Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự và thực tiễn thực hiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.4 KB, 12 trang )

BẢNG TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa
đổi, bổ sung năm 2011

TTDS

:

Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP :

Tố tụng dân sự
Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày
03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành các quy định trong Phần thứ hai
“Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp
sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã
được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
dân sự;

Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP :

Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày
03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi
hành các quy định trong Phần thứ hai


“Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp
phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự
đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự

1


LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật TTDS của Việt Nam và nhiều quốc gia khác đều ghi nhận cho các đương
sự có quyền được tham gia vào các hoạt động tố tụng tại phiên toà. Đương sự là một chủ
thể không thể thiếu trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 56 của
BLTTDS, đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
đương sự có quyền tham gia vào các hoạt động tố tụng như chuẩn bị xét xử, hoà giải, phiên
toà sơ thẩm, phúc thẩm giải quyết vụ án dân sự. Việc tham gia phiên tòa dân sự giúp cho
đương sự chứng minh và bảo vệ yêu cầu của mình, tạo cơ sở cho Toà án có thể giải quyết
một cách nhanh chóng và đúng đắn các vụ án dân sự. Khi tham gia hoạt động tố tụng tại
phiên toà, đương sự có điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp chứng cứ chứng minh, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, pháp luật TTDS của nhiều quốc gia
trên thế giới đều quy định Toà án phải triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia phiên toà.
Khi được Toà án triệu tập hợp lệ thì đương sự phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án.
Tuy nhiên, trên thực tế xuất phát từ nhiều lý do khách nhau, không phải lúc nào
đương sự cũng có mặt đầy đủ tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án. Pháp luật TTDS
đã quy định về các thủ tục TTDS áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt tạo Tòa án
câp sơ thẩm và phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự tại BLTTDS và được hướng dẫn cụ
thể tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP và Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP. Bài làm
dưới đây, em xin trình bày về vấn đề: “Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp
đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự và

thực tiễn thực hiện”.

2


NỘI DUNG
I.

Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở tòa
án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự, đương sự được triệu tập mà vắng mặt có

thể vì nhiều nguyên nhân khác nhau cụ thể là: đương sự vắng mặt do việc triệu tập của Toà
án không hợp lệ; đương sự được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt có lý do chính
đáng như do sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà họ không thể có mặt
theo giấy triệu tập của Toà án; đương sự được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn cố tình vắng
mặt… Để đảm bảo quyền tham gia của đương sự trong TTDS, đồng thời hạn chế được việc
đương sự có hành vi cản trở làm trì hoãn quá trình giải quyết vụ án dân sự, theo quy định
tại BLTTDS thì tùy từng trường hợp sự vắng mặt của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm, phúc
thẩm, Tòa án áp dụng một trong các thủ tục sau: hoãn phiên tòa; đình chỉ vụ án; tiến hành
xét xử vắng mặt đương sự.
1. Trường hợp đương sự vắng mặt do việc triệu tập của Tòa án không hợp lệ
Để bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự, một trong những vấn đề mang
tính nguyên tắc là Toà án phải tiến hành triệu tập hợp lệ đương sự. Theo quy định tại khoản
1 Điều 150 BLTTDS thì “Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng được thực
hiện theo quy định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ”. Chương X của BLTTDS quy
định về việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng. Theo đó, việc triệu tập đương sự
có thể thực hiện thông qua thủ tục tống đạt, thông báo trực tiếp, qua bưu điện hoặc người
thứ ba được uỷ quyền, niêm yết công khai hoặc thông báo trên phương tiện thông tin đại
chúng. Việc tiến hành các thủ tục triệu tập này phải thực hiện theo đúng thủ tục được quy

định tại các Điều 151, 152, 153, 154, 155, 156 của BLTTDS được xác định là triệu tập hợp
lệ. Vì vậy, nếu Toà án đã triệu tập đương sự nhưng việc triệu tập đó được thực hiện không
theo đúng thủ tục do BLTTDS quy định thì việc triệu tập đó được xác định là không hợp lệ.
Toà án triệu tập không hợp lệ đương sự thì về nguyên tắc việc triệu tập đó không có giá trị
pháp lý. Do vậy, nếu đương sự vắng mặt trong trường hợp này, Toà án phải hoãn phiên toà
để triệu tập lần tiếp theo. Nếu đương sự không được triệu tập hợp lệ nhưng Toà án vẫn tiến
hành việc xét xử vắng mặt đương sự thì việc xét xử đó được xác định là có sự vi phạm
nghiêm trọng về tố tụng vì đã không bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự. [1]
2. Trường hợp đương sự được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt
3


2.1.

Giai đoạn xét xử sơ thẩm

Sau khi Tòa án đã tiến hành việc triệu tập hợp lệ đương sự để tham gia phiên toà sơ
thẩm vụ án dân sự nhưng đương sự vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp Toà án cần xem xét
tư cách của đương sự vắng mặt là nguyên đơn hay bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan; đương sự vắng mặt có lý do chính đáng hay không và lần vắng mặt đó là lần thứ
mấy để áp dụng thủ tục tố tụng dân sự phù hợp. Cụ thể như sau:
- Nếu đương sự được Toà án triệu tập hợp lệ vắng mặt nhưng có đơn đề nghị Toà án
xét xử vắng hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia thì Toà án xét xử vắng mặt
đương sự, căn cứ khoản 1, 2 Điều 202 BLTTDS: Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án trong
các trường hợp sau đây:
1. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người đại diện của
họ vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt;
2. Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa
nhưng có người đại diện tham gia phiên tòa;
- Nếu đương sự được Toà án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ nhất: Theo quy

định tại Điều 199 BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 28 Nghị quyết 05/ 2012/NQHĐTP: “Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự, người đại diện của đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt mà không có đơn đề nghị
Tòa án xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 199 của BLTTDS thì dù có hay
không có lý do chính đáng, Toà án hoãn phiên toà”. Như vậy, nếu đương sự đã được Tòa
án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa thì không cần xét lý do vắng mặt
là chính đáng hay không chính đáng, Tòa án phải hoãn phiên tòa và thông báo cho đương
sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn
phiên tòa. Việc Tòa án cho hoãn phiên toà mà không xem xét lý do vắng mặt là chính đáng
hay không chính đáng là một điểm mới Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS
năm 2011. Theo các Điều 199, 200, 201 BLTTDS năm 2004 chưa sửa đổi, bổ sung thì việc
mặt của đương sự phải có lý do chính đáng. Việc sửa đổi này trong luật sửa đổi bổ sung
năm 2011 là nhằm quy định rõ ràng, thống nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng
thủ tục tố tụng dân sự trong trường hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm khi giải
quyết vụ án dân sự.

4


- Trường hợp đương sự được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt,
trong trường hợp này, Tòa án sẽ xem xét tư cách của đương sự vắng mặt để áp dụng các
thủ tục tố tụng dân sự phù hợp:
Nếu đương sự vắng mặt lần thứ hai do sự kiện bất khả kháng mà họ không thể có
mặt tại phiên toà thì theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 28 Nghị quyết số 05/2012/NQHĐTP thì Tòa án cho hoãn phiên tòa: “Trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại
khoản 2 Điều 195 của BLTTDS, đã được Toà án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà
theo quy định tại các điều từ Điều 150 đến Điều 156 của BLTTDS và đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã chuẩn bị tham gia phiên toà xét xử vụ án,
nhưng do sự kiện bất khả kháng xảy ra đối với họ vào trước thời điểm Toà án mở phiên
toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Toà án để tham gia phiên toà (do
thiên tai, địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết,…)

nên họ không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Toà án, thì Toà án cũng hoãn
phiên toà. Trường hợp do Toà án không nhận được thông báo từ phía đương sự, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt họ,
nếu sau khi bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật, đương sự có khiếu nại và
chứng minh được việc họ vắng mặt tại phiên toà là do sự kiện bất khả kháng, thì khiếu nại
cần được xem xét theo thủ tục tái thẩm”.
Nếu đương sự được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt không vì
sự kiện bất khả kháng, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 199 BLTTDS: Về nguyên tắc,
nếu nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người đại diện theo
pháp luật tham gia thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra quyết định đình chỉ việc
giải quyết vụ án dân sự (điểm a, khoản 2, Điều 199 BLTTDS). Bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người đại diện tham
gia phiên tòa thì Toà án tiến hành xét xử vắng mặt (điểm b, khoản 2 Điều 199 BLTTDS).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà không có người
đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của mình và Tòa án ra quyết
định đình chỉ đối với việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập của người đó (điểm c, khoản
2, Điều 199 BLTTDS).

5


Do đó, trừ trường hợp đặc biệt việc vắng mặt của đương sự là do sự kiện bất khả
kháng như phân tích trên đây thì khi nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên toà sơ thẩm mà
vắng mặt Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự; bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập được Toà án triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai để tham gia phiên toà sơ thẩm mà vắng mặt thì Toà án tiến hành phiên toà xét
xử vắng mặt các đương sự này.
2.2.


Giai đoạn xét xử phúc thẩm
Căn cứ Điều 263 BLTTDS quy định về phạm vi xét xử phúc thẩm, trong giai đoạn

xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét những vấn đề mà Toà án cấp sơ thẩm
đã giải quyết, đồng thời Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại những phần của bản án,
quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc liên quan đến việc xét kháng cáo, kháng
nghị. Có thể thấy phạm vi xét xử phúc thẩm thường hẹp hơn phạm vi xét xử sơ thẩm, do
đó, không phải tất cả các đương sự đã tham gia ở phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự đều phải
tham gia ở phiên toà phúc thẩm vụ án dân sự. Theo quy định tại Điều 264 BLTTDS, đương
sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm bao gồm: đương sự đã kháng cáo và đương sự
không kháng cáo nhưng quyền và nghĩa vụ của họ có liên quan đến việc xét kháng cáo,
kháng nghị. Khi triệu tập các đương sự hợp lệ tham gia phiên toà phúc thẩm (đối với các
đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm) mà đương sự vắng mặt thì theo quy định
tại Điều 266 BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 16 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày
03/12/2012 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, tuỳ từng trường hợp Toà án
phải giải quyết như sau:
- Nếu đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà vắng mặt nhưng có đơn đề
nghị Toà án xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia thì theo khoản
2, 3 Điều 266 BLTTDS và hướng dẫn tại Điều 16 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP thì
Toà án tiến hành xét xử vắng mặt;
- Nếu đương sự phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà vắng mặt lần thứ nhất thì
Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hoãn phiên toà, theo quy định tại khoản 2, Điều 266
BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 1 Điều 16, Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP: “Trong
mọi trường hợp, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng
cáo, kháng nghị, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ vắng mặt lần thứ nhất, thì
6


Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hoãn phiên toà mà không phân biệt họ vắng mặt có lý do
chính đáng hay không có lý do chính đáng, trừ trường hợp họ có đơn đề nghị xét xử vắng

mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ”. Tương tự giai đoạn xét xử sơ thẩm, Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 cũng đã loại bỏ căn cứ có lý do chính
đáng để xem xét sự vắng mặt của đương sự. Theo đó, nếu đương sự phải tham gia ở phiên
tòa phúc thẩm đã được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ nhất tại phiên tòa thì
không cần xét lý do vắng mặt là chính đáng hay không chính đáng, trong mọi trường hợp
Tòa án phải hoãn phiên tòa.
- Đương sự kháng cáo được Toà án phúc thẩm triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vắng mặt, căn cứ vào khoản 3 Điều 266 BLTTDS và hướng dẫn tại khoản 2, 3 Điều 16
Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP:
Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
không vì sự kiện bất khả kháng thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Hội đồng xét xử phúc
thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án có kháng cáo của người kháng cáo
vắng mặt (nếu trong vụ án không có người kháng cáo khác).
Trường hợp có nhiều người kháng cáo mà có người kháng cáo thuộc trường hợp quy
định tại khoản 3 Điều 266 của BLTTDS, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử
phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung đối với kháng cáo của những người kháng cáo có mặt
tại phiên toà.Trường hợp có nhiều người kháng cáo mà có người kháng cáo vắng mặt thuộc
trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 266 của BLTTDS và phần vụ án có kháng cáo của
người kháng cáo vắng mặt đó độc lập và không liên quan đến phần khác của bản án bị
kháng cáo, kháng nghị, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với
phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt mà không phải ra quyết định riêng
bằng văn bản, nhưng phải ghi rõ trong bản án. Trong quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
phải ghi rõ bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật.
Nếu người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt vì sự
kiện bất khả kháng thì phải hoãn phiên tòa theo hướng dẫn tại khoản 2, Điều 16 Nghị
quyết số 06/2012/NQ-HĐTP: “Toà án cấp phúc thẩm cũng phải hoãn phiên toà đối với
người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm nếu thuộc trường hợp hướng dẫn tại
khoản 3 Điều 28 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm
7



phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục
giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự”.
- Đương sự không kháng cáo nhưng phải tham gia ở phiên toà phúc thẩm mà được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt thì Toà án tiến hành xét xử vắng mặt để xét
kháng cáo của chủ thể khác hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát theo hướng dẫn tại khoản
3, Điều 16 Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP.
Như vậy, pháp luật TTDS hiện hành đã quy định khá cụ thể về thủ tục tố tụng dân sự
áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở phiên toà phúc thẩm khi được Toà án cấp
phúc thẩm triệu tập hợp lệ. Việc quy định này đã là cơ sở cho việc xử lý đối với những
trường hợp đương sự vắng mặt khi được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà phúc
thẩm.
II.

Thực tiễn thực hiện và phương hướng hoàn thiện pháp luật
Có thể thấy rằng các quy định của pháp luật TTDS hiện hành đã xác định khá cụ thể

các thủ tục TTDS áp dụng khi đương sự được Toà án triệu tập hợp lệ tham gia phiên toà sơ
thẩm nhưng vắng mặt. Tuy nhiên, em thấy rằng các quy định này còn một số điểm chưa
được quy định hoặc quy định chưa hợp lý dẫn đến việc thực hiện trên thực tiễn của các Tòa
án còn gặp nhiều khó khăn. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật TTDS hiện hành quy định về việc hoãn phiên tòa trong trường
hợp đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất nhưng vắng mặt hoặc được triệu tập
đến lần thứ hai mà vắng mặt do sự kiện bất khả kháng dẫn đến quá trình TTDS bị kéo dài,
gây khó khăn cho Tòa án. Trên thực tế, có nhiều trường hợp bị đơn là người bị kiện,
thường là người sau này phải thực hiện nghĩa vụ nên về tâm lý họ không muốn tham gia tố
tụng và muốn hoãn phiên tòa để kéo dài thời gian tố tụng. Như vậy, nếu hoãn phiên tòa khi
đương sự vắng mặt lần thứ nhất thì sẽ chỉ bảo vệ được quyền lợi của một bên đương sự
vắng mặt, các đương sự sẽ bị lợi dụng quy định này của pháp luật, làm ảnh hưởng đến việc

đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương sự, làm cho vụ án có khả năng bị hoãn nhiều lần.
Ngoài ra trong trường hợp hoãn phiên tòa do đương sự vắng mặt lần thứ hai gặp phải sự
kiện bất khả kháng, luật TTDS không quy định được hoãn bao nhiêu lần, nên nếu đương sự
vẫn vắng mặt do sự kiện bất khả kháng nhiều hơn hai lần thì vụ án lại bị hoãn, gây tốn kém
thời gian, công sức của cả đương sự lẫn Nhà nước. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp
8


đương sự không thể có mặt tại phiên tòa do sự kiện bất khả kháng mà vẫn bị Tòa án đình
chỉ vụ án, ví dụ như nguyên đơn bị ốm nặng phải nằm viện, không thể nhờ được người đại
diện và cũng không thể có mặt tại Tòa án được. Đến khi họ ra viện thì thời hiệu khởi kiện
đã hết. Do đó, quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn đã không được đảm bảo.
Do đó, em xin bổ sung quy định trong trường hợp này theo hướng: trường hợp bị đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm; người không có kháng cáo trong giai đoạn xét xử phúc thẩm được Tòa án triệu tập
hợp lệ mà vắng mặt lần thứ nhất, nếu việc xét xử vắng mặt những đương sự này không làm
ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự khác thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử
vắng mặt họ. Trong trường hợp nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập trong giai đoạn xét xử sơ thẩm; người có kháng cáo trong giai đoạn xét xử
phúc thẩm đã được triệu tập đến hai lần mà vắng mặt vì sự kiện bất khả kháng thì được yêu
cầu Tòa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án hoặc tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án.
Thứ hai, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 199 BLTTDS đã không xét đến một trường
hợp ngoại lệ là: Toà án đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự khi nguyên đơn được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai vắng mặt nhưng trong vụ án này bị đơn có yêu cầu phản tố đối với
nguyên đơn mà bị đơn có mặt khi được triệu tập hợp lệ. Trường hợp này, Toà án có tiếp tục
xét xử vắng mặt nguyên đơn để xét yêu cầu phản tố của bị đơn hay không? Đây là vấn đề
pháp luật TTDS không có quy định và cũng chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.
Trong khi đó theo quy định tại điểm khoản 2, Điều 218 và khoản 1 Điều 219 BLTTDS
đồng thời theo hướng dẫn tại Điều 32, 33 Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP chỉ quy định
về việc xử lý khi người khởi kiện rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, nhưng bị đơn vẫn giữ

nguyên yêu cầu phản tố thì Toà án sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án với yêu
cầu của người khởi kiện đã rút, nguyên đơn sẽ trở thành bị đơn và bị đơn trở thành nguyên
đơn. trường hợp nguyên đơn được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt
thì Toà án đình chỉ việc giải quyết vụ án với yêu cầu của nguyên đơn, nhưng nếu bị đơn có
yêu cầu phản tố thì Toà án vẫn phải giải quyết yêu cầu của bị đơn và bị đơn trở thành
nguyên đơn, nguyên đơn sẽ trở thành bị đơn. [2]
Thứ ba, trong trường hợp nguyên đơn được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt không do sự kiện bất khả kháng thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Toà án ra
quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự (điểm b, khoản 2, Điều 199 BLTTDS) còn
9


bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không do sự kiện bất khả
kháng thì Toà án xét xử vắng mặt bị đơn (điểm c, khoản 2, Điều 199 BLTTDS). Tuy nhiên,
trong trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn mà bị đơn được triệu tập
hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt thì khi Toà án xét xử vắng mặt bị đơn, Toà án có giải
quyết yêu cầu phản tố của bị đơn không? Pháp luật TTDS hiện hành không có quy định và
cũng chưa có văn bản hướng dẫn về vấn đề này. Trong trường hợp này, khi Toà án xét xử
vắng mặt bị đơn thì Toà án cũng không giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn mà đình chỉ
việc giải quyết vụ án đối với yêu cầu phản tố của bị đơn vắng mặt. Bởi vì, trong tố tụng
dân sự các đương sự là bình đẳng với nhau: nguyên đơn có quyền đưa ra yêu cầu khởi kiện
thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố, các yêu cầu này của đương sự đều được
Toà án xem xét giải quyết. Vì vậy, khi nguyên đơn vắng mặt đến lần thứ hai thì suy đoán là
nguyên đơn đã từ bỏ yêu cầu khởi kiện của mình và Toà án ra quyết định đình chỉ việc giải
quyết vụ án dân sự khi nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt. Khi
bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai Toà án xét xử vắng mặt bị đơn thì Toà án phải đình chỉ
việc giải quyết vụ án đốivơi yêu cầu phản tố của bị đơn nếu có. [3]
Thứ tư, theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, Toà án có thể xét xử
mà không có sự tham gia của đương sự. Trong trường hợp phiên tòa diễn ra nhưng không
có sự tham gia của bất kỳ đương sự nào thì thủ tục tiến hành phiên toà này sẽ được thực

hiện như thế nào để bảo đảm đúng thủ tục tố tụng. Chẳng hạn các thủ tục tiến hành phiên
hòa giải như thủ tục hỏi, tranh luận… không thể tiến hành theo thủ tục chung do BLTTDS
quy định khi không có đương sự nào tham gia vì chủ thể tranh luận chủ yếu là đương sự.
Vì vậy, pháp luật tố tụng dân sự bên cạnh việc quy định thủ tục tiến hành phiên toà trong
trường hợp thông thường với sự có mặt của các đương sự cần quy định những thủ tục riêng
và những điều kiện cho một phiên toà xét xử vắng mặt đương sự nhằm bảo đảm việc Toà
án xét xử vắng mặt đương sự mà vẫn bảo đảm giải quyết nhanh chóng, chính xác và đúng
pháp luật [4].

10


KẾT BÀI
Trên đây là một số nội dung về Thủ tục tố tụng dân sự áp dụng trong trường hợp
đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự theo
quy định của Pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành và một số thực tiễn thức hiện cũng với
đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật tố tụng về vấn đề này. Qua những phân
tích trên có thể thấy BLTTDS đã có những quy định tương đối đầy đủ về các thủ tục TTDS
áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải
quyết vụ án dân sự, tạo điều kiện thuận lợi cho các toàn án lẫn các bên đương sự trong việc
giải quyết các vụ án dân sự mà có đương sự vắng mặt. Tuy nhiên, thủ tục TTDS áp dụng
trong trường hợp đương sự vắng mặt khi được Toà án triệu tập là vấn đề phức tạp, điều này
không chỉ thể hiện trong luật thực định mà thể hiện cả trong thực tiễn áp dụng. Do đó, các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong phạm vi quyền hạn của mình cần kịp thời có
những sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật TTDS về vấn
đề này.

11



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
*****
1. Trường đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb CAND,
Hà Nội – 2012;
2. Bộ luật Tố tụng dân sự 2004;
3. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều trong BLTTDS năm 2011;
4. Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải
quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự;
5. Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐTP ngày 03-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải
quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi,
bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự;
6. ThS. Nguyễn Triều Dương, Hậu quả pháp lý của việc đương sự vắng mặt tại phiên
tòa,Trường Đại học Luật Hà Nội;
[1], [2], [3], [4]: Tham khảo “ThS. Nguyễn Triều Dương, Hậu quả pháp lý của việc
đương sự vắng mặt tại phiên tòa,Trường Đại học Luật Hà Nội”.

12



×