Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nhận xét, đánh giá và kiến nghị các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.39 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

1


A/ĐẶT VẤN ĐỀ
Phiên tòa sơ thẩm (PTST) có vai trò quan trọng trong trong việc giải quyết vụ
việc dân sự (VVDS). Hiên nay pháp luật nước ta đã quy định khá đầy đủ về thủ tục tiến
hành PTST tạo cơ sở cho phiên tòa diễn ra hiệu quả. Tuy nhiên một số quy định của
pháp luật còn hạn chế, dẫn đến việc áp dụng pháp luật trên thực tế gặp nhiều khó khăn.
Để có thể hiểu hơn về quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa
sơ thẩm dân sự (PTSTDS) cũng như các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp
luật em xin chọn đề bài “Nhận xét, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
hiện hành về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự và kiến nghị”.
B/NỘI DUNG
I. Một số vấn đề lý luận chung
1. Khái niệm và đặc điểm của phiên tòa cấp sơ thẩm dân sự
a. Khái niệm PTSTDS: PTSTDS là phiên xét xử VADS lần đầu của tòa án. Theo
quan điểm của tiến sĩ Bùi Thu Huyền thì “PTSTDS là phiên họp công khai lần đầu của
Tòa án với sự tham gia của những người tham gia tố tụng theo nguyên tắc của những
thủ tục nhất định để tòa án đưa ra phán quyết về tòa bộ VADS hoặc những vấn đề còn
tranh chấp giữa các bên đương sự”.
b. Đặc điểm: Thứ nhất, PTSTDS là phiên họp đầu tiên của tòa án để xét xử lần
đầu VADS. Thứ hai, PTSTDS được tiến hành công khai với sự có mặt của tất cả những
người tiến hành và tham gia tố tụng. Thứ ba, Tại PTSTDS tòa án sẽ ra phán quyết để
giải quyết tòa bộ hoặc một phần tranh chấp giữa các bên đương sự.
2. Những quy định chung về phiên tòa sơ thẩm dân sự.
a. Nguyên tắc tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự: Các nguyên tắc cơ bản của
quá trình tiến hành PTSTDS được quy định từ Điều 3 đến Điều 24 Bộ luật tố tụng dân
sự 2005. Ngoài ra BLTTDS còn quy định một số nguyên tắc của PTSTDS như: PTST
phải được tiến hành đúng thời gian địa điểm được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét


xử hoặc giấy báo mở lại phiên tòa (Điều 196); Phiên tòa phải được tiến hành theo
phương thức xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục (Điều 197);…
b. Thành phần tiến hành và tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự.
- Hội đồng xét xử (HĐXX): Theo quy định tại điều 52 BLTTDS thì thành phần
HĐXX gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân, trong một số trường hợp đặc biệt
có thể có 2 thẩm phán và ba hội thẩm.
-Người tham gia PTST: những người tham gia tố tụng tại PTST bao gồm nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan, người đại diện, người bảo vệ quyền,
lợi ích của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định. Việc tham

2


gia của Viện kiểm sát là không bắt buộc, đây là điểm mới của Luật sửa đổi bổ sung
BLTTDS năm 2011.
c. Bản án sơ thẩm và biện bản phiên tòa.
- Bản án sơ thẩm: Bản án được HĐXX thảo luận, thông qua tuyên sau khi kết
thúc PTSTDS. Bản án sơ thẩm không có hiệu lực thi hành ngay, mà có thể bị kháng
nghị, kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.
- Biên bản phiên tòa: Biên bản phiên tòa là văn bản phản ánh diễn biến của Phiên
tòa, do thư ký ghi chép. Đây là một căn cứ quan trọng để VKS và và tòa án có thẩm
quyền xem xét lại việc xét xử của tòa án cấp sơ thẩm.
II. Đánh giá những điểm đạt được và hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng
dân sự về thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm
1. Thủ tục khai mạc và bắt đầu phiền tòa
* Chuẩn bị khai mạc phiên tòa:
Điều 212 BLTTDS việc chuẩn bị khai mạc phiên tòa do thư ký tòa án thực hiện, bao
gồm các công việc: Ổn định trật tự; kiển tra, xác định sự có mặt vắng mặt của những
NTGTT, làm rõ lý do vắng mặt; phổ biến nội dung phiên tòa,… Quy đinh về thủ tục này
này rất chi tiết, đầy đủ, rõ ràng, giúp cho việc giải quyết vụ việc được tiến hành nhanh

chóng và hiệu quả.
* Bắt đầu phiên tòa:
- Khai mạc phiên tòa: Thủ tục khai mạc phiên tòa được quy định tại điều 213
BLTTSD. Việc khai mạc phiên tòa do chủ tọa tiến hành; thư ký tòa sẽ báo cáo sự có mặt
vắng mặt của NTGTT, hội đồng xét xử kiểm tra lại… Trong giai đoạn này, nếu có căn cứ
thay đổi người tiến hành, người làm chứng, người phiên dịch thì Hội đồng xét xử phải
xem xét, quyết định về việc thay đổi hay không (Điều 214), nếu không chấp nhận thay
đổi thì phải công bố rõ lý do. Thủ tục này được quy định đầy đủ, chi tiết và hợp lý, góp
phần đảm bảo quyền lợi của những người tham gia tố tụng, đồng thời góp phần đảm bảo
cho việc xét xử được tiến hành khách quan, công bằng, vô tư.
- Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa: Điều 215 BLTTDS quy định, nếu có người
vắng mặt thuộc các trường hợp buộc phải hoãn phiên tòa thì hội đồng xét xử phải xem
xét và quyết định hoãn phiên tòa; nếu không thuộc trường hợp bắt buộc hoãn phiên tòa
thì chủ tọa phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa không, nếu có thì hội
đồng xét xử cũng phải xem xét và ra quyết định. Ngoài ra trong giai đoạn này, toà án còn
thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo tính khách quan của người làm chứng (Điều
216).
Có thể thấy các quy định về thủ tục bắt đầu phiên tòa của BLTTDS rất chi tiết và
cụ thể, với những quy định này thì vai trò của thẩm phán chủ tọa phiên tòa rất lớn, góp
3


phần đảm bảo cho việc quản lý vụ án của tòa án chặt chẽ, đúng đối tượng, đúng thủ tục tố
tụng và đảm bảo quyền lợi của những NTGTT. Tuy nhiên một số quy định còn hạn chế.
Chẳng hạn quy định hoãn phiên tòa trong trường hợp đương sự vắng mặt lần đầu mà
không có lý do chính đáng. Quy định này tuy bảo vệ được quyền lợi cho một bên đương
sự, nhưng lại là không công bằng cho các đương sự có quyền và lợi ích liên quan và sẽ
tạo ra một lỗ hổng, để các đương sự cố tình vắng mặt, kéo dài thời gian xét xử. Ngoài ra
một số căn cứ hoãn phiên tòa còn chưa thật sự sát với thực tế, gây khó khăn cho tòa án
trong quá trình xem xét. Thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp tòa án xác định sai tư

cách đương sự, dẫn tới việc xác định sai căn cứ hoãn phiên tòa.
2. Thủ tục hỏi tại phiên tòa.
- Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu.
Thủ tục này được quy định cụ thể tại Điều 217, 218, 219 BLTTDS. Quy định này khá
đầy đủ, thể hiện được nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, nhằm đảm bảo quyền lợi
của đương sự trong phạm vi luật quy định. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật vẫn còn
một số hạn chế, không cụ thể rõ ràng, chính vì vậy việc áp dụng pháp luật khó khăn,
không thống nhất. Điều 218 quy định “Hội đồng xét xử … không vượt quá phạm vi yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban đầu”. Thế nào là” vượt quá phạm vi
yêu cầu ban đầu”, BLTTDS và NQ 02/2006 không quy định rõ ràng. Nghị quyết hướng
dẫn “yêu cầu ban đàu là yêu cầu ban đầu là yêu cầu được thể hiện trong đơn khởi kiện
của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu của những người có quyền và lợi
ích liên quan”. Hướng dẫn này chưa hợp lý và sẽ làm hạn chế quyền tự định đoạt của
đương sự. Hơn nữa, quy định này đã dẫn đến các cách hiểu khác nhau trên thực tế: vượt
quá phạm vi yêu cầu ban đầu là vượt quá phạm vi quan hệ pháp luật tranh chấp hoặc vượt
quá phạm vi giá trị yêu cầu ban đầu, gây khó khăn cho tòa án trong việc áp dụng
- Hỏi về việc tự hòa giải của đương sự: Việc đương sự tự thỏa thuận giải quyết
tranh chấp trong mọi giai đoạn tố tụng luôn được khuyến khích, vì vậy điều 220 quy định
trước khi xét xử Chủ tọa phải hỏi xem đương sự có thỏa thuận được với nhau không. Nếu
các đương sự tự nguyên thỏa thuận được thì HĐXX sẽ xem xét, quyết định công nhận sự
thỏa thuận của đương sự. Tuy nhiên, BLTTDS không quy định rõ ràng phạm vi những vụ
án mà Hội đồng xét xử hỏi các bên hòa giải, có thể hiểu tất cả cá vụ án đều được hỏi hòa
giải, hoặc các vụ án không được hỏi hòa giải tại thời điểm chuẩn bị xét xử thì không được
hỏi tại phiên tòa. Đồng thời không quy định rõ về việc công nhận trong trường hợp các
đương sự thỏa thuận được một phần quan hệ trong vụ án.
Ngoài ra, theo quy định thì quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự sẽ
không được kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Quy định này là một lỗ hổng
của pháp luật, bởi nếu trình độ chuyên môn của Hội đồng xét xử hạn chế, dẫn đến quyết
4



định sai, việc quy định quyết định có hiệu lực ngay thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của những người có quyền và lợi ích liên quan, đồng thời còn bỏ đi nguyên tắc
hai cấp xét xử.
- Nghe đương sự trình bày về vụ án:
Điều 221 BLTTDS 2004 quy định trình tự các bên đương sự trình bày việc kiện tại
tòa. Theo quy định này thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và
đương sự sẽ cùng tham gia tố tụng, cùng có quyền bổ sung chứng cứ và chứng minh.
Người bảo vệ quyền và lợi ích sẽ được trình bày trước. Quy định này là hợp lý, bởi người
bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự là người am hiểu pháp luật, nắm được tình hình của
vụ việc, do đó có thể đảm bảo được quyền lợi của đương sự. Những quy định mới này đã
mởi rộng quyền dân chủ và vai trò của những NTGTT trong việc cung cấp chứng cứ,
thực hiện nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích của mình.
Tuy nhiên, một hạn chế là BLTTDS không quy định cụ thể, chi tiết về thủ tục trình
bày của đương sự mà quy định đan xen trong phần hỏi, dẫn đến thủ tục PTSTDS vẫn
nặng về xét hỏi, đương sự chưa được chủ động trong việc đưa ra chứng cứ, chứng minh
cho yêu cầu của mình.
- Tiến hành hỏi tại phiên tòa sơ thẩm:
Thủ tục hỏi được quy định tại điều 222 và hỏi từng người được quy định cụ thể tại
các điều 223, 224, 225, 226 BLTTDS. Điều 222 BLTTDS quy định, chủ toạ phiên toà là
người hỏi trước, sau đó đến hội thẩm nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, đương sự, những NTGTT khác và KSV là người hỏi sau cùng. Quy định
này đã hạn chế sự can thiệp của VKS vào việc giải quyết các tranh chấp dân sự, đảm bảo
được tính khách quan và dân chủ của PTSTDS. Về nội dung hỏi, HĐXX không hỏi về
toàn bộ nội dung vụ án, mà chỉ hỏi về những vấn đề mà đương sự trình bày chưa rõ hoặc
có mâu thuẫn. Trong thủ tục này, khi cần thiết, HĐXX cho nghe băng ghi âm, đĩa ghi
âm, xem băng ghi hình, đĩa ghi hình (Điều 228). Đây là sự thể hiện việc ứng dụng công
nghệ trong hoạt động xét xử.
3.Tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự:
Tranh luận là hoạt động trung tâm tại PTSTDS, đảm bảo cho đương sự tự bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Vai trò của đương sự được thể hiện rõ nét trong thủ
tục này. Các quy định của BLTTDS từ điều 232 đến 235 đã cho thấy tầm quan trọng của
hoạt động tranh luận trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án và xu hướng đổi mới
hoạt động tư pháp ở nước ta là mở rộng quyền tranh luận của đương sự, đề cao vai trò
chủ động của đương sự trong việc tranh luận ở tại phiên tòa, bảo đảm cho đương sự bảo
vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước toà án.
5


- Thành phần tham gia tranh luận: Điều 232 quy định thành phần tham gia
tranh luận gồm có đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
đương sự, cơ quan tổ chức khởi kiện, quy định này của pháp luật đã thể hiện được bản
chất của PTSTDS.
- Căn cứ tranh luận: Điều 233 BLTTDS quy định rõ khi phát biểu về đánh giá
chứng cứ, đề xuất quan điểm của mình về việc giải quyết vụ án các bên phải căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được và đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tòa cũng
như kết quả việc hỏi tại phiên tòa. Việc BLTTDS 2004 quy định căn cứ tranh luận là
điểm mới so với các pháp lệnh trước đó, góp phần hạn chế việc các bên khi tham gia
tranh luận chỉ dựa vào suy đoán cảm tính, tranh luận không có căn cứ, đảm bảo cho
PTST diễn ra nhanh chóng và hiệu quả.
- Về trình tự tranh luận: Trình tự tranh luận được quy định tại điều 232
BLTTDS, theo đó thì khi phát biểu khi tranh luận người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự nguyên đơn phát biểu trước, sau đó đương sự bổ sung ý kiến. Việc
quy định cho người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự tranh luận trước, họ là
những người am hiểu pháp luật, có kĩ năng tranh luận, do đó có thể bảo vệ quyền lợi của
đương sự hiệu quả; sử dụng mọi khả năng tranh luận và các phương pháp chứng minh
theo luật định để bảo vệ quyền và lợi hợp pháp của đương sự. Ngoài ra, BLTTDS không
giới hạn thời gian tranh luận, chủ tọa phiên tòa chỉ có quyền cắt những ý kiến không có
liên quan. Điều này tạo điều kiện tối đa cho cho đương sự và những đại diện của họ
được thực hiện đầy đủ khả năng tranh luậncủa mình.

Có thể thấy các quy định về thủ tục tranh luận tại tòa có nhiều đổi mới hợp lý hơn,
tuy nhiên do không quy định cụ thể nguyên tắc tranh luận tại tòa, nên việc tranh luận còn
một số hạn chế trên thực tế. Nhiều phiên tòa, tại thủ tục tranh luận còn có sự can thiệp
quá nhiều của Tòa án và VKS, tính dân chủ, khách quan không được đảm bảo.
VKS phát biểu: Tại PTSTDS sự tham gia của VKS là không bắt buộc trong mọi
trường hợp. Đây là điểm mới trong quy định của pháp luật, thể hiện được chức năng
giám sát của VKS. VKS chỉ phát biểu đối với việc tuân thủ pháp luật, nhưng không được
phát biểu về nội dung của vụ án, về sự trình bày của các bên; điều này đảm bảo tính dân
chủ, khách quan trong quá trình tố tụng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy trong nhiều trường
hợp VKS còn can thiệp vào việc giải quyết vụ án, gây ảnh hưởng đến sự vô tư của
HĐXX trong quá trình giải quyết Vụ án, đồng thời hạn chế tính dân chủ của PTSTDS.
4. Nghị án và tuyên án
Nghị án: là việc hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án trên cơ sở
kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Nghị án được BLTTDS quy định tại hai
Điều 236 và Điều 237. Theo Điều 236 BLTTDS, việc nghị án được tiến hành tại phòng
6


riêng, chỉ có các thành viên của hội đồng xét xử mới có quyền nghị án. Quy định này
nhằm đảm bảo nguyên tắc nghị án bí mật, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, đảm bảo được quyền lợi ích của các bên tham gia.
Thứ tự nghị án: hội thẩm nhân dân biểu quyết trước,thẩm phán biểu quyết sau
cùng. Quy định này giúp phát huy vai trò, trách nhiệm của hội thẩm nhân dân.
Thời gian nghị án: tối đa không quá 5 ngày làm việc. Quy định này đảm bảo
nguyên tắc xét xử liên tục, phát huy trách nhiệm của các thành viên HĐXX trong việc
giải quyết vụ án. Nhằm mở rộng khả năng tranh tụng, đảm bảo tính dân chủ, tính thận
trọng, khách quan, công bằng, Điều 237 BLTTDS quy định nếu xét thấy có tình tiết
chưa được xem xét, việc hỏi chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì HĐXX
quyết định trở lại việc hỏi và tranh luận.
Tuyên án: Sau khi bản án đã được thông qua, hội đồng xét xử trở lại phòng xét

xử để tuyên án. Việc tuyên án được quy định tại Điều 239 BLTTDS. Tuy quy định này
đã chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của các đối tượng đặc biệt, tuy nhiên vẫn còn một
số hạn chế, không có tính khả thi trên thực tế: điều 239 quy định sau khi tuyên án, nếu
đương sự không biết tiếng Việt thì phải dịch lại cho họ nghe toàn bộ bản án sang ngôn
ngữ khác. Thế nào là sau khi tuyên án, BLTTDS không quy định rõ ràng. Thực tế,
không phải tại phiên tòa nào cũng có người giỏi ngoại ngữ để có thể dịch chính xác bản
án, đặc biệt là đối với các ngôn ngữ không thông dụng, chính vì vậy quy định này
không phù hợp và rõ ràng.
III. Kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về thủ tục tiến hành
phiên tòa sơ thẩm dân sự.
1. Thay đổi thành phần của Hội đồng xét xử:
Theo quy định hiện hành thì thành phần HĐXX gồm 1 thẩm phán và 2 hội thẩm,
trong trường hợp đặc biệt là 2 thẩm phán và 3 hội thẩm. Tuy nhiên thực tế cho thấy,
năng lực của hội thẩm nhân dân còn hạn chế, nhiều phiên tòa sự tham gia của hội thẩm
nhân dân chỉ mang tính hình thức, hiệu quả nghị án và việc giải quyết VADS chưa cao,
nhiều vụ việc xét xử còn sai sót. Do đó điều 52 BLTTDS nên sửa theo hướng tăng số
lượng thẩm phán so với hội nhẩm: “HĐXX sơ thẩm VADS gồm 2 thẩm phán và 1 hội
thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì HĐXX sơ thẩm có thể gồm 3 thẩm phán
và 2 hội thẩm nhân dân”.
2. Giải thích rõ phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu của các đương sự.
BLTTDS và các văn bản hướng dẫn chưa quy định cụ thể thế nào là “vượt quá
phạm vi yêu cầu ban đầu”, gây khó khăn cho việc hiểu và áp dụng. Vì vậy cần phải có
các quy định hướng dẫn cụ thể, hợp lý quy định này. Theo ý kiến của cá nhân em, có thể
hiểu phạm vi yêu cầu là phạm vi nội dung quan hệ pháp luật dân sự mà các bên đã yêu
7


cầu pháp luật giải quyết và phạm vi giá trị yêu cầu. Do đó cần quy định tại phiên toà
đương sự được quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu nhưng không được vượt quá phạm vi
nội dung quan hệ pháp luật theo yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập ban

đầu; không được đưa thêm yêu cầu mới đồng thời không được tăng giá trị yêu cầu gây
bất lợi cho các đương sự khác.
3. Sửa đổi bổ sung các căn cứ hoãn phiên tòa:
Nên bỏ căn cứ hoãn phiên tòa là trường hợp đương sự vắng mặt lần đầu mà
không có lý do chính đáng. Trong các trường hợp này, để nâng cao ý thức hợp tác của
các đương sự, đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự khác, nên bổ sung vào khoản
4 Điều 202 về xét xử trong trường hợp đương sự vắng mặt như sau: “4. nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền, lợi ích liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vẫn
vắng mặt không có lý do chính đáng”.
Ngoài ra, cần bỏ căn cứ hoãn phiên tòa theo khoản 4 Điều 230, và quy định đó là
căn cứ tạm ngừng phiên tòa. Vì hoãn phiên toà chỉ nên tiến hành khi bắt đầu phiên toà,
tức là chưa xem xét giải quyết về mặt nội dung vụ án, còn khi đã xem xét giải quyết về
mặt nội dung vụ án nhưng cần phải thu thập thêm chứng cứ mới có thể giải quyết được
vụ án thì Hội đồng xét xử phải quyết định tạm ngừng phiên toà.
4. Hướng dẫn cụ thể các trường hợp thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự,
và đương sự vắng mặt.
Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần có hướng dẫn cách giải quyết những
vấn đề phát sinh từ việc thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự theo quy định của Điều
219. Theo cá nhân em, khi thay đổi địa vị tố tụng của các đương sự thì cần công bố rõ
địa vị tố tụng mới của đương sự, đồng thời cần quy định rõ kể từ thời điểm thay đổi địa
vị tố tụng các đương sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng theo địa vị được thay đổi.
Ngoài ra, cần phải giải thích cụ thể thế nào là trường hợp đương sự không có mặt
tại tòa, bởi nó ảnh hưởng đến quyền kháng cáo của đương sự sau này. Thực tế cho thấy,
nhiều vụ án đương sự đã được triệu tập và có mặt tại PTSTDS, nhưng tại thời điểm nghị
án và tuyên án, đương sự bỏ về. Vậy đây có thể được xem là trường hợp đương sự vắng
mặt không, BLTTDS không quy định rõ. Theo em thì nên xem đây là trường hợp đương
sự không có mặt tại phiên tòa, để đảm bảo quyền lợi của đương sự.
5. Bổ sung các quy định về phần hỏi tại phiên tòa sơ thẩm:
- Sửa đổi quy định về việc công nhận kết quả tự hòa giải của đương sự tại phiên
tòa. Điều 220 không quy định cụ thể việc công nhân sự thỏa thuận là đối với thỏa thuận

một phần hay toàn bộ vụ án, do đó để đảm bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của
đương sự, giúp việc áp dụng pháp luật trên thực tế được dễ dàng, thống nhất, cần sửa
đổi, bổ sung quy định tại điều 220 như sau: “Nếu tại PTST, các đương sự thỏa thuận
8


được một trong số các quan hệ tranh chấp thì tòa án ra quyết định tác vụ án và ra
quyết định công nhận sự thỏa thuận đối với các quan hệ mà các bên thỏa thuận được,
tiếp tục xét xử đối với các quan hệ còn lại”(4).
- Quy định cụ thể, rõ ràng thủ tục từng NTGTT tự trình bày: để tránh tình trạng
phiên tòa nặng về phần xét hỏi, đảm bảo tính dân chủ cũng như quyền lợi của các đương
sự cần phải có quy định cụ thể về thủ tục những người tham gia tố tụng tự trình bày,
không nên quy định xen lẫn với thủ tục hỏi.
- Thay đổi quy định về phần trình bày của đương sự: Để đảm bảo cho việc xét xử
nhanh chóng, tranh sự rườm rà, mất thời gian, nên thay đổi quy định tại khoản 1 điều
221 theo hướng quy định đương sự không cần trình bày lại về yêu cầu, yêu cầu độc lập,
yêu cầu phản tố, đề nghị chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ mà trước đây họ đã
trình bày.
6. Bỏ sự tham gia của VKS:
Mặc dù các quy định của pháp luật hiện hành đã hạn chế sự tham gia của VKS
vào việc giải quyết nội dung của VADS, tuy nhiên thực tế cho thấy, trong rất nhiều vụ
án, VKS vẫn can thiệp sâu vào quá trình hỏi và tranh luận, và nghị án. Điều đó dẫn đến
việc không đảm bảo sự vô tư, khách quan trong quá trình xét xử, cũng như hạn chế tính
dân chủ. Do đó em xin đưa ra kiến nghị là hủy bỏ việc tham gia của VKS trong thủ tục
hỏi và tranh luận tại PTSTDS.
7. Bổ sung quy định về dịch bản án.
Điều 239 quy định sau khi tuyên án, nếu đương sự không hiểu tiếng việt thì phải
dịch sang tiếng nước ngoài. Quy định này tuy đảm bảo quyền lợi của đương sự, nhưng
lại không khả thi, do không quy định thời gian dịch bản án. Vì bản án bản án của toà án
là phán quyết nhân danh nhà nước nên việc dịch bản án phải chính xác. Do đó cần có

thời gian để người phiên dịch dịch bản án sang tiếng nước ngoài. Điều 239 BLTTDS cần
quy định theo hướng “trong trường hợp có đương sự không biết tiếng Việt thì chậm nhất
sau năm ngày kể từ ngày tuyên án, toà án phải triệu tập đương sự đến nghe người phiên
dịch dịch toàn bộ bản án sang ngôn ngữ mà họ hiểu”.
C/KẾT LUẬN
Nhận thấy, các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về thủ tục tiến hành
PTSTDS bên cạnh những điểm đạt được thì còn tồn tại những hạn chế, chưa được quy
định rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc hiểu và áp dụng trên thực tế còn nhiều khó khăn, hiệu
quả của việc giải quyết vụ án chưa cao. Do đó, hi vọng những kiến nghị mà em đưa ra
sẽ giúp hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật, nâng cao tính dân chủ, khách quan,
công bằng và chính xác của PTSTDS.
9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng dân sự,
Nxb, tư pháp, Hà Nội 2005.
2. Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2004
3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của bộ luật Tố tụng dân sự năm 2011
4. Nghị quyết số 02/2006 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn về “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm”;
5. Bùi Thị Huyền, Phiên tòa sơ thẩm dân sự - những vấn đề lý luận và thực
tiễn – luận văn tiến sỹ Luật học, hà Nội 2008.
6. />
10



×