Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở việt nam trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.65 KB, 12 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Nếu như Thuế đã xuât hiện từ rất lâu đời thì thuế giá trị gia tăng (GTGT) có thể coi là loại thuế
hiện đại, áp dụng chính thức lần đầu tiên tại Pháp năm 1954, mặc dù đã được các nhà kinh tế
nghiên cứu từ những năm 1920 ở các quốc gia khác nhau. Cho đến nay, loại thuế này được áp
dụng ở trên 120 quốc gia, vùng lãnh thổ.Từ 01/01/2009, Việt Nam bắt đầu thi hành luật thuế
giá trị gia tăng 2008 (GTGT). Với bản chất là loại thuế chỉ đánh trên phần giá trị tăng thêm của
hàng hóa, dịch vụ,.. nên thuế GTGT được khẳng định như một loại thuế có độ chính xác, hợp
lý, khoa học, khắc phục được hiện tượng thuế chồng thuế. Đồng thời thuế GTGT còn khẳng
định ưu điểm của mình trong khuyến hoạt động xuất khẩu, khuyến khích đầu tư và góp phần
công bằng xã hội trong thuế. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn những vấn đề pháp lý liên quan
đến thuế GTGT, em xin đi nghiên cứu và làm về đề tài: “ Phân tích những yếu tố ảnh hưởng
đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam trong năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý
nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT”.

NỘI DUNG
I.

Khái quát chung về pháp luật thuế GTGT

1. Về thuế GTGT
- Định nghĩa: Điều 2 Luật Thuế GTGT 2008 qui định: “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên
giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng”.
Như vậy bản chất của thuế GTGT là loại thuế gián thu. Nghĩa là các nhà sản xuất, kinh doanh
và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng lại thực chất là người chịu thuế
thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ.
Đặc điểm:
- Thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất rộng. Tức là mọi đối tượng trong xã hội đều là chủ
thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải trả một phần thu nhập cho hành vi tiêu dùng.
- Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị gia tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ. Do đó khi tính
thuế GTGT vào hàng hóa, dịch vụ đó không gây ra những đột biến giá cả cho người tiêu dùng.


Đặc điểm này của thuế GTGT còn yêu cầu pháp luật điều chỉnh phải tìm ra cách thức, phương
thức phù hợp, có tính khả thi để xác định chính xác phần giá trị tăng thêm làm căn cứ tính thuế.
- Dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa, dịch vụ số thuế giá trị gia tăng phải nộp không
thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau.
2. Về pháp luật thuế GTGT
Pháp luật thuế GTGT là tổng hợp các qui phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh
các quan hệ phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, nộp thuế, quản lý và quyết toán thuế
GTGT.

1


Pháp luật thuế GTGT có 2 đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất: Pháp luật thuế GTGT có tác động trong phạm vi rộng, đến tất cả các đối tượng trong
xã hội. Xuất phát từ nội dung được pháp luật điều chỉnh cho thấy pháp luật thuế GTGT áp
dụng đối với mọi đối tượng có thu nhập, sử dụng một phần thu nhập phục vụ đời sống. Phạm
vi áp dụng pháp luật thuế GTGT có tính phổ biến so với pháp luật thuế tiêu dùng khác.
Thứ hai: Pháp luật thuế GTGT chỉ có thể ban hành khi các điều kiện áp dụng đạt đến mức độ
nhất định. Những điều kiện chủ yếu ở đây là các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa
đơn và khả năng quản lý của chính các cơ quan tham gia quản lý, thu thuế giá trị gia tăng.
II. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam năm
2013
1. Các yếu tố khách quan.
a) Đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
Bản chất của thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh
trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vì vậy thuế GTGT là sự thể chế hóa của
các chính sách mà Đảng, Nhà nước đề ra; được qui định nhằm phục vụ chính sách phát triển
kinh tế và chính sách thuế ở Việt Nam. Xuất phát từ mục đích này mà việc thực thi pháp luật
thuế GTGT ở Việt Nam ảnh hưởng không nhỏ bởi đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã
hội của Đảng và nhà nước. Hiện nay, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong

năm 2014 – 2015 là: “Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân khoảng 6%/năm.
GDP bình quân đầu người khoảng 2.200 – 2.300USD vào năm 2015. Giá tiêu dùng tăng
khoảng 7%/ năm. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 10%/năm. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội
bằng khoảng 31 – 32% GDP. Giải quyết việc làm cho 3,0 – 3,2 triệu lao động; tỷ lệ thất
nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55% vào năm 2015. Tỷ lệ
hộ nghèo giảm bình quân khoảng 1,5 – 2%/ năm, riêng các huyện nghèo giảm 4%. Tỷ lệ che
phủ rừng đến năm 2015 đạt 42%.”1
Muốn thực hiện được các mục tiêu trên thì Nhà nước ta phải có một chính sách thuế GTGT
hợp lý: Chính sách đó vừa đảm bảo nguồn thu cho nhà nước vừa hợp lý với người tiêu dùng
nói chung. Hiện nay, qui định của Luật thuế GTGT 2008 đã thể hiện khá tốt việc thể chế hóa
chiến lược phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh ban hành các mức thuế suất hợp lý
thì việc qui định các nhóm đối tượng không phải chịu thuế GTGT cũng là một ví dụ điển hình
thể hiện sự thể chế chiến lược phát triển kinh tế - xã hội này:
- Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp: qui định đối tượng không chịu thuế là tưới, tiêu nước;
cày bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch
sản phẩm nông nghiệp. (Khoản 3, Điều 5 Luật thuế GTGT 2008).
- Đáp ứng những nhu cầu về sản phẩm, dịch vụ thiết yếu để phục vụ cho đời sống sinh hoạt
hằng ngày của người dân được thuận lợi: qui định những đối tượng không chịu thuế là: Dịch
vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh cho người và vật
1 Trích báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2013, kết quả 3 năm thực hiện kế

hoạch 5 năm (2011 – 2015) và nhiệm vụ 2014 - 2015

2


nuôi; dịch vụ cấp tín dụng, kinh doanh chứng khoán, chuyển nhượng vốn, tài chính phái sinh;
bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm người học, bảo hiểm vật nuôi, cây trồng và tái bảo hiểm,...
- V.v...
Với những chủ trương, chính sách trên của Đảng và Nhà nước đã khuyến khích việc thực thi

thuế GTGT thực hiện có hiệu quả cao hơn nhằm đạt được mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
b) Tình hình phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
Bên cạnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng, Nhà nước, thực trạng tình hình phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước cũng là một nhân tố làm ảnh hưởng đáng kể tới sự thực thi
pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Bởi vì: Việc thực thi thuế là nhằm những mục đích
về kinh tế - xã hội. Thuế GTGT có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh nền kinh tế - xã
hội, ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và thu nhập nên căn cứ vào từng thời điểm tình hình kinh
tế Nhà nước có thể sử dụng thuế làm công cụ điều chỉnh nền kinh tế; thông qua thuế nhà nước
tác động tích cực đến việc thúc đẩy sản xuất phát triển cơ sở tận dụng, sử dụng hợp lý mọi
nguồn lực của đất nước.
Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình kinh tế - xã hội năm 2103: Năm 2011 tăng trưởng
GDP đạt 6,24 %, năm 2012 chỉ đạt 5,25 %; năm 2013 tăng trưởng quý sau cao hơn quý trước
(quí I tăng 4,76%, quí II tăng 5%, quí III tăng 5,54%), cả năm ước tính khoảng 5,4%. Bình
quân 3 năm, GDP tăng khoảng 5,6%/ năm. Sản xuất công nghiệp, xây dựng từng bước được
phục hồi; khu vực nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định; các ngành dịch vụ tăng trưởng
khá. Trong 9 tháng, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng 10,8% và có trên 11,2 nghìn
doanh nghiệp đã hoạt động trở lại. Chất lượng tăng trưởng có bước được tăng lên. Vốn đầu tư
được sử dụng hiệu quả hơn.
=>Như vậy, dựa trên những con số thống kê trên, mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đều
đang trên đà phục hồi và có sự phát triển tiến bộ rõ nét. Từ quá trình sản xuất đến lưu thông
hàng hóa và dịch vụ đều có sự tăng thêm đáng kể về giá trị. Vì thế, về phía nhà nước, khoản
thu thuế sẽ ngày càng tăng. Bời vì, người tiêu dùng (người chịu thuế) có đời sống phát triển
hơn, nhu cầu chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ cao hơn, người dân sẵn sàng bỏ ra một khoản
tiền lớn để chi tiêu, mua những hàng hóa đã được tính thuế GTGT. Về phía người nộp thuế,
việc thực thi pháp luật thuế hiệu quả hơn bởi trong một môi trường phát triển, ổn định, doanh
nghiệp sẽ dễ dàng kiếm được nhiều khoản lợi nhuận cao mà không phải tính đến chuyện trốn
thuế để tăng thu nhập. Ngược lại, nếu như nền kinh tế - xã hội khó khăn thì việc thực thi pháp
luật về thuế GTGT sẽ gặp nhiều khó khăn. Bởi vì lúc đó, tiền bạc mới là cái mà chủ thể chịu
thuế và nộp thuế đặt lên hàng đầu.
Ngoài việc chịu sự chi phối của tình hình nền kinh tế - xã hội trong nước, tình hình nền kinh tế

quốc tế cũng có ảnh hưởng lớn đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Hiện nay, với tư cách
là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế Việt Nam trong quá trình mở
cửa, giảm thuế quan đối với hàng hóa, dịch vụ nói chung và giảm thuế GTGT nói riêng; vì thế
nếu các mức thuế suất mà Luật thuế GTGT phù hợp với những cam kết quốc tế thì việc thực
thi pháp luật về thuế GTGT có hiệu lực tích cực.

3


c) Phụ thuộc vào hệ thống pháp luật.
Việc thực hiện pháp luật trong thực tiễn có hiệu quả hay không phụ thuộc lớn vào hệ thống
những qui định của pháp luật, và việc thực hiện thuế GTGT cũng không nằm ngoài lệ. Để thực
thi pháp luật thuế GTGT đạt hiệu quả cao trên thực tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật
hoàn thiện mang tính toàn diện (đầy đủ), tính đồng bộ, tính phù hợp (không quá cao hoặc quá
thấp so với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội và tính kỹ thuật pháp lý cao. Ngược lại, pháp
luật thuế GTGT còn thiếu các qui định cần thiết, còn nhiều bất cập với thực tế thì không thể
thực thi pháp luật thuế GTGT hoặc thực thi không đạt hiệu quả cao, làm phát sinh nhiều vướng
mắc, giảm hiệu quả của pháp luật thuế GTGT.
Sau hơn 10 năm thực hiện, Luật thuế GTGT và các văn bản dưới luật về thuế GTGT đã trải qua
nhiều lần sửa đổi, bổ sung và phát huy tác dụng to lớn trong tăng thu Ngân sách nhà nước và
kích thích sản xuất phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm vốn có và kết quả đạt được,
việc thực hiện Luật thuế GTGT còn có những bất cập cần giải quyết:
- Qui định chưa đầy đủ về đối tượng chịu thuế GTGT.
Hiện nay, theo qui định của Luật thuế GTGT, đối với hàng hóa là nông, lâm, thủy, hải sản chưa
qua chế biến không phân biệt trực tiếp sản xuất hay kinh doanh thương mại là đối tượng không
chịu thuế GTGT. Điều này có tác dụng bảo hộ sản xuất kinh doanh trong nước đối với những
mặt hàng này nhưng sẽ khiến cho tính chất hàng hóa của các đối tượng này không được coi
trọng, khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế ngày càng giảm sút và là nguyên cớ để các quốc
gia dựng rào cản thương mại với hàng nông, lâm, thủy, hải sản xuất khẩu Việt Nam.
Đối với các hàng hóa, dịch vụ như: dịch vụ y tế công cộng; hoạt động dạy học, dạy nghề; hoạt

động văn hóa, xuất bản báo chí, phát thanh truyền hình; các dịch vụ công ích; dịch vụ tiêu thủy
lợi, dịch vụ quốc phòng an ninh; chuyển quyền sử dụng đất, nhà của nhà nước bán cho người
tiêu dùng,... đến nay vẫn chưa có tên trong danh sách chịu thuế GTGT. Đây là một kẽ hở khá
lớn vừa làm thất thu cho ngân sách nhà nước vừa chưa tạo ra được sự công bằng đối với các
chủ thể đầu tư vốn kinh doanh ở các lĩnh vực khác.
- Phương pháp tính thuế và chứng từ, hóa đơn thuế.
Theo quy định hiện hành, các doanh nghiệp được quyền lựa chọn một trong hai cách tính thuế
GTGT: khấu trừ hoặc trực tiếp; sử dụng một trong hai loại hoá đơn bán hàng tương ứng là:
Hóa đơn GTGT và Hóa đơn bán hàng thông thường (ngoài ra còn có: hóa đơn đặc thù, bảng
kê mua hàng hóa của người không có hóa đơn) làm nảy sinh hiện tượng thuế trùng thuế và
nguy cơ gian lận thuế. Trong trường hợp doanh nghiệp thực hiện phương pháp khấu trừ thuế
GTGT có quan hệ kinh tế với doanh nghiệp thực hiện tính thuế GTGT theo phương pháp trực
tiếp hoặc hộ kinh doanh thì cả hai bên đều bị thiệt hại. Cụ thể: Đối với doanh nghiệp áp dụng
phương pháp khấu trừ để tính thuế GTGT khi mua hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp áp
dụng phương pháp trực tiếp để tính thuế GTGT thì dù có hoá đơn bán hàng (đã có thuế
GTGT) nhưng không được sử dụng để khấu trừ thuế. Bởi, theo quy định chỉ có hóa đơn
GTGT hoặc hóa đơn đặc thù của các đơn vị nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT

4


phát hành mới được khấu trừ thuế. Như vậy, trong các doanh nghiệp này mặc dù đã tuân thủ
chế độ kế toán, giao dịch kinh tế có chứng từ pháp lý đầy đủ, nhưng trong chi phí hợp lý hình
thành giá bán hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT vẫn có một phần thuế GTGT đầu vào không
được khấu trừ. Khi tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp phải nộp thuế GTGT đầu ra trên tổng giá
trị hàng hoá. Vậy là, thuế GTGT đầu ra vẫn đang đánh chồng lên thuế GTGT đầu vào làm
doanh nghiệp mất đi một khoản lợi nhuận, đó là sự bất bình đẳng không đáng có.
Tương tự, khi doanh nghiệp thực hiện phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp mua dịch vụ,
hàng hoá của các doanh nghiệp áp dụng tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ để dùng
vào sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ chịu thuế GTGT, doanh nghiệp cũng có hóa đơn

GTGT do doanh nghiệp áp dụng phương pháp khấu trừ thuế GTGT phát hành cũng không
được khấu trừ thuế GTGT, họ cũng phải trả phần thuế GTGT đầu vào chìm trong giá bán ở
đầu ra, tức là thuế vẫn đánh chồng lên thuế. Đến nay, đã hơn 10 năm thực hiện Luật thuế
GTGT nhưng tính ưu việt của Luật thuế này vẫn chưa thể thực hiện được một cách toàn diện
và triệt để. Quy định về hai phương pháp tính thuế với hai loại hóa đơn bán hàng hiện nay chỉ
phù hợp với giai đoạn đầu áp dụng Luật thuế GTGT để các đơn vị kinh doanh có “dự lệnh”
chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thống nhất một chế độ chứng từ và một phương pháp tính
thuế thống nhất. Nếu tiếp tục kéo dài tình trạng “một luật có hai sân chơi” cho các đối tượng
tham gia và nhiều kiểu chơi sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa các đơn vị kinh doanh, nảy sinh
hiện tượng tiêu cực ở chính các đơn vị đang áp dụng phương pháp khấu trừ, vì họ buộc phải
mua, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp để hợp thức hóa sổ sách về thuế GTGT đầu vào được
khấu trừ và đó cũng là mảnh đất màu mỡ để các công ty “ma” buôn, bán hóa đơn GTGT trục
lợi.
- Về khấu trừ và hoàn thuế
Ngoài những bất cập về chứng từ và phương pháp tính thuế như đã phân tích thì hiện nay cả
doanh nghiệp và cơ quan thuế đều gặp khá nhiều khó khăn khi triển khai các quy định về
khấu trừ và hoàn thuế. Cụ thể: Về khấu trừ thuế, hiện nay, một trong những điều kiện doanh
nghiệp được khấu trừ thuế GTGT đầu vào là phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối
với hàng hóa, dịch vụ trừ trường hợp tổng giá trị thanh toán đã có thuế từng lần theo hóa đơn
dưới 20 triệu đồng. Việc phân biệt giao dịch có giá trị dưới 20 triệu đồng không cần phải
thanh toán qua ngân hàng vẫn được khấu trừ thuế đang là một kẽ hở để các DN gian lận thuế
bằng cách khi tách hóa đơn có giá trị giao dịch lớn thành nhiều hóa đơn có giá trị giao dịch
nhỏ, cơ quan thuế rất khó kiểm soát được hiện tượng này.
Về hoàn thuế: Đối với cơ sở xuất khẩu có số thuế đầu vào của hàng hóa xuất khẩu phát sinh
trong tháng chưa được khấu trừ nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo
tháng. Các cơ sở kinh doanh không có hoạt động xuất khẩu hoặc có nhưng giá trị thấp, thì dù
số thuế đầu vào trong tháng phát sinh cao đến mấy vẫn không được hoàn lại theo tháng mà
phải chờ đủ 3 tháng. Đây là hạn chế rất lớn của quy định về hoàn thuế vì đồng vốn của các
DN bị đông cứng khá lâu ảnh hưởng đến quá trình kinh doanh tiếp theo.


5


- Do thủ tục hành chính để các doanh nghiệp được hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian
và công sức của doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn
bộ hóa đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối
chiếu hóa đơn thực hiện bằng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm
việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây khó khăn thêm cho
doanh nghiệp.
- Những qui định về việc xử phạt còn thiếu tính quyết liệt. Trên thực tế, thiệt hại hóa đơn do
gian lận, khai khống khiến nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng cho Ngân sách nhà nước.
Nếu không xử phạt mạnh mẽ, quyết liệt thì các đối tượng phạm tội ngày càng lộng hành, coi
thường pháp luật. Do đó tình hình phạm tội liên quan đến thuế GTGT, mặc dù đã được công
luận cảnh báo cơ quan chức năng, vẫn tiến triển nhaanh, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về
số tiền thuế chiếm đoạt.
2) Các yếu tố chủ quan.
a) Cơ cấu, trình độ, năng lực quản lý thuế của các cơ quan quản lý thuế
- Về cơ cấu, hệ thống quản lý thuế của nước ta được tổ chức như sau:
Ở trung ương có Tổng cục thuế thuộc Bộ tài chính. Bộ máy giúp việc cơ quan Tổng cục gồm
các phòng chức năng và các phòng nghiệp vụ.
Ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có các Cục thuế. Các Cục thuế, chi cục thuế chịu
sự chỉ đạo của Cục thuế và Ủy ban nhân dân cùng cấp.
Như vậy, cơ cấu trên là hợp lý và tương đối chặt chẽ. Cơ cấu có tác động lớn tới việc thực thi
thuế GTGT. Cụ thể, việc thống nhất hệ thống tổ chức bộ máy quản lý về thuế không những cho
phép Nhà nước quản lý thống nhất chế độ thuế trong cả nước, mà còn tạo cơ sở về mặt tổ chức
bảo đảm thực hiện thành công đường lối đổi mới và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực thuế.
- Trình độ quản lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế.
Thuế GTGT là thuế gián thu, đánh trên diện rộng, có cơ chế hoạt động phức tạp nên đòi hỏi
một trình độ quản lý cao ở cán bộ thuế và phương tiện quản lý hiện đại ở cơ quan thuế để có
khả năng kiểm soát hoạt động của các đối tượng nộp thuế. Bởi vì nếu cán bộ thuế không có

trình độ tương xứng để quản lý các hành vi chuyển giao thuế GTGT giữa các chủ thể kinh
doanh thì sẽ gây ra những thất thu cho nguồn ngân sách nhà nước. Mặt khác không chỉ trình
độ chuyên môn mà phẩm chất, đạo đức của các cán bộ thuế cũng ảnh hưởng lớn tới quá trình
thực thi pháp luật thuế GTGT. Những lợi ích lớn về thuế thường mang giá trị lớn, nếu cán bộ
thuế không có phẩm chất đạo đức, làm việc thiếu trách nhiệm thì rất dễ bị cám dỗ dẫn tới cấu
kết với đối tượng nộp thuế để gian lận trong việc thu thuế, trốn thuế, gây thất thu cho ngân
sách nhà nước. Ví dụ: Ngày 1/10/2013, theo nguồn tin báo Người Lao Động cho biết
VKSND tỉnh Tiền Giang đã phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, cho tại ngoại đối với bốn
cán bộ lãnh đạo Chi cục thuế huyện Châu Thành về hành vi “cố ý làm trái” và “thiếu trách
nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, làm thiệt hại cho nhà nước 2,8 tỷ đồng. Trong đó có hai
cán bộ là chi cục phó, một đội trưởng và một đội phó.

6


- Bên cạnh đó có thể thấy rằng cơ sở hạ tầng, phương tiện vật chất kỹ thuật của quá trình
thực thi pháp luật thuế GTGT có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thực hiện luật này trên
thực tế. Nếu các cơ quan thuế được trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ đắc lực
cho quá trình làm việc thì quá trình thu thuế, kê khai, hoàn thuế,... được thực hiện một cách
nhanh chóng và chính xác. Ngược lại nếu phương tiện lạc hậu, điều kiện vật chất không đáp
ứng đủ cho các cán bộ thuế làm việc sẽ dẫn đến việc thiếu tính chính xác, hiệu quả làm việc
không cao. Mặt khác do đòi hỏi của tính chất hoạt động kinh doanh thường rất rộng lớn có thể
từ miền bắc, miền trung và vào miền nam, thậm chí ra cả nước ngoài, vì thế thông tin về lô
hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối hợp trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói
gọn tại địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn nên cơ quan thuế không đủ
sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan, dễ gây nên sai sót.
Khi công cuộc cải cách hành chính thuế được thực hiện thì công nghệ thông tin sẽ được ứng
dụng mạnh mẽ và đòi hỏi chất lượng cao, nhưng thực tế hiện nay công tác triển khai và ứng
dụng còn nhiều khó khăn và bất cập. Về trang thiết bị máy tính, các cơ quan quản lý thuế
được trang bị tương đối đầy đủ, song sự phân phối còn nhiều hạn chế: Ở những địa phương có

địa bàn rộng, số thu lớn cần nhiều máy tính thì không đủ máy tính; còn những địa phương có
số thu ít lại thừa máy tính hoặc sử dụng không đúng mục đích. Công tác đào tạo cán bộ làm
công tá tin học những năm trở lại đây tuy đã được quan tâm nhưng chất lượng chưa cao, nhiều
khóa học chỉ mang tính chất giới thiệu chương trình không đi sâu thực tế nên việc ứng dụng
những kiến thức đã học vào thực tiễn còn khó khăn. Như vậy dẫn đến hậu quả là trình độ quản
lý chưa xứng với yêu cầu của công tác quản lý nên các cơ quan quản lý bị các doanh nghiệp
qua mặt một cách dễ dang; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng nên không
phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi gian lận trong việc nộp thuế.
- Cơ chế quản lý thuế: Xét trên hai phương diện:
+ Tích cực: Hiện nay, Nhà nước đang có công cuộc cải cách về cơ chế quản lý thuế, thể hiện
ở cơ chế tự khai, tự nộp. Cơ chế tự khai, tự nộp là cơ chế quản lý thuế hiện đại, hiệu quả được
hầu hết các nước trên thê giới áp dụng, nó cho phêp các cơ quan thuế phân bổ nguồn lực theo
hướng chuyên môn hóa làm tăng sự minh bạch trong quản lý thuế, đồng thời giảm bớt chi phí
quản lý, thúc đẩy cải cách hành chính thuế.
Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý thuế đã có nhiều cải cách khác, tạo ra một môi trường quản
lý nề nếp, văn minh buộc cán bộ thuế, cơ quan thuế thay đổi phong cách tiếp xúc với người
nộp thuế theo hướng tích cực.
+ Tiêu cực: Cơ chế thu nộp thuế GTGT ở nước ta hiện nay còn nhiều bất ổn. Nghĩa vụ kê khai
thuế, tính thuế của đối tượng nộp thuế chỉ mang tính chất hình thức, nên theo đó quyết toán
thuế cũng mang nặng tính hình thức, trình tự thủ tục mang nặng tính chất kinh tế. Bởi trong
luật thuế GTGT không đề cập đến thời điểm bắt đầu phát sinh nghĩa vụ thuế GTGT cũng như
thời điểm kết thúc nghĩa vụ này dẫn đến việc không đảm bảo nguyên tắc pháp chế và trật tự
pháp luật trong quá trình thu nộp thuế GTGT.
b) Ý thức chấp hành pháp luật thuế của người dân.

7


Đây là yếu tố có ảnh hưởng lớn đến sự thành công hay thất bại của quá trình thực hện pháp
luật thuế GTGT.

- Đối với người cán bộ, nếu có ý thức pháp luật tốt thì có thể độc lập áp dụng pháp luật thuế
GTGT một cách có hiệu quả, không bị sự cám dỗ về vật chất và tinh thần để làm sai luật hay
áp dụng một cách không đầy đủ luật thuế GTGT. Trong quá trình áp dụng luật thuế thì người
cán bộ phải dựa vào trình độ quản lý, ý thức pháp luật của mình và những nguyên tắc của
pháp luật để giải quyết vụ việc theo những cách thức tốt và phù hợp nhất.
- Đối với người nộp thuế, nếu là chủ thể có ý thức pháp luật tốt và chấp hành các qui định
của pháp luật một cách nghiêm chỉnh thì việc thực thi pháp luật thuế GTGT được đảm bảo dễ
dang và hiệu quả hơn. Điều này không những bảo vệ lợi ịch cho chính bản thân những người
nộp thuế mà còn hạn chế được tình trạng các đối tượng xấu lợi dụng kẽ hở của pháp luật để
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, làm giảm đi hiệu quả điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT.
- Bên cạnh đó đối với toàn thể nhân dân, nếu có trình độ nhận thức sâu sắc về luật thuế, họ
sẽ có niềm tin vào pháp luật, thấy được giá trị của việc tôn trọng và thực hiện chính xác, đầy
đủ các qui định của pháp luật, từ đó tự giác tuân theo pháp luật và vận động những người khác
tuân theo pháp luật. Ngoài ra, việc có trình độ nhận thức sâu sắc về luật thuế, người dân có thể
phản ánh những bất cập trong các qui định của luật thuế, giám sát việc thực hiện luật thuế,
chống tiêu cực từ cán bộ thuế.
Thuế GTGT là một loại thuế có tính phức tạp của kỹ thuật tính và thu thuế gắn liền với cơ chế
khấu trừ thuế, hoàn thuế nên các đối tượng nộp thuế phải có ý thức tự giác cao trọng việc thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế để tránh tình trạng số thuế thu được ít nhưng nhà nước phải khấu trừ
thuế, hoàn thiện thuế nhiều lần cho hành gian lận, lợi dụng cơ chế khấu trừ thuế hoàn thuế
GTGT.
III. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay.
Sau nhiều năm thực hiện, pháp luật thuế GTGT đã đi vào đời sống kinh tế nước ta, trong quá
trình thực hiện ta đã nhận ra một số hạn chế. Dưới đây là một số ý kiến pháp lý nhằm thực thi
pháp luật thuế GTGT có hiệu quả:
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế GTGT
Trước hết, cần nhận thức đầy đủ rằng thuế GTGT là một sắc thuế cơ bản và quan trọng, đem lại
nguồn thu chiếm tỷ trọng đáng kể trong thu Ngân sách nhà nước, do vậy việc đảm bảo và phát
triển nguồn thu này là hết sức quan trọng. Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế GTGT
nói riêng vì vậy cần được cải cách hoàn thiện dần để đảm bảo yêu cầu này.

Nội dung cụ thể về hoàn thiện pháp luật thuế GTGT.
Về đối tượng nộp thuế: Luật thuế GTGT sửa đổi cần thu hẹp diện đối tượng nộp thuế GTGT
bằng cách qui định ngưỡng chịu thuế GTGT đối với các hộ kinh doanh cá thể như nhiều nước
trên thế giới đã áp dụng. Những đối tượng nào không đạt được mức doanh sô này sẽ chuyển
sang áp dụng thuế khoán ấn định trên doanh thu, còn những hộ kinh doanh cá thể còn lại bắt
buộc phải thực hiện đầy đủ chế độ kế toán chứng từ hóa đơn để tính thuế GTGT theo phương

8


pháp khấu trừ. Làm được điều này sẽ giúp giảm bớt chi phí quản lý hành chính thuế và việc
quản lý hóa đơn chứng từ sẽ bớt khó khăn.
Thuế suất: Cơ cấu bốn thuế suất là phù hợp với giai đoạn mới, nhưng hiện nay để nâng cao
hiệu quả áp dụng thì cơ cấu thuế suất phải được xem xét và sửa đổi theo hướng tăng tính đơn
giản của biểu thuế áp dụng đối với các loại hàng hóa, dịch vụ. Thực tế cho thấy nên bỏ mức
thuế suất 20%, vì đây là mức thu quá cao và hiên nay chỉ áp dụng rất hạn chế đối với một số
đối tượng như: “Kinh doanh mua bán vàng bạc đá quý, xổ số, đại lý tàu biển và dịch vụ môi
giới” 2. Các đối tượng trên nếu chúng ta chuyển xuống áp dụng mức thuế suất 10% thì cũng
không ảnh hưởng lớn đến số thu ngân sách nhà nước. Bởi vì, số lượng các đối tượng trên
không nhiều, hơn nữa tránh được tình trạng thất thu thuế do các doanh nghiệp kinh doanh các
đối tượng trên băn khoăn vì mức thuế suất mình quá cao, do đó tìm cách “luồn lách” để nộp
thuế ít hơn. Như vậy, để phù hợp với tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, trước mắt cần qui
định giảm xuống chỉ áp dụng hai mức thuế suất là 5% và 10% (không kể thuế suất 0% đối với
xuất khẩu. Mức thuế suất 5% chỉ áp dụng đối với một số mặt hàng và dịch vụ thiết yêu, còn đại
bộ phận các loại hàng hóa, dịch vụ đều áp dụng thuế suất 10%. Riêng đối với thuế suất 0% cần
có qui định chặt chẽ về đối tượng được hưởng thuế suất này vì áp dụng thuế suất )% gắn liền
với việc phải hoàn thuế từ Ngân sách nhà nước.
Các qui định về miễn giảm thuế:
Bản chất thuế GTGT là thuế gián thu do người tiêu dùng chịu, do đó cần phải xóa bỏ qui định
về miễn giảm thuế GTGT bởi vì có miễn giảm thì người tiêu dùng cũng không được hưởng, mà

nhà nước lại mất đi một khoản thuế. Tuy nhiên, trong thời gian đầu, để hỗ trợ cho các doanh
nghiệp gặp khó khăn có thể xem xét cho giảm thuế tạm thời trong phạm vi ngành nghề cụ thể
và phải xác định rõ thời hạn áp dụng chỉ trong vòng một đến hai năm. Hết thời hạn trên phải áp
dụng đúng mức thuế qui định và không được gia hạn thêm
Về khấu trừ thuế:
- Cần chuẩn hoá những qui định về nguyên tắc khấu trừ thuế: 1. Chỉ khấu trừ đầu vào cho các
hoạt động chịu thuế GTGT; 2. Có thu mới khấu trừ, không khấu trừ khống; 3. Mua hàng hóa,
dịch vụ không có hóa đơn, chứng từ hoặc có hóa đơn nhưng không hợp pháp thì không được
khấu trừ. Sự chuẩn hóa những qui định này sẽ hạn chế việc gian lận lợi dụng để chiếm đoạt
tiền của ngân sách nhà nước.
- Cho phép khấu trừ hoặc hoàn lại thuế GTGT trong trường hợp giao hàng hoặc trường hợp
giảm giá, các khoản thu không đòi, được xử lý có đầy đủ chứng từ hợp lệ.
Về quản lý và sử dụng hóa đơn chứng từ.
Các qui định về hóa đơn chứng từ cần được tập hợp thống nhất trong một văn bản, để thuận lợi
cho viêc tra cứu và áp dụng. Hiện nay, phổ biến các qui định về quản lý hóa đơn, chứng từ và
xử lý vi phạm được ban hành dưới hình thức các văn bản có hiệu lực thấp như công văn của
Tổng cục thuế. Cần phải sửa đổi bổ sung các qui định về quản lý hóa đơn chứng từ và ban
hành dưới hình thức văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn nhằm tăng hiệu quả pháp luật và áp
dụng phổ biến đối với mọi đối tượng một cách thống nhất.
2 Theo khoản 4 Điều 8 Luật thuế GTGT

9


Trong quản lý và sử dụng hóa đơn chứng từ đã phát sinh những tồn tại, vướng mắc sau: in và
sử dụng hóa đơn bất hợp pháp, buôn bán hóa đơn thật và hóa đơn giả, xuất hóa đơn khống, tạo
điều kiện cho các đơn vị khác trốn thuế, bán hàng xuất đơn nhưng không kê khai nộp
thuế,...Giải pháp cho vấn đề này, Bộ tài chính nên nghiên cứu lại giấy in hóa đơn chứng từ và
ký hiệu, mã hiệu của từng loại hóa đơn, chứng từ để chống in giả. Mặt khác, bộ Tài chính phải
phối hợp với các cơ quan pháp luật để kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời nghiêm minh các

trường hợp vi phạm về chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn, yêu cầu các doanh nghiệp phải tự
kiểm tra nội, mua bán hàng dịch vụ phải ghi rõ tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán. Ngoài
ra, cần tăng cường công tác quản lý hóa đơn hợp pháp bằng nhiều biện pháp đồng bộ:
+ Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in. Biện pháp này tăng cường trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và quản lý hóa đơn chứng từ.
+ Sử dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến trong việc in ấn hóa đơn.
+ Tăng cường quản lý hóa đơn từ khâu đầu nhằm đảm bảo hóa đơm đúng đối tượng, đúng địa
chỉ bằng các nghiệp vụ cụ thể của ngành thuế.
2.

Nâng cao ý thức pháp luật cho công dân thực thi pháp luật thuế GTGT đạt hiệu quả.
- Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về thuế cho mọi đối tượng.
Một mặt, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật về thuế GTGT cho các đối tượng nộp
thuế để họ có nhận thức được pháp luật về thuế, hiểu rõ những qui định pháp luật về thuế thì
họ mới thực hiện tốt được các qui định đó, tạo thuận lợi cho chính họ cũng như cho cơ quan
thuế trong quản lý thu và nộp thuế, tránh được tình trạng do không hiểu biết mà khiếu nại,
thắc mắc thường xuyên. Việc tuyên truyền phổ biến rộng rãi kiến thức về thuế sâu rộng cho
các tầng lớp nhân dân cũng hết sức cần thiết, bởi vì người dân có thể phản ánh kịp thời các bất
cập trong các qui định của pháp luật, hạn chế được những tiêu cực từ cán bộ thuế, giám sát
được việc thực hiện pháp luật thuế GTGT.
Song song với việc tuyên truyền giải thích pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng,
nên đẩy mạnh các hình thức tuyên truyền như tổ chức các buổi nói chuyện về pháp luật thuế
GTGT, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về pháp luật thuế GTGT.
- Cơ quan thuế cần nghiên cứu tổ chức riêng và có qui định về hoạt động dịch vụ hướng dẫn
và tư vấn về thuế của cơ quan thuế, nhằm giúp tuyên truyền hướng dẫn đối tượng nộp thuế
thực hiện đúng qui định của pháp luật thuế GTGT một cách có hiệu quả, tiết kiệm thời gian.
Việc thiết lập bộ phận dịch vụ về thuế để hỗ trợ đối tượng nộp thuế sẽ đảm bảo cung cấp đầy
đủ thông tin cho đối tương, công khai và bình đẳng giữa các đối tượng và tạo điều kiện để thu
thuế một cách có hiệu quả.
- Tăng cường những bài viết có tính chuyên môn cao, in thành sách những bài viết đó, để tạo

điều kiện cho các đối tượng có nguồn tài liệu phục vụ cho công tác nghiên cứu, đi sâu vào tìm
hiểu pháp luật thuế GTGT.
- Nâng cao năng lực và phẩm chất của cán bộ thuế.
+ Tổ chức thực hiện tốt các qui định của pháp luật về công tác tổ chức cũng như công tác đào
tạo cán bộ.

10


+ Nâng cao hơn nữa trình độ nghiệp vụ của lực lượng cán bộ thuế, phải tổ chức thi đầu vao
một cách chặt chẽ để lựa chọn được những cán bộ có trình độ nghiệp vụ vững chắc, phải tổ
chức các lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ cán bộ thuế. Đồng thời khuyến khích các cán bộ thuế
tự nâng cao trình độ của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ đó và phải có chế độ
chính sách thích hợp đối với những cán bộ đó.
+ Tiến hành cân nhắc, bổ nhiệm các chức vụ phù hợp với trình độ cán bộ, tránh tình trạng
những cán bộ không có trình độ lại giữ những chức vụ lãnh đạo gây khó khăn cho công tác
quản lý, không khuyến khích được cán bộ nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
+ Nhà nước cần thiết lập cơ chế lương và thưởng thỏa đáng để đảm bảo cán bộ thuế có thu
nhập phù hợp với sức lao động bỏ ra, đồng thời qui định trách nhiệm và các hình thức kỷ luật,
truy cứu trách nhiệm nghiêm khắc nhằm ngăn ngừa việc cán bộ thuế thông đồng trốn thuế với
đối tượng nộp thuế.
3. Cải cách hành chính thuế
Mục tiêu của cải cách hành chính thuế phải đảm bảo yêu cầu đơn giản hóa các thủ tục, các
văn bản thuế phải đảm bảo nguyên tắc: đơn giản, dễ hiểu, dễ làm, dễ kiểm tra. Đẩy mạnh công
tác cải cách hành chính thuế, Bộ tài chính và ngành thuế nên chú ý những vấn đề sau: Rà soát
lại toàn bộ những văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế, nghiên cứu, xem xét làm rõ cách giải
thích, từ ngữ và nội dung thống nhất và kế thừa của các văn bản.

KẾT LUẬN
Tuy còn nhiều bất cập trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay nhưng

không một ai phủ nhận tính tích cực của thuế GTGT đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và
từng doanh nghiệp nói riêng. Ở Việt Nam, trong tương lai, thuế GTGT sẽ trở thành sắc thuế
chủ yếu, chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống chính sách thuế nhằm bù đặp được nguồn thu nhập
thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết quốc tế và góp phần hoàn thiện hệ thống chính
sách thuế của nước ta phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước ta theo định hướng
phát triển đến năm 2020 và phù hợp với luật quốc tế. Muốn thực thi pháp luật thuế GTGT cần
có sự nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT, từ đó có
hướng điều chỉnh thích hợp.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật thuế Việt Nam, trường đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân,
2010.
2. Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008.

11


3. Hệ thống văn bản pháp luật về quản lý kinh tế và các văn bản pháp luật về tài chính,
NXB chính trị quốc gia.
4. Bộ tài chính, Hỏi đáp về thuế GTGT, nhà xuất bản tài chính, 1997.
5. Trang web : Báo cáo tình hình thực hiện phát triển kinh tế - xã hội
năm 2013.

12



×