Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Từ khi ban hành bộ luật dân sự đến nay, tòa án việt nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật của quốc gia khác để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.49 KB, 9 trang )

Một trong những vấn đề quan trọng được nghiên cứu trong Tư pháp quốc tế là có
cần thiết phải áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc dân sự có
yếu tố nước ngoài hay không và trong những trường hợp nào thì cơ quan có thẩm
quyền áp dụng pháp luật nước ngoài.’

Việc áp dụng pháp luật nước ngoài là cần thiết trong các trường hợp khi quy phạm
xung đột của pháp luật quốc gia hoặc quy phạm xung đột trong các điều ước quốc
tế mà quốc gia là thành viên dẫn chiếu đến luật nước ngoài đó hoặc theo sự thỏa
thuận của các bên. Tuy nhiên pháp luật các nước thường quy định các điều kiện cụ
thể để luật nước ngoài có thể áp dụng.

Tại Việt Nam, vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài hiện nay được quy định tại các
Điều 759 Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 5 Luật Thương mại năm 2005, Điều 4
Bộ luật hàng hải năm 2005, Điều 101 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 5
Luật Đầu tư năm 2005 và một số văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo các quy
định trên thì việc áp dụng pháp luật nước ngoài sẽ được cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam áp dụng trong các trường hợp các văn bản của Việt Nam hoặc điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước
ngoài hoặc trong các trường hợp các bên có thỏa thuận trong hợp đồng, nếu sự thỏa
thuận đó không trái với pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên thực tiễn cho thấy rằng tòa án Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật
quốc gia khác để giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra việc
áp dụng pháp luật nước ngoài trên cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột có thể
bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của các bên tranh chấp.

I. Thực tiễn áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt Nam.


Xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang ngày
càng được đẩy cho nên việc áp dụng pháp luật nước ngoài là một nhu cầu khách


quan không thể tránh khỏi ở tất cả các quốc gia trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự và
thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển.

Mặc dù việc áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc dân sự theo
nghĩa rộng cóyếu tố nước ngoài là một trong những hoạt động diễn ra từ rất lâu và
rất phổ biến trên thế giới, và mặc dù pháp luật Việt Nam đã có rất nhiều quy định
cho phép áp dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết những vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài trong những trường hợp nhất định với những nguyên tắc nhất định
nhưng đây vẫn là một hoạt động hoàn toàn mới mẻ đối với các tòa án. Thực tế việc
các tòa án của Việt Nam áp dụng pháp luật nước ngoài trong quá trình giải quyết
một vụ án dân sự là rất hạn hữu, do đó việc tích lũy kinh nghiệm hoạt động áp
dụng pháp luật nước ngoài để giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài là
hoàn toàn chưa có.

Trong lĩnh vực tố tụng trọng tài, Điều 49 khoản 5 Pháp lệnh Trọng tài năm 2003
quy định: “Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn pháp luật theo quy định tại khoản
2 Điều 7 của Pháp lệnh này, tập quán thương mại quốc tế để giải quyết vụ tranh
chấp”. Trên thực tế, có thể nảy sinh trường hợp các bên không chọn pháp luật áp
dụng cho hợp đồng, khi đó, theo Điều 7 khoản 2 Pháp lệnh Trọng tài năm 2003 thì
“Trong trường hợp các bên không lựa chọn được pháp luật để giải quyết vụ tranh
chấp thì Hội đồng trọng tài quyết định”.

Theo quy tắc tố tụng của trọng tài quốc tế Việt Nam được áp dụng từ ngày
01/7/2004,“Hội đồng trọng tài quyết định chọn luật áp dụng mà Hội đồng trọng tài
cho là phù hợp”. Và thực tế, trọng tài Việt Nam đã dựa vào nhiều yếu tố của tranh
chấp để xác định luật áp dụng cho hợp đồng.


Ví dụ, trong hợp đồng ký ngày 09/11/1995 giữa một doanh nghiệp Việt Nam và

một doanh nghiệp Singapore,các bên có thoả thuận là “hợp đồng này sẽ được điều
chỉnh và giải thích và sẽ có hiệu lực theo luật Singapore”. Nhưng khi có tranh
chấp, Toà án áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết. Trên tạp chí Nghiên cứu
lập pháp tháng 10/2003, tác giả Nguyễn Ngọc Khánh đã nói “Thật đáng tiếc là
những quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ có
giá trị thực tế về mặt lý thuyết. Vì rằng, từ khi ban hành Bộ luật dân sự đến nay, tòa
án của Việt Nam chưa bao giờ áp dụng pháp luật quốc gia khác để giải quyết vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài, mà lẽ ra, việc áp dụng pháp luật nước ngoài trên
cơ sở dẫn chiếu của quy phạm xung đột đã có thể bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích
chính đáng của các bên tranh chấp”.Còn theo Nguyễn Công Khanh trên tạp chí
Dân chủ và pháp luật thì “Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam khi giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài, thường chỉ áp
dụng (và dựa vào) pháp luật Việt Nam, hầu như rất hãn hữu, nếu không muốn nói
là chưa bao giờ áp dụng pháp luật nước ngoài, mặc dù đã được quy phạm xung đột
dẫn chiếu”.

Tại hội thảo về Tư pháp quốc tế do Nhà pháp luật Việt - Pháp tổ chức ngày
27/5/2005, có đại biểu đã hỏi bà Ngô Thị Minh Ngọc (Thẩm phán Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội) về việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Theo đại biểu: “Trong
pháp luật Việt Nam, cụ thể là Bộ luật dân sự Việt Nam, tôi thấy có rất nhiều quy
định, đặc biệt là các quy định ở Phần VII trong đó nếu theo dẫn chiếu của quy
phạm xung đột thì chúng ta phải áp dụng pháp luật nước ngoài. Tương tự đối với
Luật hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, trên thực tế, ở nước ta, chưa một tòa án nào
áp dụng pháp luật nước ngoài trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự”. Theo
bà Ngô Thị Minh Ngọc: “Trước hết, phải thừa nhận rằng chúng tôi chưa bao giờ áp
dụng pháp luật nước ngoài khi giải quyết các tranh chấp dân sự hay ly hôn. Đối với
những vụ việc ly hôn mà chúng tôi giải quyết, thường là các bên tự thỏa thuận và
không có yêu cầu gay gắt về việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Hơn nữa, chưa có
vụ án nào mà bản thân đương sự hoặc về phía chúng tôi thấy cần thiết phải áp dụng
pháp luật nước ngoài”.



II. Vướng mắc trong áp dụng pháp luật nước ngoài và hướng hoàn thiện.

1. Vướng mắc trong áp dụng pháp luật nước ngoài.

Để áp dụng pháp luật nước ngoài theo đúng cách thức đòi hỏi các cơ quan xét sử
có trách nhiệm tìm hiểu nội dung. Thực tế của pháp luật Việt Nam chưa có một qui
định cụ thể nào về nghĩa vụ tìm hiểu nội dung pháp luật nước ngoài thuộc về cơ
quan xét xử hay của các bên đương sự. Đây là một vấn đề phức tạp và trên thực tế
gây không ít khó khăn cho thẩm phán.

Tại Việt Nam, pháp luật không có quy định cụ thể về cách thức áp dụng pháp luật
nước ngoài mà chỉ dựa trên các nguyên tắc xuất phát từ mục đích bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của các đương sự và lợi ích quốc gia.

Khi Tòa án Việt Nam thụ lý giải quyết những vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài,
phần nhiều liên quan đến một bên chủ thể là công dân Việt Nam nên việc ưu tiện
chọn luật Việt Nam để giải quyết thường được áp dụng nhằm thuận tiện cho việc
nghiên cứu Luật và theo hướng có lợi hơn cho công dân Việt Nam.

Tình trạng “luật khung”: là loại văn bản chứa đựng những quy định mang tính
nguyên tắc làm cơ sở cho việc đề ra những quy định cụ thể trong quá trình điều
chỉnh một hoặc một số quan hệ xã hội. Ví dụ, tại Điều 102 khoản 1 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000 có quy định: “Việc đăng ký kết hôn, nuôi con nuôi, giám hộ
giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng
giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam do Chính phủ quy định”. Việc
chỉ dừng lại ở những quy định có tính chất “khung” cho thấy, các nhà lập pháp
luôn cần đến sự tham gia của các nhà quản lý trong việc đưa ra những quy định chi
tiết, cụ thể nhằm áp dụng pháp luật vào hoạt động quản lý trong từng lĩnh vực cụ

thể.


Tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa các văn bản pháp luật khiến cho hoạt
động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật nước ngoài còn
hạn chế, nhiều khó khăn. Ví dụ: cùng quy định về thẩm quyền của tòa án trong
việc giải quyết các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nhưng lại
được quy định cả trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2010 tại Điều 102 khoản 3
và điểm g khoản 2 Điều 410, điểm c khoản 1 Điều 411 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2004.

Số lượng, chất lượng đội ngũ thẩm phán chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu mới.
Một số lượng không ít Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp hiện có còn phải đi học
văn hóa, nghiệp vụ, chính trị, tin học để đạt được tiêu chuẩn về trình độ theo yêu
cầu mới. Nguyên nhân này xuất phát từ các quy định về tiêu chuẩn lựa chọn Thẩm
phán của chúng ta không còn phù hợp với thời đại mới.. Nhiều người còn thiếu kỹ
năng, kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực chuyên sâu như sở hữu trí tuệ, thương
mại quốc tế, hàng không, hàng hải, giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế... Đặc
biệt là sự hiểu biết còn hạn chế về pháp luật các nước trên thế giới, Thẩm phán Việt
Nam biết nhiều pháp luật Việt Nam hơn pháp luật nước ngoài, những hiểu biết nếu
có về pháp luật nước ngoài chỉ mang tính rời rạc, góp nhặt mà thiếu tính hệ thống,
bài bản, chính vì vậy họ có xu hướng áp dụng pháp luật Việt Nam ngay cả khi quy
phạm xung đột dẫn chiếu tới. Phần lớn các Thẩm phán đứng tuổi không tham gia
được những vụ phải sử dụng đến ngoại ngữ.

Trong vấn đề công nhận và thi hành bản án nước ngoài tại Việt Nam phải trải qua
quá nhiều khâu quá trình áp dụng đơn yêu cầu phải được đến Bộ Tư pháp để xem
xét tính thích hợp tính hợp lệ của đơn sau đó chuyển đến Tòa án Tỉnh để thi hành.

2. Hướng hoàn thiện.


2.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc áp dụng pháp luật nước ngoài tại Việt nam.


Cần xây dựng các quy định mang tính nguyên tắc cũng như có hướng dẫn cụ thể
trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực Tư pháp quốc tế (đặc
biệt các qui định về việc áp dụng các quy phạm xung đột trong mối tương quan với
các quy phạm luật nội dung khác). Nhà nước cần chú trọng đến việc tổ chức tổng
kết đánh giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành một
cách toàn diện và đầy đủ nhằm kịp thời đề xuất, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ những
quy phạm lỗi thời, lạc hậu.

Rộng hơn nữa cần xây dựng các nguyên tắc về thứ bậc áp dụng các loại nguồn luật
trong các quan hệ pháp lý có tính chất quốc tế. Nếu trong nội luật chưa có điều
kiện xây dựng và hoàn thiện các quy phạm điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thì
cần thừa nhận các loại nguồn pháp luật quốc tế khác (điều ước quốc tế và các tập
quán quốc tế), trong những chừng mực có thể, nên thừa nhận các nguồn luật bổ trợ
(án lệ quốc tế, công trình nghiên cứu, các học thuyết) bên cạnh các nguồn luật
chính thống của Tư pháp quốc tế vì đây là một ngành luật còn thiếu rất nhiều các
quy định tương xứng.

Trong hoàn cảnh pháp luật chưa quy định (hoặc có nhưng chưa đầy đủ) cần phải có
các giải thích về “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” hoặc các quy
định về khái niệm “trật tự công cộng” một cách thống nhất tại hệ thống các cơ
quan xét xử. Thông qua thực tiễn xét xử (đặc biệt trong các vụ việc dân sự có yếu
tố nước ngoài), ngành tòa án nên tổng kết những vướng mắc, khó khăn trong quá
trình áp dụng pháp luật nước ngoài, qua đó tham khảo ý kiến của các chuyên gia,
nhà khoa học, kể cả tham khảo thực tiễn xét xử của tòa án các nước để có giải pháp
đúng đắn, phù hợp. Nên hệ thống hóa, và có cách giải thích thống nhất về khái
niệm trật tự công và các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam


Nên công bố các bản án quyết định (không chỉ giới hạn ở các bản án, quyết định
của Tòa án tối cao như hiện nay). Cần xây dựng thành một tài liệu pháp lý như sổ


tay thẩm phán để đạt được sự chấp nhận chung của các nhà làm luật cũng như thực
hiện công tác xét xử.

Hạn chế tình trạng “luật khung”: giảm dần pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội và nghị định của Chính phủ quy định những vấn đề chưa có luật. Khẩn trương
hoàn thiện để nâng cao thành luật những pháp lệnh, nghị định đã được thực tế kiểm
nghiệm là đúng. Tiếp tục hoàn thiện luật tố tụng dân sự, đặc biệt là luật tố tụng dân
sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài theo hướng đề cao trách nhiệm và quyền
tự định đoạt của các bên đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và bảo vệ
yêu cầu hợp pháp của họ trước tòa án. Nên chú trọng và khuyến khích cơ chế tự
thỏa thuận của các bên trong giải quyết các vụ án dân sự.

Chú trọng nghiên cứu xây dựng cơ chế hỗ trợ Tòa án qua các hình thức giải quyết
tranh chấp ngoài Tòa án phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay
như hòa giải, trọng tài đối với việc giải quyết các tranh chấp ngoài Tòa án theo
hướng các bên tự thỏa thuận với nhau và đến tòa án yêu cầu ra quyết định công
nhận sự thỏa thuận này để làm cơ sở pháp lý cho việc có thể cưỡng chế thi hành
trong thực tế.

Thành lập bộ phận nghiên cứu pháp luật nước ngoài thuộc Bộ Tư pháp Việt Nam.
Đây là mô hình đã được Cộng hoà Pháp áp dụng rất hiệu quả. Bộ phận nghiên cứu
pháp luật nước ngoài sẽ là cầu nối giữa Bộ Tư pháp và các cơ quan nhà nước, giúp
các cơ quan nhà nước tìm hiểu pháp luật nước ngoài, trao đổi thông tin về pháp
luật nước ngoài. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với hoạt động áp dụng pháp luật
nước ngoài của các toà án Việt Nam hiện nay, khi mà trách nhiệm tìm hiểu và xác

định pháp luật nước ngoài thuộc về các cơ quan xét xử. Từ đây, kiến thức về pháp
luật nước ngoài sẽ được cung cấp cho các cơ quan xét xử một cách hệ thống, đáp
ứng được yêu cầu của việc áp dụng pháp luật nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.


Hoàn thiện hơn việc giảng dạy bộ môn Tư pháp quốc tế là nhiệm vụ của các trường
Đại học đào tạo luật. Một trong những giải pháp quan trọng nhằm hoàn thiện hơn
việc giảng dạy bộ môn Tư pháp quốc tế là các trường không chỉ chuyên giảng dạy
về lý thuyết thuần túy (mặc dù ngay cả các học thuyết mang tính lý luận cũng còn
rất hạn chế, chưa toàn diện). Cần tạo ra một cơ chế liên thông cho các giảng viên
tiếp cận khía cạnh thực tiễn (như ra Tòa án tìm hiểu bản án, thực tiễn xét xử…),
đặc biệt, nếu có thể được tham gia với tư cách luật sư trong các vụ việc. Nếu
không, rất khó có thể xây dựng được hệ thống lý luận tốt khi tách rời thực tiễn.

2.2. Hoàn thiện yếu tố con người trong thực thi pháp luật nói chung và pháp luật
nước ngoài nói riêng.

Thực tế cho thấy trong mọi hoạt động, để đạt được thành công vấn đề con người là
quan trọng nhất. Nếu không có con người thì pháp luật chẳng qua là những từ ngữ
nằm trên giấy, không thể biến ý chí của Nhà nước, của nhân dân thành hành động
thực tế của mọi người. Do đó, cần nâng cao năng lực của cán bộ trong các cơ quan
áp dụng pháp luật. Nếu các chủ thể áp dụng pháp luật có trình độ chuyên môn hạn
chế thì không thể tránh khỏi việc đưa ra quyết định áp dụng pháp luật có nội dung
không bảo đảm các yêu cầu của pháp luật, ngay cả khi hệ thống pháp luật hoàn
thiện ở mức cao.

Để nâng cao trình độ năng lực của cán bộ trong thực thi pháp luật nước ngoài, cần
thực hiện tốt các công việc cụ thể sau:

- Xây dựng kế hoạch cụ thể trong từng giai đoạn về công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ làm công tác áp dụng pháp luật nước ngoài trong giải quyết các vụ việc có
yếu tố nước ngoài.


- Để đào tạo được đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên... đủ về số lượng,
có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ và năng lực chuyên môn nghiệp vụ ngang
bằng với các nước trong khu vực và trang bị đầy đủ các kiến thức pháp luật cần
thiết, chúng ta cần đầu tư thích đáng nguồn ngân sách nhà nước cho công tác đào
tạo đội ngũ công chức này.

- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá năng lực của cán bộ để có kế hoạch đào tạo và
đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của các công chức thực thi pháp luật nước
ngoài trong giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài.

Ngoài ra, để nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong công tác áp dụng
pháp luật nước ngoài để giải quyết các vụ việc có yếu tố nước ngoài, chúng ta cần
hoàn thiện quy định pháp luật về trách nhiệm pháp lí của các chủ thể áp dụng pháp
luật nhằm nâng cao hiệu quả xét xử các vụ việc có yếu tố nước ngoài.

Trong xu thế hội nhập hiện nay của Việt Nam, chúng ta cần thừa nhận thực tế việc
sử dụng các thuật ngữ “trật tự công”, hay các “nguyên tắc cơ bản của pháp luật”
hay các thuật ngữ tương tự khác (như pháp luật các nước đã thừa nhận) trong hệ
thống pháp luật quốc gia, coi đó như một công cụ sắc bén để bảo vệ những lợi ích
hay giá trị, chuẩn mực mà quốc gia cần bảo vệ. Tuy nhiên để hoàn thiện được vấn
đề này, còn rất nhiều việc phải làm, và mọi việc cần chuẩn bị từ ngày hôm nay



×