Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở việt nam năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.35 KB, 13 trang )

Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

NỘI DUNG
I. Khái quát chung về thuế giá trị gia tăng
1. Khái niệm và đặc điểm của thuế giá trị gia tăng
1.1 Khái niệm
Căn cứ theo Điều 1, Luật thuế GTGT quy định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế
tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản
xuất, lưu thông đến tiêu dùng.”
Như vậy, xét về bản chất, thuế GTGT là loại thuế gián thu, tức là các nhà sản xuất,
kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực
chất là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ. Điều này giúp cho cơ
quan quản lý, thu thuế giá trị gia tăng tránh được sự phản ánh gay gắt về thuế. Bên
cạnh đó, loại thuế này cũng có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng do phần
thuế này đã được cấu thành trong hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng.
Vì vậy, cần phải cân nhắc tính phù hợp, những yếu tố ảnh hưởng của loại thuế này
cho nên kinh tế.
- Thực hiện thuế GTGT, có thể làm ảnh hưởng tới các vấn đề tiêu dùng, mức
độ lạm phát. Thuế GTGT có thể ảnh hưởng tới sức tiêu dùng của công chúng. Xuất
phát từ chỗ thuế GTGT cấu thành trong giá bán (giá thanh toán), sức tiêu dùng của
công chúng phụ thuộc vào quan hệ giữa thu nhập với giá cả hàng hóa dịch vụ. Tỉ
trọng giữa giá cả và thu nhập của người chịu thuế càng cao, càng làm giảm cơ hội
tiêu dùng trong công chúng.
1.2 Đặc điểm thuế giá trị gia tăng.
Thứ nhất, thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Mọi đối tượng tồn tại
trong xã hội, cho dù là tổ chức hay cá nhân, là người nghèo hay người có thu nhập
cao đều phải chi trả thu nhập của mình để hưởng thụ kết quả sản xuất kinh doanh tạo
ra cho nền kinh tế xã hội. Tức là mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế,
chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập do hành vi tiêu dùng. Điều kiện để hàng
hóa dịch vụ là đối tượng chịu thuế GTGT là: “phải là hàng hóa, dịch vụ hợp pháp và


0


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

được phép lưu thông trên thị trường Việt Nam; các khâu của quá trình lưu thông
hàng hóa, dịch vụ từ sản xuất đến tiêu dùng phải là những giao dịch hợp pháp.”
Thứ hai, thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hành hóa, dịch
vụ. Đặc điểm này yêu cầu các chủ thể là đối tượng nộp thuế phải tự kiểm soát lẫn
nhau về giá trị hàng hóa, dịch vụ nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Cụ thể là các chủ thể
sản xuất, kinh doanh sử dụng hệ thống hóa đơn, chứng từ nhằm chứng minh giá trị
tăng thêm. Đó là căn cứ tính thuế, phương pháp xác định giá trị tăng thêm theo
chứng từ hóa đơn có rất nhiều lợi thế. Nó góp phần làm lành mạnh hóa thị trường và
nhà nước có thể kiểm soát được giá cả, số lượng hàng hóa, dịch vụ lưu thông trên thị
trường nhằm kiểm soát lạm phát và cung cấp số liệu thống kê hợp lý cho các mục
đích kinh tế khác.
Thứ ba, dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa, dịch vụ số thuế GTGT phải
nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở
tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa ở trong nước, khâu nhập
khẩu và lưu thông hàng nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là
phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu trước nên nếu coi giá thanh toán
tính đến khi người tiêu dùng thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ đã xác định trước và
không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa dịch cụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng
số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị
hàng hóa dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Đây vừa là đặc điểm vừa là ưu
việt của thuế GTGT so với thuế hành hóa dịch vụ thông thường mà Việt Nam và
nhiều quốc gia đã áp dụng trong giai đoạn trước đây.
II. Vai trò của thuế giá trị gia tăng
Cũng giống như các loại thuế khác thuế GTGT cũng góp phần tạo nguồn thu
cho NSNN, điều tiết hoạt động kinh tế, hướng dẫn tiêu dùng cho xã hội. Nhưng thuế

GTGT còn có những vai trò đặc thù sau:


Thuế GTGT góp phần lành mạnh hóa nền kinh tế, tạo nên sự cạnh tranh

bình đẳng giữa các chủ thể khi nó bắt buộc các chủ thể phải sử dụng hệ thống hóa
đơn chứng từ.

1


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam



Thuế GTGT giúp nhà nước kiểm soát được hoạt động, sản xuất, nhập

khẩu, kinh doanh hàng hóa nhờ kiểm soát được hệ thống hóa đơn, chứng từ, khắc
phục được nhược điểm của thuế doanh thu là trốn thuế. Qua đó, còn cung cấp cho
công tác nghiên cứu, thống kê những số liệu quan trọng.


Thuế GTGT góp phần bảo hộ nền sản xuất trong nước một cách hợp lý

thông qua việc đánh thuế GTGT hàng nhập khẩu ngay từ khi nó xuất hiện trên lãnh
thổ Việt Nam; bên canh đó thuế GTGT đánh vào hàng hóa xuất khẩu nhằm tạo ra
thuế GTGT đầu ra để được hoàn thuế GTGT.
III.

Một số quy định pháp luật hiện hành về thuế giá trị gia tăng


Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng
Căn cứ theo điều 4, Luật thuế GTGT năm 2008, điều 2 (Nghị định
123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Thuế GTGT) quy định: người nộp thuế là tất cả các tổ
chức, cá nhân có sản xuất, kinh doanh hoặc nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ thuộc diện
chịu thuế giá trị gia tăng, không phân biệt thành phần kinh tế, doanh nghiệp trong
hay ngoài nước, cá nhân hay hộ gia đình…Việc xác định đối tượng nộp thuế còn tùy
thuộc vào hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế. Tất cả hàng hóa dịch vụ không
nằm trong diện đặc biệt khuyến khích tiêu dùng đều nằm trong diện chịu thuế.
Lưu ý: khi xác định chủ thể nộp thuế GTGT với điều kiện cần và đủ theo quy
định pháp luật, cần chú ý một số trường hợp chủ thể kinh doanh không hiện diện
thực tế ở Việt Nam (như không có cơ sở kinh doanh, không có văn phòng đại diện,
trụ sở điều hành) nhưng có cung cấp hàng hóa dịch vụ chịu thuế cho bên Việt Nam.
Để chống thất thu thuế, pháp luật quy định đối tượng nhận hàng hóa dịch vụ phải
nộp thuế thay cho bên nước ngoài.
Đối tượng chịu thuế GTGT
Theo quy định tại điều 3, Luật thuế GTGT năm 2008 thì đối tượng chịu thuế
GTGT là hàng hóa, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt
Nam là đối tượng chịu thuế GTGT.

2


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

+ Đối với hàng hóa, dịch vụ tạo ra ở trong nước, phần GTGT là chênh lệch
giữa giá trị mua vào tương ứng lượng hàng hóa dịch vụ đã cung cấp.
+ Đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, phần GTGT là toàn bộ giá trị nhập
khẩu của hàng hóa.

Việc thu, nộp chỉ tiến hành trong thực tế khi chủ thể nộp thuế có phần tăng
thêm từ kết quả kinh doanh. Bên cạnh đó, do thuế GTGT là loại thuế tiêu dùng nên
quyền đánh thuế theo lãnh thổ được áp dụng rất rõ ràng. Các chủ thể không phân
biệt chủ thể đó mang quốc tịch Việt Nam hay không mang quốc tịch Việt Nam chỉ
cần có phần giá trị tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam đều phải nộp thuế. Nếu phần
giá trị tăng thêm được tạo ra bởi các chủ thể Việt Nam nhưng không phát sinh trên
lãnh thổ Việt Nam thì không phải nộp thuế GTGT theo pháp luật Việt Nam. Nhận
thấy việc quy định này phù hợp với pháp luật quốc tế.
Cùng với quy định về chủ thể nộp thuế GTGT, pháp luật nước ta quy định
những đối tượng không nộp thuế GTGT. Những đối tượng không thuộc diện nộp
thuế được quy định tại điều 5 luật thuế GTGT năm 2008 quy định 25 trường hợp
hàng hóa dịch vụ không thuộc diện thuế GTGT.
Giá tính thuế
Nhận thấy ưu điểm của việc xác định thuế trên cơ sở giá chưa có thuế, pháp
luật thuế GTGT Việt Nam quy định giá tính thuế GTGT là giá chưa có thuế GTGT;
đồng thời quy định chi tiết giá tính thuế đối với các hoạt động kinh doanh đặc thù.
+ Đối với hoạt động kinh doanh phổ biến, giá tính thuế hàng hóa dịch vụ chịu
thuế là giá chưa có thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ đó. Ví dụ: đối với hoạt
động cho thuê tài sản như cho thuê nhà, văn phòng, xưởng, kho tàng, bến, bãi,
phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị là số tiền cho thuê chưa thuế GTGT.
Trường hợp, hàng hóa dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, giá tính thuế
GTGT là giá đã có TTTĐB. Ví dụ: Đối với dịch vụ casino, trò chơi điện tử có
thưởng, kinh doanh giá trị có đặt cược, là số tiền thu từ hoạt động này đã bao gồm cả
TTTĐB.
+ Đối với hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu và các
loại thuế áp dụng đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu, giá tính thuế là giá nhập khẩu
3


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam


và các loại thuế áp dụng đối với hàng hóa dịch vụ nhập khẩu nhưng chưa có thuế
GTGT.
+ Đối với hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ dưới dạng đặc thù như cho
thuê tài sản, gia công hàng hóa, xây dựng… tùy theo từng trường hợp, pháp luật quy
định chi tiết về giá tình thuế GTGT.
Về thuế suất
Đối với thuế suất 0% cùng với việc áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ không
chịu thuế gia tăng theo quy định tại Điều 5 Luật Thuế GTGT thì có bổ sung thêm
hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế vào biểu thuế.
Đối với mức thuế 15% ngày càng thu hẹp, hiện nay áp dụng với 15 nhóm hàng
hóa (trước đây là 21 nhóm hàng hóa). Thường là những hàng hóa, dịch vụ là đầu vào
của sản xuất nông nghiệp như phân bón, quặng để sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu
và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng, gia súc… Bên cạnh đó, chuyển 7
nhóm hàng hóa dịch vụ trước đây chịu thuế suất 5 % sang chịu thuế suất 10% như in
các loại; than đá, đất, đá, cát, sỏi; hóa chất cơ bản; vật liệu nổ; đá mài; ống thủy tinh
trung tính; sản phẩm luyện, cán… Những hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế
GTGT không quy định áp dụng thuế suất 0%, 5 % thì đều áp dụng thuế suất 10%.
3.5 Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
Căn cứ vào Điều 9 Luật Thuế GTGT thì phương pháp tính thuế GTGT gồm
phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng. Trong
đó, nội dung cơ bản của phương pháp khấu trừ thuế là số thuế GTGT phải nộp được
tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Phương pháp trừ
trực tiếp là phương pháp tính thuế theo đó số thuế phải nộp bằng giá trị gia tăng của
hàng hóa, dịch vụ nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng.
3.6 Khấu trừ thuế đầu vào
Nâng thời hạn tối đa được kê khai thuế GTGT đầu vào: trường hợp cơ sở kinh
doanh phát hiện số thuế GTGT đâu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót thì được kê
khai, khấu trừ bổ sung: thời gian kê khai tối đa là 6 tháng, kể từ thời điểm thuế phát
sinh sai sót. Bổ sung quy định hàng hóa, dịch vu mua vào được khấu trừ thuế đầu


4


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

vào thì phải thanh toán qua ngân hàng, trừ trường hợp giá trị của hàng hóa, dịch vụ
mua vào từng lần dưới 20 triệu đồng.
3.7 Hoàn thuế giá trị gia tăng
Điều 13 Luật GTGT quy định 4 trường hợp hoàn thuế giá GTGT. Tuy nhiên, so
với Luật GTGT 1999 sửa đổi năm 2005 thì có bổ sung thêm trường hợp cơ sở kinh
doanh đã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới,
đang trong giai đoạn đầu tư có thể số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào sử
dụng cho đầu tư mà chưa đọc được khấu trừ hế và có số thuế còn lại từ 200 triệu
đồng trở lên thì được hoàn thuế (khoản 2 Điều 13 Luật Thuế GTGT).
4. Yếu tố ảnh hưởng đến thực thi pháp luật thuế GTGT hiện nay
4.1 Những yếu tố thúc đẩy việc thực thi pháp luật thuế GTGT
- Về phía các cơ quan Nhà nước, Chính phủ, Ban chỉ đạo triển khai các luật
thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các Ngành, các địa phương đã theo sát sự chỉ đạo
của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc hội, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
để tổ chức triển khai thực hiện luật thuế GTGT. Bên cạnh đó, trong quá trình triển
khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã bám sát cơ sở sản xuất
kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật
thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các
doanh nghiệp như: bổ sung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu
thuế GTGT tại Điều 5 Luật thuế GTGT năm 2008 v.v.. Mở rộng việc khấu trừ thuế
GTGT đầu vào (Điều 12 Luật thuế GTGT năm 2008) v.v..Các ban chỉ đạo đã quản lý
tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng pháp luật thuế GTGT
mới. Hơn nữa, không thể không nhắc tới sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan
và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị triển khai đến việc tổ chức thực hiện pháp luật

thuế GTGT.
Ngoài ra, công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có
nhiều tiến bộ hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn
hoá Trung ương và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền,
các đài báo Trung ương và địa phương đã phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, để
đẩy mạnh tuyên truyền giải thích các luật thuế mới, phản ánh kịp thời những tấm
5


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

gương điển hình thực hiện tốt các luật thuế mới cũng như những khó khăn vướng
mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới.
- Về phía người dân – những chủ thể nộp thuế, các cơ sở kinh doanh và mọi tầp
lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình thực hiện pháp luật thuế GTGT do nhận
thức được các luật sự tiến bộ và ưu việt của pháp luật thuế GTGT.
4.2 Những bất cập trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT hiện nay.
* Xuất phát từ sự bất cập trong các quy định của pháp luật thuế GTGT.
Về mặt lý thuyết, thuế GTGT mang tính khoa học rất cao, có khả năng tạo được
công bằng trong việc thu thuế, thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích phát triển sản xuất,
bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật thuế
GTGT ở nước ta hiện tại còn chứa đựng khá nhiều bất cập, gây ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như việc thực thi pháp luật
thuế GTGT.
Một trong những bất cập đầu tiên trong các quy định của luật thuế GTGT 2008
gây ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở nước ta hiện nay đó là quy
định về việc áp dụng hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Việc áp dụng
đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế
nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở
ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo

phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ
của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các
thành phần kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng trốn thuế. Mặt khác, những bất cập trong
kế toán thuế GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên
thị trường... cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ
kinh doanh nhỏ. Do đó, việc áp dụng đồng thời hai phương pháp tính thuế và hai loại
hóa đơn gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành của thuế GTGT trên phạm vi toàn
nền kinh tế - xã hội.
Cùng với bất cập nói trên thì việc không nhất quán trong phương pháp tính thuế
GTGT cũng là một yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực thi pháp luật thuế
GTGT. Cụ thể: hiện nay, theo quy định thuế GTGT được tính theo hai phương pháp
6


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ. Khi các đơn vị thực hiện theo
phương pháp khấu trừ cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị thực hiện theo
phương pháp trực tiếp thì những đơn vị này không được khấu trừ, trong khi, trong
giá trị hàng hoá đã có phần thuế GTGT nên đã làm cho thuế đánh chồng chéo lên
thuế. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao
dịch cung ứng dịch vụ, hàng hoá cho các đơn vị thực hiện thuế theo phương pháp
khấu trừ thuế GTGT thì thực chất là đơn vị nhận phải trả phần thuế GTGT chìm
trong giá bán mà đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện
đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi sân chơi chỉ chơi theo một hình, chính vì
vậy, đang hình thành hai xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào
chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế khó lòng giải quyết ngay
được. Chính hạn chế này đã tạo nên những vướng mắc cản trở việc thực thi luật thuế
GTGT trên thực tế.

Bên cạnh đó, thuế GTGT còn gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn.
Pháp luật về thuế GTGT qui định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập
kho nhưng chưa bán làm cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn, đặc
biệt là đối với những doanh nghiệp có số vốn ít. Có nhiều doanh nghiệp hoạt động
chủ yếu bằng vốn vay, khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp cho
phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng thêm cho dù sau
này sẽ được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại
lý khi chuyển hàng cho đại lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó chỉ khi nào
đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người mua. Do đó, quy định trên
của pháp luật là chưa hợp lý và có phần rườm rà.
Cuối cùng, những quy định của pháp luật về trình tự thủ tục xin hoàn thuế
GTGT cũng gây không ít trở ngại cho các doanh nghiệp. Quá trình thủ tục xin hoàn
thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của các doanh nghiệp. Để được
hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn, chứng từ lên cơ
quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thực hiện
bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế,
7


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm khó khăn cho doanh
nghiệp.
Nhận thấy, tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế
GTGT tuy không phải là chủ thể chịu thuế nhưng họ là những chủ thể nộp thuế và
họ là những đối tượng trực tiếp chịu sự điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT. Do đó,
những bất cập của pháp luật thuế GTGT nêu trên không chỉ ảnh hưởng đến các tổ
chức, cá nhân trong hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa dịch vụ mà còn gây
khó khăn cho họ trong việc thực hiện pháp luật thuế GTGT. Vì vậy, cần phải khắc
phục những bất cập nói trên để đảm bảo việc thực thi pháp luật thuế GTGT.

* Những yếu tố xuất phát từ phía các cơ quan có thẩm quyền
Trong thời gian qua, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có những hoạt
động tích cực nhằm thúc đẩy việc thực hiện pháp luật thuế GTGT. Bên cạnh đó, vẫn
còn tồn tại những trường hợp các cơ quan có thẩm quyền có những hoạt động gây
ảnh hưởng xấu đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT.
Đầu tiên phải kể đến hoạt động quản lý việc sử dụng hóa đơn, chứng từ của các
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Hiện nay, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
quản lý việc sử dụng hoá đơn chứng từ còn chưa tốt. Thời gian qua, việc quản lý in,
phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần phục
vụ cho công tác quản lý thu thuế. Hóa đơn đã đóng vai trò quan trọng và trở thành
chứng từ gốc để xác định việc chuyển nhượng hàng hoá, dịch vụ giữa các thể nhân,
pháp nhân, làm cơ sở cho việc hạch toán, kế toán, xác định nghĩa vụ về thuế của
doanh nghiệp và thanh quyết toán của các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Năm
2008 có gần 330.000 đơn vị sử dụng hoá đơn, tăng 1,77 lần so với năm 2003, với
tổng số lượng hoá đơn sử dụng là 945,3 triệu số hoá đơn.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây việc sử dụng hoá đơn phát sinh nhiều vấn
đề bất cập, như có hoá đơn trên thực tế không bảo đảm tính hợp pháp của chứng từ
theo pháp luật về kế toán; chưa có quy định về hoá đơn điện tử đối với các hoạt động
giao dịch theo Luật Giao dịch điện tử, quy định về hoá đơn đối với hàng xuất khẩu
chưa phù hợp với thực tế. Việc in, phát hành, bán hoá đơn của các của các cơ quan
thuế chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của doanh nghiệp, vẫn thiếu về chủng loại,
8


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

khó mua được đủ số lượng. Do đó, chính sự chậm trễ và yếu kém trong việc quản lý
sử dụng hóa đơn, chứng từ của các cơ quan nhà nước chính là một yếu tố gây ảnh
hưởng đến việc thực thi quy định của pháp luật thuế GTGT về chế độ hóa đơn chứng
từ đối với hàng hóa lưu thông trên thị trường.

Bên cạnh đó, do phải xử lý những bất cập, chưa phù hợp với thực tế, để đảm
bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, Chính phủ, Bộ tài chính đã phải giảm
50% thuế GTGT cho một số mặt hàng, mở rộng thêm một số đối tượng không chịu
thuế GTGT v.v… Tất cả những xử lý theo hướng "vướng đâu gỡ đấy" đã làm cho
biểu thuế suất biến dạng, trên thực tế gây nên sự bất hợp lý mới cho việc cạnh tranh
bình đẳng của doanh nghiệp.
Sự thoái hoá của một số cán bộ thuế cũng là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Không hiếm trường hợp chính cán bộ
thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân gian lận tiền thuế. Để thu một tỷ đồng tiền
thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian dài. Thế nhưng chỉ cần
hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian
ngắn. Điều này khiến không chỉ khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt
doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố mà còn gây ảnh hưởng xấu, cản trở việc thực
thi pháp luật thuế GTGT trong thực tiễn.
* Những yếu tố xuất phát từ phía người nộp thuế
Bản chất của thuế GTGT là thuế gián thu, tức là người chịu thuế không phải là
người trực tiếp nộp thuế. Chính điều này đã khiến cho việc gian lận thuế GTGT
thông qua việc giả mạo hóa đơn, chứng từ của các doanh nghiệp diễn ra rất phổ biến
hiện nay. Theo báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng trong những ngày gần
đây, hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT của các doanh nghiệp để
bòn rút tiền ngân sách Nhà nước đã trở thành một vấn nạn của toàn xã hội. Bởi các
hành vi gian lận này diễn ra trên phạm vi rất rộng, không chỉ ở các thành phố lớn mà
còn ở nhiều tỉnh lẻ, đồng thời số tiền gian lận, bòn rút tiền từ ngân sách Nhà nước bị
phát hiện đã lên đến hàng trăm tỷ đồng và chừng như các vụ gian lận bị phát hiện
ngày càng lớn, càng nghiêm trọng hơn với những thủ đoạn tinh vi hơn. Hiện tượng
này không chỉ đánh trực tiếp và đánh rất mạnh vào ngân sách nhà nước – trái tim của
9


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam


toàn bộ huyết mạch nền kinh tế nước ta mà còn làm vô hiệu hoá hệ thống quản lý
nhà nước và đánh mất lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Điều này sẽ làm ảnh
hưởng mạnh mẽ đến việc thực thi pháp luật về thuế GTGT.
5. Những đề xuất nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật thuế GTGT
Thứ nhất, về thuế suất thuế GTGT cần giảm số lượng tối đa còn hai mức thuế.
Điều chỉnh các mức thuế suất để đảm bảo nguồn thu cho NSNN trong khi thực hiện
lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu khi Việt Nam tham gia AFTA (khu vực mậu dịch tự
do ASEAN).
Thứ hai, về đối tượng ưu đãi miễn giảm thuế, cần giảm bớt, tiến tới việc tiến
hành xóa bỏ việc ưu đãi miễn giảm thuế cho tất cả các đối tượng, đảm bảo tính công
bằng và bình đẳng cho tất cả đối tượng nộp thuế.
Thứ ba, về phương pháp tính thuế GTGT, qua thực hiện thuế GTGT cho thấy,
sử dụng hai phương pháp tính thuế gây ra nhiều bất cập trong việc khấu trừ thuế đầu
vào. Không mang lại hiệu quả cho thu NSNN. Vì vậy chỉ nên áp dụng một phương
pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế. Các hộ kinh doanh nếu không đủ điều
kiện áp dụng phương pháp tính thuế này thì áp dụng phương pháp kê khai trực tiếp
hoặc khoán thuế.
Thứ tư, về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ, để tránh việc gian lận thuế
thông qua giả mạo hóa đơn, chứng từ. Bộ tài chính nên nghiên cứu lại giấy in hoá
đơn, chứng từ và ký hiệu, mã hiệu của từng loại hoá đơn, chứng từ để chống in giả,
nối mạng về quản lý và sử dụng hoá đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính
trong toàn quốc. Mặt khác, Bộ tài chính cần phải phối hợp với các cơ quan pháp luật
để kiểm tra, phát hiện và xử lý, nghiêm các trường hợp vi phạm về chế độ quản lý
,sử dụng hoá đơn, yêu cầu các doanh nghiệp phải tự kiểm tra nội bộ, mua bán hàng
hoá, dịch vụ phải ghi rõ tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán. Đồng thời mở rộng
khuyến khích các doanh nghiệp tự in hoá đơn GTGT theo mẫu qui định của Bộ tài
chính.
Thứ năm, về thủ tục hoàn thuế GTGT, trước những bất cập về thủ tục hoàn thuế
GTGT, Bộ tài chính đã có các văn bản bổ sung là hoàn thuế trước kiểm tra sau và

phải xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm. Các văn bản này đề cao trách nhiệm
10


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

và quyền lợi của các doanh nghiệp, của người nộp thuế trong việc hoàn thuế GTGT.
Tuy nhiên vấn đề hoàn thuế hiện nay vẫn còn nhiều bấp cập về thủ tục cũng như thời
gian hoàn thuế. Cần đề cao hơn nữa trách nhiệm của cơ sở trước những hồ sơ xin
được hoàn thuế cà tăng cường kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
Thứ sáu, hoàn thiện các văn bản pháp luật thuế, đặc biệt là thuế GTGT. Hoàn
chỉnh chế độ xử phạt hành chính trong lĩnh vực thuế, đảm bảo tính nghiêm minh
trong việc thực hiện pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế GTGT nói riêng.
Thứ bảy, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế cho
người dân. Do thực hiện quy trình quản lý thu thuế mới, đối tượng nộp thuế tự tính
thuế, kê khai và nộp thuế nên công tác tuyên truyền hướng dẫn, giải thích thật cụ thể
về nội dung chính sách thuế, quy trình quản lý thuế, cách ghi chép hoá đơn chứng từ,
cách kê khai thuế, công khai quy trình miễn thuế, hoàn thuế, giảm thuế tới từng cơ
sở tính, nộp thuế. Phối hợp ngành thuế với các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ
chức đoàn thể, xã hội trong tuyên truyền, giáo dục pháp luật về thuế.
KẾT LUẬN
Tóm lại từ tất cả những vấn đề đã phân tích ở trên cho thấy với sự ra đời của
Luật thuế GTGT 2008 thay thế các văn bản thuế GTGT trước đây, bước đầu đã đem
lại nhiều lợi ích đáng kể, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng như thông
lệ quốc tế. Tuy nhiên, sau năm năm áp dụng vào thực tế đã phát sinh không ít những
khó khăn, nhược điểm, đòi hỏi phải tiếp tục được sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, do
đặc tính cấu thành trong giá bán hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng của loại thuế
này mà Thuế GTGT có thể ảnh hưởng tới sức mua của công chúng, cũng đòi hỏi
Nhà nước phải có những chính sách thuế suất hợp lý qua các giai đoạn cụ thể để một
mặt hạn chế tối đa các tác dụng tiêu cực có thể xảy đến, một mặt góp phần làm ổn

định thị trường trong nước. Phát huy những tính ưu việt của Thuế GTGT để loại thế
này thực sự là loại thuế tiêu dùng nhằm động viên một bộ phận thu nhập của người
chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch vụ./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11


Bài tập cuối kỳ - môn Luật tài chính Việt Nam

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb Tư Pháp,
Hà Nội, 2010
2. Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008
3. Trần Minh Hiền, pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và phương hướng
hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ, 2006
4. www.luattaichinh.wordpress.com
5.
6.
7.
8. www.vtca.vn

12



×