách khác, quản lí hành chính nhà nước là hoạt động chấp hành
- điều hành của nhà nước.
Tính chất chấp hành thể hiện ở mục đích của quản lí hành chính nhà
nước là đảm bảo thực hiện trên thực tế các văn bản pháp luật của cơ quan
quyền lực nhà nước.Mọi hoạt động quản lí hành chính nhà nước đều được
tiến hành trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật.
Tính chất điều hành của quản lí hành chính nhà nước thể hiện ở chỗ để
đảm bảo cho các văn bản pháp luật của cơ quan quyền lực nhà nước được
thực hiện trên thực tế, các chủ thể của quản lí hành chính nhà nước phải tiến
hành hoạt động tổ chức và chỉ đạo trực tiếp đối với đối tượng quản lí thuộc
quyền.
Trong quá trình điều hành, cơ quan hành chính nhà nước có quyền nhân
danh nhà nước ban hành ra các văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm
pháp luật hay các mệnh lệnh cụ thể bắt buộc các đối tượng quản lí có liên
quan phải thực hiện.
Như vậy, các chủ thể quản lí hành chính nhà nước sử dụng quyền lực nhà
nước để điều khiển và tổ chức hoạt động của các đối tượng quản lí, qua đó
thể hiện một cách rõ nét mối quan hệ “quền lực – phục tùng” giữa các chủ
thể trong quản lí hành chính nhà nước.
Năm học 2011 - 2012

2


Chủ thể của quản lí hành chính nhà nước là các tổ chức hay cá nhân
mang quyền lực nhà nước trong quá trình tác động tới đối tượng quản lí.
Chủ thể của quản lí hành chính nhà nước là các cơ quan nhà nước (chủ
yếu là các cơ quan hành chính nhà nước), các cán bộ nhà nước có thẩm
quyền, các tổ chức và cá nhân được nhà nước trao quyền quản lí hành chính
trong một số trường hợp cụ thể.
Những chủ thể trên khi tham gia vào các quan hệ quản lí hành chính có
quyền sử dụng quyền lực nhà nước để chỉ đạo các đối tượng quản lí thuộc
quyền nhằm thực hiện nhiệm vụ quản lí đồng thời đảm bảo thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính
Để thấy được sự bất bình đẳng trong quan hệ pháp luật hành chính, chúng ta
phải xem xét đến đặc điểm của quan hệ pháp luật hành chính, các đặc điểm
đó là:
Quan hệ pháp luật hành chính có thể phát sinh theo yêu cầu hợp pháp
của chủ thể quản lí hay đối tượng quản lí hành chính nhà nước.
Việc điều chỉnh pháp lí đối với các quan hệ quản lí hành chính nhà nước
không chỉ nhằm mục đích dảm bảo lợi ích của nhà nước mà còn ảnh hưởng
nhiều mặt của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội.Thẩm quyền quản
lí hành chính nhà nước chỉ có thể thực hiện nếu có sự tham gia tích cực từ
phía các đối tượng quản lí.Mặt khác nhiều quyền lợi của đối tượng quả lí
hành chính nhà nước chỉ có thể được đảm bảo nếu có sự hỗ trợ tích cực của
các chủ thể quản lí bằng nhiều những hành vi pháp lí cụ thể.
Nội dung của quan hệ pháp luật hành chính là các quyền và nghĩa vụ
pháp lí hành chính của các bên tham gia quan hệ đó.
Các bên than gia quan hệ pháp luật hành chính có thể là cơ quan tổ chức,
hay cá nhân; có thể nhân danh nhà nước, vì lợi ích của nhà nước hoặc nhân
danh chính mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ do quy phạm pháp luật

hành chính quy định.Việc quy định và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này
Năm học 2011 - 2012
3


là cần thiết đối với việc xác lập và duy trì trật tự quản lí hành chính nhà
nước.
Một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính phải được sử dụng
quyền lực nhà nước.
Như đã nêu, quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ quản lí hành chính
nhà nước được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật hành chính.Vì vậy, về
tư cách và cơ cấu chủ thể của quan hệ pháp luật hành chính phải phù hợp với
tư cách và cơ cấu chủ thể của quan hệ quản lí hành chính nhà nước tương
ứng.Nếu một bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính được mang quyền
lực nhà nước(chủ thể quản lí hành chính nhà nước) thì sẽ tương ứng với chủ
thể đặc biệt.Mặt khác trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước, đối tượng
quản lí là bên chủ thể không được sử dụng quyền lực nhà nước và có nghĩa
vụ phục tùng quyền lực nhà nước của chủ thể quản lí thì trong quan hệ pháp
luật hành chính tương ứng, các đối tượng này được xác định là chủ thể
thường.
Như vậy, các chủ thể trong quan hệ pháp luật hành chính được phân chia
thành chủ thể đặc biệt và chủ thể thường.Trong đó chủ thể đặc biệt là các cơ
quan, tổ chức, cá nhân được nhân danh và sử dụng quyền lực nhà nước trong
quan hệ ấy.Từ đó có thể nhận định quan hệ pháp luật hành chính không thể
phát sinh và tồn tại nếu thiếu chủ thể đặc biệt.
Trong một quan hệ pháp luật hành chính thì quyền của một bên này ứng
với nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Quan hệ pháp luật hành chính là quan hệ “quyền lực – phục tùng”, quan
hệ bất bình đẳng về ý chí giữa các bên tham gia.Chủ thể đặc biệt tham gia
vào quan hệ pháp luật hành chính trên cơ sở quyền lực nhà nước và chủ thể

thường có nghĩa vụ chấp hành việc sử dụng quyền lực nhà nước của chủ thể
đặc biệt.Tuy nhiên, không có nghĩa là trong quan hệ pháp luật hành chính,
chủ thể đăc biệt chỉ có quyền và chủ thể thường chỉ có nghĩa vụ.
Năm học 2011 - 2012
4


Việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt vừa là quyền va trách
nhiệm của chủ thể này.Bên cạnh đó, chủ thể thường tuy có nghĩa vụ chấp
hành các mệnh lệnh của chủ thể đặc biệt song cũng có quyền nhất định xuất
phát từ yêu cầu đảm bảo tính khách quan, đúng pháp luật của các hành vi
quản lí hành chính nhà nước hoặc đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp
của họ, ví dụ quyền yêu cầu, đề nghị, khiếu nại....
Việc thực hiện thẩm quyền của chủ thể đặc biệt chỉ có hiệu lực khi nó làm
phát sinh nghĩa vụ chấp hành của chủ thể thường.Mặt khác, việc thực hiện
quyền của các chủ thể thường trong quan hệ pháp luật hành chính chỉ có ý
nghĩa thực sự nếu nó làm phát sinh trách nhiệm tiếp nhận, xem xét giải quyết
của chủ thể đặc biệt.Ví dụ: công dân có quyền khiếu nại nhưng nếu việc
khiếu nại tố cáo đó của công dân không làm phát sinh trách nhiệm tiếp nhận,
xem xét, giải quyết của người có thẩm quyết khiếu nại thì việc khiếu nại đó
của công dân chỉ mang tính hành thức, không có giá trị pháp lí.


Như vậy có thể khẳng định rằng trên đây là toàn bộ cơ sở lí luận, pháp lí
của sự bất bình đẳng trong quan hệ pháp luật hành chính, mà quan trọng
nhất là quan hệ “mệnh lệnh – phục tùng” của một bên mang quyền lực nhà
nước và một bên là chủ thể thường.Vậy biểu hiện của sự bất bình đẳng đó
được thể hiện như thế nào, sau đây sẽ đi tìm hiểu những khía cạch của nó.
II. Biểu hiện của sự bất bình đẳng trong quan hệ pháp luật hành chính
và các ví dụ minh họa.

Khi nói đến sự bất bình đẳng về ý chí có nghĩa là đang đề cập đến
phương pháp điều chỉnh của luật hành chính.Như chúng ta đã biết phương
pháp điều chỉnh là cách thức mà nhà nước áp dụng trong việc điều chỉnh
bằng pháp luật để tác động vào các quan hệ xã hội.
Phương pháp điều chỉnh của luật hành chính là phương pháp mệnh lệnh
được hình thành từ quan hệ “ quyền lực – phục tùng” giữa một bên có quyền
nhân danh nhà nước ra những mệnh lệnh bắt buộc đối với bên kia là các cơ
Năm học 2011 - 2012
5


quan, tổ chức hoặc cá nhân có nghĩa vụ phục tùng các mệnh lệnh đó.Chính
mối quan hệ “ quyền lực – phục tùng” thể hiện sự không bình đẳng giữa các
bên tham gia quan hệ quản lí hành chính nhà nước.Sự không bình đẳng đó là
sự không bình đẳng về ý chí và thể hiện rõ nét ở những điểm sau:
1. Trước hết sự không bình đẳng trong quan hệ quản lí hành chính nhà nước
thể hiện ở chỗ chủ thể quản lí có quyền nhân danh nhà nước để áp đặt ý chí
của mình đối tượng quản lí.Các quan hệ này rất đa dạng nên việc áp đặt ý
chí của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí cũng được thực hiện gtrong
nhiều trường hợp khác nhau:
- Hoặc một bên có quyền ra các mệnh lệnh cụ thể hay đặt ra các quy định
bắt buộc đối với bên kia và kiểm tra việc thực hiện chúng.Phía bên kia có
nghĩa vụ thực hiện các quy định, mệnh lệnh của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Trong trường hợp này có một bên mang quyền quyết định bên kia phải
làm gì và làm như thế nào cho hợp lí, hợp pháp bên kia phải chấp hành theo
đúng nghĩa vụ của mình, phải chấp hành nghiêm chỉnh.Cụ thể trong trường
hợp này là quan hệ giữa cấp trên với cấp dưới, giữa thủ trưởng với nhân
viên.
Ví dụ: quan hệ giữa giám đốc với thư kí của một tổng công ty, quan hệ

giữa đồng chí chủ tịch tỉnh với giám đốc sở kế hoạch và đầu tư của tỉnh đó.
- Hoặc một bên có quyền yêu cầu, kiến nghị còn bên kia có quyền xem xét,
giải quyết và có thể đáp ứng hay bác bỏ yêu cầu kiến nghị đó.
Ví dụ: Công dân có quyền yêu cầu( cùng các giấy tờ hợp lệ nhất định)
công an quận, huyện giải quyết cho di chuyển hộ khẩu.Công an quận huyện
xem xét có thể chấp nhận yêu cầu( nếu hồ sơ của công dân đó là hợp lệ)
hoặc không chấp nhận( nếu hồ sơ của công dân đó không đầy đủ không hợp
lệ).Hoặc như là việc công dân nam và nữ đủ tuổi kết hôn theo luật hôn nhân
gia đình đến cơ quan có thẩm quyền ở xã của một trong hai bên xin đăng kí
Năm học 2011 - 2012
6


kết hôn, khi đó họ phải nộp đày đủ những giấy tờ nhất định mới có thể kết
hôn, nếu như cơ quan chức năng của xã họ đăng kí thấy những giấy tờ đó
hoàn toàn hợp pháp thì tiến hành đăng kí kết hôn cho hai công dân đó, nếu
như có điều sai trái thì có quyền bác yêu cầu của hai bên công dân đó.
- Hoặc cả hai bên đều có quyền hạn nhất định nhưng bên này quyết định
điều gì phải được bên kia cho phép hay phê chuẩn hoặc cùng phối hợp quyết
định.Điều này cho thấy sự ngang bằng nhau về địa vị pháp lí cũng như thẩm
quyền của hai bên tham gia quan hệ pháp luật hành chính, không có bên nào
cao hơn bên nào về thẩm quyền, quyền hạn.
Ví dụ: Quan hệ giữa Bộ giáp dục và đào tạo và cá bộ ngành khác về việc
quyết định hình thức, quy mô đào tạo phải được Bộ giáo dục và đào tạo cho
phép hay phê chuẩn.Hay như là quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh và Nghệ An về
việc tỉnh Hà Tĩnh phân mốc địa chỉnh giữa hai tỉnh, việc làm này phải được
cả tỉnh Nghệ An xem xét cùng phải hợp thực hiện.
2. Biểu hiện thứ hai của sự không bình đẳng thể hiện ở chỗ một bên có thể
áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhằm buộc đối tượng quản lí phải thự
hiện mệnh lệnh của mình.Các trường hợp này được pháo luật quy định cụ

thể về nội dung và giới hạn.
Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính
nhà nước luôn thể hiện rõ nét, xuất phát từ quy định pháp luật, hoàn toàn
không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các bên tham gia các quan hệ đó.
Sự bất bình đẳng giữa các bên là các cơ quan trong bộ máy nhà nước bắt
nguồn từ quan hệ giữa các cấp trên và cấp dưới trong tổ chức của bộ máy
nhà nước.Sự không bình đẳng giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các
tổ chức xã hội, đơn vị kinh tế, các tổ chức và cá nhân khác không bắt nguồn
từ quan hệ tổ chức mà từ quan hệ “quyền lực - phục tùng”.Trong các cơ
quan đó, cơ quan hành chính nhà nước nhân danh nhà nước thể hiện chức
năng chấp hành – điều hành trong lĩnh vực được phân công phụ trách.Do
Năm học 2011 - 2012
7


vậy, các đối tượng kể trên phải phục tùng ý chí của Nhà nước mà đại diện là
cơ quan hành chính nhà nước.Ví dụ: khi các cá nhân hộ gia đình vi phạm
hành lang an toàn giao thông, cụ thể như vi phạm lấn chiếm hành lang vỉa hè
sẽ buộc phải tháo dỡ, nếu không tự tháo dỡ hay có tình chống đối sẽ bị
cưỡng chế.Hay ví dụ như hộ gia đình cố tình xây dựng trái phép vi phạm
luật đất đai thì sẽ buộc phải tháo dỡ các công trình xây dựng trên phần đất vi
phạm đó.Khi cán bộ công chức vi phạm nghĩa vụ công chức tại các điều 6,
7, và điều 8 của pháp lệnh công chức, cán bộ năm 2003 sẽ bị xử lí kỉ luật
theo nghị định Chính phủ số 35/2005/NĐCP ngày 17/3/2005 về việc xử lí kỉ
luật cán bộ công chức.Cũng theo như quy định tại điều 12 chương 2 nghị
định chính phủ ngày 16/12/2008 về xử lí vi phạm hành chính thì cơ quan
quản lí hành chính có quyền tịch thu tang vật phương tiện được sử dụng để
vi phạm theo điều 17 của pháp lệnh.
3. Sự không bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ quản lí hành chính
nhà nước còn thể hiện trong tính đơn phương và bắt buộc của các quyết

định hành chính.
Các cơ quan hành chính nhà nước và các chủ thể quản lí hành chính nhà
nước khác, dựa vào thẩm quyền của mình, trên cơ sở phân tích đánh giá tình
hình có quyền đưa ra những mệnh lệnh hoặc đề ra các biện pháp quản lí
thích hợp đối với từng đối tượng cụ thể.Những quyết định ấy có tính chất
đơn phương vì chúng thể hiện ý chí của chủ thể quản lí hành chính nhà nước
trên cơ sở quyền lực đã được pháp luật cho phép.Ví dụ: Bộ trưởng Bộ công
an có quyền quyết định áp dụng các biện pháp trục xuất đối với người nước
ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam( điều 15 và khoản 8 điều 31
pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002).
Ví dụ: ngoài ra còn thể hiện trong trường hợp khi công dân vi phạm luật
an toàn giao thông cụ thể là không đội mũ bảo hiểm thì cảnh sát giao thông
có toàn quyền đơn phương lập biên bản xử lí ngay tại chỗ, có thể phạt tiền
và tước giấy phép lại xe.Hay khi hai bên kí giao kết hợp đồng kinh tế mà cơ
Năm học 2011 - 2012
8


quan nhà nước phát hiện không có sự tự nguyện thì cơ quan có thẩm quyền
quyết định không công chứng cho bản hợp đồng đó và có thể hủy bản hợp
đồng đó.
Trong thực tiễn quản lí hành chính nhà nước có trường hợp cơ quan hành
chính nhà nước ra quyết định do yêu cầu của cơ quan cấp dưới, đơn vị cơ sở
hay của cá nhân.Cũng có nhiều trường hợp trước khi ra quyết định các chủ
thể quản lí hành chính nhà nước tổ chức trao đổi, thảo luận về quyết định với
sự tham gia của đại diện các cơ quan cấp dưới, đơn vị cơ sở hoặc những
người có liên quan.Ngay cả trong trường hợp này quyết định của cơ quan có
thẩm quyền vẫn có tính chất đơn phương bởi vì yêu cầu của cá nhan hay cấp
dưới hoặc ý kiến đóng góp trong các buổi thảo luận không có tính chất quyết
định mà chỉ là những ý kiến để chủ thể quản lí hành chính nhà nước xem

xét, tham khảo trước khi đưa ra quyết định.
Những quyết định hành chính đơn phương đều mang tính chất bắt buộc
đối với các đối tượng quản lí.Tính chất bắt buộc thi hành cua các quyết định
hành chính được đảm bảo bằng cưỡng chế nhà nước.Tuy nhiên, các quyết
định hành chính đơn phương không phải bao giờ cũng được thực hiện trên
cơ sở cưỡng chế mà được thực hiện chủ yếu thông qua phương pháp thuyết
phục.Ví dụ: “Theo điều 10 mục A chương II về thủ tục áp dụng các biện
pháp cưỡng chế hành chính để thi hành các quyết định xử phạt vi phạm hành
chính thì khi cá nhân vi phạm quản lí hành chính thì cá nhân bị áp dụng một
số biện pháp cưỡng chế khấu trừ một phần tiền lương hoặc một phần thu
nhập.”
 Tóm lại, phương pháp quản lí hành chính là phương pháp mệnh lệnh đơn
phương.Phương pháp này được xây dựng trên nguyên tắc:
- Xác nhận sự không bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ quản lí
hành chính nhà nước: một bên nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà
nước để đưa ra các quyết định hành chính, còn bên kia phải phục tùng những
quyết định ấy.
Năm học 2011 - 2012
9


- Bên nhân danh nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước có quyền đơn phương
ra quyết định trong phạm vi thẩm quyền của mình vì lọi ích của nhà nước,
của xã hội.
- Quyết định đơn phương của bên có quyền sử dụng quyền lực nhà nước có
hiệu lực bắt buộc thi hành đối với các bên hữu quan và được đảm bảo thi
hành bằng cưỡng chế nhà nước.

Năm học 2011 - 2012
10



-

C.KẾT LUẬN
Tóm lại như những gì trình bày ở trên, chúng ta có thể khẳng định
chắc chắn rằng có sự bất bình đẳng trong qun hệ pháp luật hành chính, chính
sự bất bình đẳng này đang ngày ngày duy trì trật tự quản lí hành chính nhà
nước.Cho dù có sự bất bình đẳng nhưng chúng ta không thể phủ nhận rằng
chính nhờ sự bất bình đẳng ấy mà quan hệ pháp luật hành chính được duy
trì, đảm bảo một phần pháp chế xã hội chủ nghĩa, góp phần ổn định trật tự
trên mọi khía cạch của cuộc sống.Qua đó cho thất vai trò quan trọng của nó
đối với sự phát triển của chúng ta.

DANH MỤC THAM KHẢO
1. Gíao trình luật hành chính Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội), nxb
công an nhân dân.
2. Luật hôn nhân gia đình năm 2002
3. Nghị định của chính phủ số 35/2005/NĐCP ngày 17/3/2005 về việc xử lí kỉ
luật cán bộ công chức.
4. Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002.
5. Nghị định của chính phủ số 128/2008/NĐCP ngày 16/12/2008 quy định chi
tiết thi hành một số điều của pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính năm 2002
và pháp lệnh sử đổi, bổ sung một số điều của páp lệnh xử lí vi phạm hành
chính năm 2008.
6. Nghị định của chính phủ số 37/2005/NĐCP ngày 18/3/2005 quy định thủ tục
áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính.
7. Luật giao thông đường bộ ngày 29/6/2001.
Năm học 2011 - 2012

11


8. Thông tư lien tịch giữa Bộ giáo dục và đào tạo với các bộ ngành liên quan
đến việc quyết định hình thức quy mô đào tạo.
9. Luật tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân năm 2003.
10. Luật đất đai năm 2003.
11. Www.chinhphu.vn
12. Www.luatvietnam.com.vn
13. Www.vietlaw.gov.vn
14. Luật khiếu nại tố cáo năm 1998(sửa đổi năm 2004, 2005, 2006).

Năm học 2011 - 2012
12


MỤC LỤC

Năm học 2011 - 2012
13



×