Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu qua phân môn tập đọc cho HS lớp 4 5 trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.1 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
STT
1
1. Mở đầu

Nội dung

Trang
1

2
3
4
5
6

1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung

1-2
2
2

7
8

2.1. Cơ sởlý luận
2.2. Thực trạng Việc dạy đọc hiểu ở trường TH Hoằng


Trung
2.3. Các giải pháp rèn đọc hiểu cho HS lớp 4-5
2.4. Kết quả đạt được
3. Kết luận, kiến nghị

2-3
3-5

9
10
11
12
13

3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị

2

5 - 11
11 - 12
12
12 - 13
13 - 14

1


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:

Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông vừa là một bộ môn khoa học vừa là
một công cụ để giao tiếp và tiếp thu các môn học khác. Môn Tiếng Việt có
nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, tương ứng là
bốn kỹ năng: Nghe - nói - đọc - viết. Đặc biệt, phân môn Tập đọc - là phân môn
"khởi sự" có vị trí rất quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học, góp
phần hệ thống lại kiến thức tiếng “mẹ đẻ” cho học sinh, làm phong phú tâm hồn
các em, góp phần tích lũy được vốn sống bằng những hiểu biết và cảm xúc của
bản thân, có cái nhìn về thế giới xung quanh tinh tế hơn, nhạy cảm hơn, phù hợp
với tâm lí lứa tuổi ngây thơ, hồn nhiên giàu cảm xúc của các em.
Tập đọc là một phân môn thực hành mang tính tổng hợp, nhiệm vụ quan
trọng nhất là hình thành và phát triển kĩ năng đọc hiểu cho học sinh. Đọc là một
hình thức của ngôn ngữ giao tiếp. Đọc giúp học sinh giải mã được các tín hiệu
ngôn ngữ, thông hiểu văn bản, giúp các em cảm thụ tốt hơn cái hay, cái đẹp của
tác phẩm. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp
và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác, tạo ra hứng thú và động
cơ học tập. Đọc là một khả năng không thể thiếu được của con người trong thời
đại văn minh. Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay thì đọc giúp các
em tự tin sử dụng các nguồn thông tin, đọc chính là học, học nữa, học mãi, đọc
để tự học và học suốt đời.
Không những thế, tập đọc là một phân môn có vị trí đặc biệt quan trọng
trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình thành và phát triển cho học sinh
kỹ năng đọc - một kỹ năng quan trọng hàng đầu của học sinh ở bậc học đầu tiên
- bậc Tiểu học. Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn
hóa cơ bản, giúp họ giao tiếp được với thế giới bên ngoài và giao tiếp với người
khác. Thông hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác
phẩm văn chương, các em không chỉ được thức tỉnh về nhận thức mà còn rung
động tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, được khơi dậy năng lực hành
động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn. Năng lực đọc của
học sinh được tạo nên từ bốn kỹ năng, cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “
đọc”: Đọc đúng, đọc trôi chảy, đọc có ý thức ( đọc hiểu) và đọc hay. Trong bốn

kỹ năng đó, kỹ năng đọc hiểu được coi là một kỹ năng cực kỳ quan trọng, nó là
“ bậc thang cuối cùng” để giúp cho học sinh đạt được yêu cầu và chất lượng cao
nhất của việc đọc - đọc diễn cảm. Chỉ khi biết cách hiểu, hiểu sâu sắc, thấu đáo
các văn bản được đọc thì học sinh mới có công cụ hữu hiệu để lĩnh hội những tri
thức, tư tưởng, tình cảm của người khác chứa đựng trong văn
bản, có công cụ để lĩnh hội tri thức khi học các môn học khác trong nhà trường.
Chính nhờ biết cách đọc hiểu văn bản mà học sinh dần dần có khả năng đọc
riêng để tự học, tự bồi dưỡng kiến thức về cuộc sống, từ đó hình thành thói
quen, hứng thú với việc đọc sách, với việc tự học thường xuyên. Trong khi đó, ở
trường Tiểu học nói chung, trường Tiểu học Hoằng Trung nói riêng, việc dạy
đọc bên cạnh những thành công, còn nhiều hạn chế. Học sinh của chúng ta chưa
đọc được như mong muốn. Học sinh đọc mà không nắm được điều gì là cốt lõi
trong văn bản. Kết quả đọc của học sinh chưa đáp ứng được yêu cầu của việc
2


hình thành kỹ năng giao tiếp quan trọng. Một số giáo viên cũng còn lúng túng
khi dạy kỹ năng đọc hiểu.
Làm thế nào để các em hiểu một cách chân thực và sâu sắc văn bản được
đọc, để những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em? Vận dụng
những phương pháp dạy học nào để nâng cao chất lượng kỹ năng đọc hiểu? Dạy
với thời lượng bao lâu là phù hợp?... Đó là những băn khoăn, trăn trở của Hiệu
trưởng- Người làm công tác quản lý với trọng trách lớn trước ngành và trước
phụ huynh học sinh về chất lượng giáo dục của đơn vị mình. Và cũng là trăn trở
của giáo viên trong mỗi giờ dạy Tập đọc. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn
đề tài: “ Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu qua phân môn Tập đọc cho
học sinh lớp 4-5 trường Tiểu học”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu “Một số biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu qua phân môn Tập
đọc cho học sinh lớp 4-5 trường Tiểu học”, nhằm nâng cao chất lượng kỹ năng

đọc hiểu - một kỹ năng quan trọng của phân môn Tập đọc trong chương trình
Tiếng Việt ở bậc Tiểu học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 4-5 ở trường Tiểu học Hoằng Trung, Hoằng Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được sáng kiến kinh nghiệm này, tôi sử dụng hai nhóm
phương pháp sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các khái niệm lý thuyết liên quan đến nội dung sáng kiến
kinh nghiệm.
Nghiên cứu các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, tra cứu Tạp chí giáo
dục hàng tháng, SGK, SGV,... có liên quan đến sáng kiến kinh nghiệm.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Khảo sát thực tiễn.
+ Quan sát, phỏng vấn, thống kê.
+ Tổng kết kinh nghiệm.
2. NỘI DUNG :
2.1. Cơ sở lý luận.
a. Đọc hiểu và tầm quan trọng của việc dạy học đọc hiểu
*Thế nào là đọc hiểu ?
Đọc hiểu là một cách đọc phân tích. Đọc hiểu là một hoạt động có tính
quá trình rất rõ vì nó gồm nhiều hành động được trải ra theo tuyến tính thời gian.
- Hành động đầu tiên của quá trình đọc hiểu là hành động – “nhận diện
ngôn ngữ văn bản”, gồm:
+ Kĩ năng nhận diện từ mới và phát hiện các từ quan trọng (từ chìa
khóa) trong văn bản.
+ Kĩ năng nhận ra các câu khó hiểu, các câu quan trọng
+ Kĩ năng nhận ra các đoạn, ý của văn bản.
+ Kĩ năng nhận ra đề tài của văn bản.
3



- Hành động tiếp theo là hành động “ làm rõ nghĩa” của các chuỗi tín hiệu
ngôn ngữ, gồm:
+ Kĩ năng làm rõ nghĩa từ.
+ Kĩ năng làm rõ nội dung thông báo của câu.
+ Kĩ năng làm rõ ý của đoạn.
+ Kĩ năng làm rõ ý chính của văn bản.
+ Kĩ năng làm rõ mục đích của người viết gửi vào văn bản, kĩ năng nhận
biết những ẩn ý của tác giả.
- Hành động cuối cùng là hành động –“ hồi đáp” lại ý kiến của người viết
nêu trong văn bản, gồm:
+ Kĩ năng đánh giá tính đúng đắn của nội dung văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính đầy đủ của văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính nguyên nhân, hiệu quả của văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính cập nhật của nội dung văn bản
+ Kĩ năng đánh giá tính hấp dẫn, thuyết phục của nội dung văn bản
+ Kĩ năng liên hệ cá nhân sau khi tiếp nhận văn bản
*Tầm quan trọng của việc dạy đọc hiểu:
Giáo sư - Tiến sĩ Lê Phương Nga đã viết: “ Đọc không chỉ là đánh vần lên
thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ viết mà quan trọng hơn, đọc còn là một
quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những gì được đọc. Đọc thành
tiếng không thể tách rời với việc hiểu những gì được đọc. Chỉ có thể xem học
sinh biết đọc khi các em đọc mà hiểu điều mình đọc. Đọc là phải hiểu nghĩa của
chữ viết. Nếu trẻ không hiểu những từ ta đưa cho chúng đọc, các em sẽ không
hứng thú học tập và không có khả năng thành công”. Đích cuối cùng của việc
dạy đọc là dạy cho học sinh có kĩ năng làm việc với văn bản, chiếm lĩnh được
văn bản. Biết đọc cũng là biết tiếp nhận, xử lí thông tin. Chính vì vậy, dạy đọc
hiểu có vai trò đặc biệt quan trọng trong dạy đọc nói riêng và trong dạy học ở
Tiểu học nói chung.

L.Tônxtôi đã nói “ Mỗi quyển sách đều có số phận riêng của mình trong
đầu bạn đọc của nó”. Vì thế dạy đọc hiểu văn bản văn chương hay tiếp nhận văn
chương là quá trình biến văn bản thành tác phẩm của mỗi học sinh. Đây là một
quá trình phức tạp do tính đa nghĩa, hàm xúc, tính đối thoại của ngôn từ, tính
không nói hết của hình tượng nghệ thuật cũng như do sự liên tưởng, tưởng
tượng khám phá, sáng tạo hết sức phong phú của người đọc. Vì vậy, vai trò đứng
lớp của người giáo viên trong việc dạy kĩ năng đọc hiểu lại càng được nhấn
mạnh. Hơn nữa, trong bốn kĩ năng, yêu cầu về chất lượng của “đọc”: Đọc đúng,
đọc trôi chảy, đọc hiểu, đọc hay (diễn cảm); thì đọc hay (diễn cảm) được coi là
kĩ năng cuối cùng cần đạt tới của “ đọc”, nó là hình thức đạt yêu cầu và chất
lượng cao nhất của việc đọc. Nhưng học sinh sẽ không thể đọc hay (diễn cảm)
nếu như các em không thông hiểu nội dung văn bản được đọc hoặc là đọc “
diễn” chứ không thể “ cảm”. Chính vì vậy, tầm quan trọng của việc dạy kĩ năng
đọc hiểu thêm một lần nữa được khẳng định.
2.2 . Thực trạng việc dạy đọc hiểu ở trường Tiểu học Hoằng Trung
a. Về phía giáo viên:
4


Nhìn chung, giáo viên giàu lòng nhiệt tình, say mê công việc và làm việc
với tinh thần trách nhiệm cao. Sau mỗi giờ dạy Tập đọc, mỗi một giáo viên đều
có băn khoăn, trăn trở chung là làm thế nào để chất lượng đọc hiểu của học sinh
ngày càng được nâng cao? Đa số giáo viên có chất giọng tốt, kiến thức vững
vàng, có khả năng biểu đạt tình cảm qua giọng đọc. Một thuận lợi nữa là nhiều
giáo viên đã trải qua nhiều năm giảng dạy lớp 4-5, có kinh nghiệm rèn đọc nói
chung và rèn kĩ năng đọc hiểu nói riêng. Có giáo viên có ý thức, chú ý luyện tập
để có ngôn ngữ chuẩn, trong sáng. Tuy vậy, thực tế qua khảo sát chất lượng đầu
năm học 2017 - 2018 cho thấy, chất lượng đọc kĩ thuật, đặc biệt là kĩ năng đọc
hiểu của học sinh lớp 4-5 chưa thực sự đạt kết quả như mong muốn.
Nguyên nhân của thực trạng trên là:

- Đối với một bài Tập đọc trong sách giáo khoa bậc Tiểu học, vấn đề
hướng dẫn đọc còn chung chung.
- Dù không có một văn bản nào quy định chính thức nhưng trên thực tế do
khối lượng công việc liên quan phải thực hiện, thời lượng dành cho đọc thành
tiếng thường chiếm đến gần 1/2 tiết dạy, nếu kể cả luyện đọc hay (diễn cảm).
Điều này đồng nghĩa rằng việc hướng dẫn tìm hiểu bài chiếm thời lượng ít trong
tiết tập đọc hiện nay. Thực tiễn dạy Tập đọc như trên cũng đã hình thành đậm
nét trong nhận thức của một bộ phận đông đảo giáo viên khi cho rằng “ dạy Tập
đọc thì phải dạy học sinh đọc”. Nên bất kì một tiết dạy nào thể hiện quan điểm
nhấn mạnh việc đọc hiểu với một hệ thống nhiều hoạt động đọc hiểu khác
nhau( đồng thời cũng chiếm nhiều thời lượng hơn bình thường) để giúp học sinh
thông hiểu văn bản, phát triển kĩ năng đọc hiểu và hứng thú đọc đều bị nhìn
nhận là “ lối dạy nặng về kiến thức”.
- Một số giáo viên trong khi dạy đọc hiểu chưa có định hướng, mục tiêu, kế
hoạch rõ ràng, chưa xác định được nội dung cần hướng dẫn cho học sinh là gì.
- Một nguyên nhân nữa không thể không kể đến đó là do giáo viên còn
hạn chế về nội dung và phương pháp dạy học kĩ năng đọc hiểu nên còn có
những cách hiểu và giải thích chưa đúng về một số bài đọc ở Tiểu học, từ đó
không hướng dẫn được cho học sinh nắm được nội dung cốt yếu trong văn bản
được đọc.
b. Về phía học sinh:
Cũng như tiếp nhận văn học nói chung, tiếp nhận văn học ở học sinh Tiểu
học rất giàu tính sáng tạo. Sự sáng tạo này đặc biệt bởi tính hồn nhiên, ngây thơ,
ngộ nghĩnh của các em. Các em cảm thụ văn học không giống với cách cảm thụ
văn học của người lớn. Nhiều em thích được đọc, hứng thú khi được tìm hiểu
nhân vật, nhập vai vào nhân vật được tìm hiểu. Có em còn có những phát hiện
rất thông minh và khá lí thú khi giáo viên cho phép tự tìm định hướng, cách giải
quyết của riêng mình, bắt đầu từ gợi mở “ Nếu em là .... em sẽ làm gì? làm như
thế nào?” Tuy vậy, nhìn chung, chất lượng đọc kĩ thuật nói chung, kĩ năng đọc
hiểu nói riêng vẫn chưa cao. Các em quá lệ thuộc vào văn bản, thường chỉ diễn

nôm từng câu chữ của bài văn, bài thơ khi trả lời các câu hỏi tìm hiểu bài, thiếu
tính sáng tạo, nhiều em trả lời sai hoặc có cách hiểu sai về văn bản được đọc.

5


* Kết quả khảo sát đầu năm về chất lượng, kĩ năng đọc hiểu của học
sinh lớp 4-5 trường Tiểu học Hoằng Trung năm học 2017- 2018 cụ thể như
sau:
TT Lớp
1
2
3
4

4A
4B
5A
5B

Sĩ Số
HS
36
36
27
28

HS đọc hiểu HTT
9 em = 25%
8 em = 22,2%

4 em = 14,8%
12 em = 44,4%

HS đọc hiểu HT HS đọc hiểu
15 em = 41,7%
15 em= 41,7%
10 em= 37,1%
11 em = 37,8%

CHT
12 em = 33,3%
13 em = 36,1%
13 em = 48,1%
5 em = 17,8%

Qua tìm hiểu, tôi thấy nguyên nhân của thực trạng này là:
- Do khả năng đọc và vốn sống của học sinh còn hạn chế, từ đó ảnh hưởng
đến sự tiếp nhận văn học của trẻ. Vì vốn từ ngữ, vốn sống còn ít nên nhiều khi
các em cắt nghĩa sai các từ, các cụm từ.
- Thực tế một số giáo viên chỉ nêu câu hỏi và chờ đợi những câu trả lời
đúng từ học sinh mà không biết, không quan tâm đến chuyện quá trình đọc diễn
ra như thế nào, học sinh làm gì và cần làm gì để có được câu trả lời. Giáo viên
chỉ quan tâm đến kết quả các nội dung kiến thức bài đọc đem lại mà không quan
tâm đến phương pháp để đạt được kết quả này.
- Nhiều giáo viên khi gặp những từ nào cần giải nghĩa cũng chỉ biết đưa từ
ra một cách cô lập, tách rời khỏi văn cảnh, học sinh không hiểu nghĩa của văn
cảnh của từ, từ đó không thể hiểu nội dung bài.
- Chính bản thân giáo viên gặp khó khăn khi hướng dẫn học sinh xác định nội
dung của bài tập đọc. Trong thực tế, cũng một bài tập đọc nhưng mỗi giáo viên
lại hướng dẫn học sinh nêu lên một nội dung khác nhau. Nhưng khi yêu cầu học

sinh tìm thì giáo viên thường chỉ chấp nhận một giải pháp đúng. Đó là nội dung
bài với những câu chữ mà giáo viên đã viết sẵn trong bài soạn, thường là chép
lại từ sách giáo viên, sách thiết kế,...
- Nhiều em không hứng thú lắm với tiết Tập đọc vì cho rằng cô dạy khô khan,
hay gò ép học sinh vào khuôn phép, buộc phải hiểu và nhớ theo những gì cô đã
dạy.
2.3. Các giải pháp rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 4- 5.
a. Giải pháp thứ nhất: Hướng dẫn tìm hiểu đề tài của văn bản
Mục đích của việc này là: Hướng dẫn để học sinh nhận ra đề tài văn bản
khi trả lời được các câu hỏi: Bài Tập đọc nói về cái gì? Về việc gì? Về ai? Để
xác định đề tài của văn bản nhiều khi cần hướng dẫn học sinh dựa vào chủ điểm
của bài tập đọc hoặc dựa vào tranh minh họa để đoán về đề tài. Hướng dẫn học
sinh thực hiện các thao tác để xác định được đề tài:
- Đọc lướt lại toàn bài: Hướng dẫn học sinh chỉ cần lướt mắt trên dòng ghi
tên bài, những dòng có tên người, tên công việc chính,...
- Phát biểu đề tài của bài: Cần cho các em phân biệt hai kiểu văn bản để
sử dụng các từ ngữ phát biểu cho phù hợp:
+ Đề tài của văn bản trữ tình thường được phát biểu mở đầu bằng các từ:
“ Bài này nói về tình cảm( cảm xúc, tâm trạng, lòng yêu thương,...)
6


+ Đề tài của các văn bản tự sự thường được phát biểu mở đầu bằng các
từ: “ Bài này kể về chuyện....”, “ Kể về việc....”
b.Giải pháp thứ 2: Hướng dẫn tìm hiểu tên bài
Tên bài thường ngắn nhưng nói với người đọc nhiều điều. Nó giúp người
đọc xác định được đề tài văn bản và phần nào đoán được nội dung văn bản.
Trước hết, hướng dẫn học sinh chú ý bám sát vào câu chữ của tên gọi để hiểu
được nhiều điều về nội dung bài một cách nhanh chóng hơn.
Ví dụ: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ( TV5/2).

Phần lớn tên bài được đặt theo chủ đề nên đọc tên bài có thể hiểu được
phần nào nội dung văn bản.
Ví dụ: Lập làng giữ biển, Phân xử tài tình, Luật tục xưa của người Ê- đê, Vì
cuộc sống thanh bình, Nghĩa thầy trò, Hội thổi cơm thi ở làng Đồng Vân,
(TVL5)… Có những bài Tập đọc được đặt tên một cách kín đáo hơn, tên bài có
thể chỉ là một hình ảnh gợi tả: “ Tiếng rao đêm, Cửa sông, (TVL5)… Tên bài có
thể chỉ là tên một nhân vật: Út Vịnh, Thái sư Trần Thủ Độ, (TVL5)… Có những
tên bài không những cho biết chủ đề mà còn cho biết cách đánh giá, tình cảm
của tác giả. Đó là những tên gọi như: “Nếu trái đất thiếu trẻ con, Bầm ơi,
(TVL5)”…Với những bài có tên gọi không gợi ra chủ đề, giáo viên có thể hướng
dẫn học sinh đặt lại tên bài khác phù hợp với nội dung mà các em được hướng
dẫn tìm hiểu. Với những tên bài có tên gọi phù hợp với chủ đề, tên bài hay, có
nhiều ý nghĩa thì giáo viên yêu cầu học sinh chỉ ra những ý nghĩa này bằng cách
đặt tên bài đã có trong thế đối lập với những tên bài khác. Việc này sẽ giúp học
sinh nhận ra cái hay, điều thú vị trong những cái tên.
Ví dụ: Khi học bài Tập đọc “ Một vụ đắm tàu”, học sinh lớp 5 tỏ ra rất hứng
thú khi giáo viên đưa ra yêu cầu “ Hãy đặt tên khác cho bài tập đọc”. Học sinh
tranh luận sôi nổi và có nhiều cách đặt tên khác nhau: Tình bạn, Vĩnh biệt Ma-riô, Sự hi sinh cao
c. Giải pháp thứ 3: Tập cho học sinh có thói quen đọc thầm văn bản.
Một hình thức đọc có nhiều lợi thế để hiểu văn bản. Đây là hình thức đọc
có ưu thế hơn hẳn đọc thành tiếng vì :
+ Nhanh hơn đọc thành tiếng từ 1,5 - 2 lần
+ Dễ tiếp nhận, thông hiểu nội dung văn bản vì học sinh không chú ý đến
việc phát âm mà chỉ tập trung để hiểu nội dung điều mình đọc.
* Hai việc cần làm để dạy đọc thầm:
+ Chuẩn bị cho việc đọc thầm: tư thế ngồi đọc phải ngay ngắn, có khoảng
cách phù hợp giữa mắt và sách.
+ Tổ chức quá trình đọc thầm: Từ đọc to, đọc nhỏ, đọc mấp máy môi
(Không thành tiếng), đọc hoàn toàn bằng mắt không mấp máy môi (đọc thầm).
Đọc thầm là cách đọc có hiệu quả nhất trong việc rèn kỹ năng đọc hiểu cho HS.

d. Giải pháp thứ 4: Hướng dẫn học sinh phát hiện ra từ mới và từ ngữ
quan trọng của bài
- Mục đích: Học sinh phải có kĩ năng nhận ra từ nào cần tìm hiểu - từ mới.
Để hướng dẫn học sinh tìm từ mới, giáo viên đặt vấn đề: “ Em hãy chỉ ra những
từ em chưa hiểu nghĩa”. Về phương diện này, người giáo viên phải có hiểu biết
về từ địa phương (phương ngữ), về vốn từ để chọn từ cho thích hợp, chuẩn bị
7


sẵn sàng để giải đáp cho học sinh bất cứ từ nào trong bài mà học sinh đưa ra. Để
hiểu văn bản, không cần phải hiểu nghĩa của tất cả các từ trong bài mà phải
hướng dẫn học sinh xác định được các từ quan trọng, từ “chìa khóa”. Bởi vì
những từ “ chìa khóa” có quan hệ trực tiếp với đề tài, chủ đề. Nếu bỏ những từ
này thì tính liên kết, tính mạch lạc của nội dung văn bản bị đứt quãng. Cách tìm
từ “chìa khóa” trong các kiểu loại văn bản có khác nhau. Giáo viên cần có các
biện pháp để giúp học sinh phát hiện ra những từ có tín hiệu nghệ thuật. Đó là
những từ giàu màu sắc biểu cảm như các từ láy, những từ đa nghĩa, những từ
chuyển nghĩa, những từ bộc lộ cảm xúc,... Vì vậy khi lập kế hoạch bài học, giáo
viên cần có ý thức sắp xếp thứ bậc ưu tiên các từ cần dạy.
- Đối với những từ ngữ khác trong bài khó hiểu, những từ chìa khóa mang
ý nghĩa cơ bản. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giải thích bằng các biện
pháp sau:
+ Dùng từ cùng nghĩa, trái nghĩa hoặc những từ ngữ thông dụng ở địa
phương để giải nghĩa.
+ Đặt câu với từ ngữ ấy( có nghĩa là dùng từ ngữ đó trong một văn cảnh
cụ thể)
+ Miêu tả sự vật, hoạt động, trạng thái, đặc điểm hoặc tính chất được gọi
tên bằng từ ngữ đó.
Ví dụ: Bài “ Sầu riêng” TV4 tập 2. Với từ “Đam mê” nên hướng dẫn học sinh
tìm từ ngữ thay thế như: Thích thú, khát khao… Sau đó cho các em so sánh và

thấy được “ Đam mê” là sự ham thích quá mức bao gồm cả sự yêu thích, khát
khao và thèm muốn. Vì vậy trong câu văn này, dùng từ “ Đam mê” là chính xác
nhất, hay nhất. Đam mê còn khẳng định sức hấp dẫn, giá trị quý hiếm của trái
Sầu riêng- đặc sản của miền Nam nước ta. Đây chính là ý nghĩa khái quát của
bài tập đọc.
* Các thao tác hướng dẫn học sinh tìm từ mới, từ ngữ quan trọng trong bài:
- Yêu cầu học sinh đọc to hoặc đọc thầm toàn bài.
- Đánh dấu các từ chưa biết nghĩa trong từng câu.
- Chọn đánh dấu vào những từ quan trọng trong bài.
- Tìm các từ ngữ, hình ảnh có giá trị nghệ thuật (dành cho các văn bản văn
chương).
* Làm rõ nghĩa của từ ngữ : Giáo viên nên lựa chọn từ ngữ chính, từ ngữ
có tính nghệ thuật cần hướng dẫn để học sinh hiểu và nắm được nội dung, cảm
thụ tốt bài đọc. Do vậy, giáo viên cần giảng nghĩa và nêu được tác dụng của nó
trong văn cảnh cụ thể, hướng vào chủ đề bài học, tránh giảng quá rộng, quá sâu.
Giáo viên cần sử dụng nhiều biện pháp giải nghĩa khác nhau, lựa chọn biện pháp
giải nghĩa cho phù hợp với từng từ, phù hợp với vai trò của từ trong văn bản
như:
- Đọc phần giải nghĩa (chú giải) trong sách giáo khoa.
- Dùng lời nói, động tác hoặc cử chỉ để miêu tả sự vật, đặc điểm được biểu
thị ở từ cần được giải nghĩa.
- Sử dụng đồ dùng dạy học, trực quan như: hiện vật, mô hình, tranh vẽ, vật
thật để giải nghĩa từ.
- Đặt câu với từ cần giải nghĩa.
8


- Tìm từ đồng nghĩa hoặc từ trái nghĩa với từ cần giải nghĩa. Lưu ý: Trong
văn bản có giá trị nghệ thuật, khi hướng dẫn học sinh làm rõ nghĩa các từ, cần
chú ý làm rõ nghĩa đen và nghĩa bóng. Vì vậy cần chú ý đến phương thức

chuyển nghĩa của các từ.
* Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh:
Biện pháp này chỉ sử dụng khi hướng dẫn tìm hiểu các tác phẩm nghệ
thuật. Làm rõ cái hay của việc dùng từ ngữ, hình ảnh chính là một nội dung của
dạy cảm thụ văn học trong trường Tiểu học. Tức là dạy học sinh cảm nhận
những giá trị nổi bật; những điều tế nhị sâu sắc, đẹp đẽ của từ ngữ, câu văn, câu
thơ, đoạn văn, đoạn thơ, câu chuyện,... Các thao tác hướng dẫn học sinh là:
- Phát hiện các tín hiệu nghệ thuật.
- Chuyển từ cách diễn đạt nghệ thuật về lời nói thường
- Chỉ ra tác dụng của việc diễn đạt nghệ thuật và cách diễn đạt không nghệ
thuật trong việc biểu đạt nội dung.
Ví dụ: Bài hoa học trò (TV4 tập 2), với từ “ Đỏ rực” trong hình ảnh “ Một
góc trời đỏ rực”, để giải nghĩa từ này, giáo viên nên cho các em quan sát tranh.
Từ hành động quan sát, các em sẽ có nhận xét về màu sắc, đặc điểm, tính chất
của hoa phượng nở rộ với số lượng nhiều. Từ đó các em dễ dàng giải thích được
từ “ Đỏ rực” có nghĩa là đỏ thắm, tươi tắn và tỏa ra xung quanh.
đ. Giải pháp thứ 5: Hướng dẫn tìm hiểu câu, đoạn- giúp học sinh nhanh
chóng chiếm lĩnh văn bản
Thông thường trong bài tập đọc có một số câu có cấu trúc phức tạp mà
chúng ta thường để luyện đọc đúng cho học sinh, phần nhiều loại câu này chứa
đựng ý quan trọng thể hiện nội dung chính của bài.
Ví dụ: Trong bài “ Người công dân số một( Tiếp theo) TV lớp 5 tập 2
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc câu: “ Làm thân nô lệ mà xóa bỏ kiếp
nô lệ/ thì sẽ thành công dân, còn nếu yên phận nô lệ/ thì mãi mãi là đầy tớ cho
người ta.”
Qua câu nói của Nguyễn Tất Thành, học sinh sẽ hiểu được nội dung chính
của đoạn trích này là: Ca ngợi lòng yêu nước, tầm nhìn xa và quyết tâm cứu
nước của Nguyễn Tất Thành.
Xác định những câu quan trọng và đoạn ý: Để giúp học sinh phát hiện ra
những câu phức hợp, những câu quan trọng của bài, giáo viên cần hướng dẫn

học sinh:
- Đọc lướt toàn văn bản.
- Tìm câu dài, đánh dấu điểm mở đầu và kết thúc từng câu (văn xuôi). Tìm
câu thơ có nhiều cách hiểu, khó hiểu (đối với thơ).
- Đọc thầm từng câu, đánh dấu chỗ phân định ý như trong câu.
- Đọc to cả câu, thể hiện sự tách ý bằng những chỗ ngắt hơi. Hướng dẫn
học sinh nhận ra đoạn, ý của bài, tạo cơ sở để các em hiểu nội dung văn bản.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh: Nhận ra dấu hiệu, hình thức của đoạn. Để
nhận diện đoạn, ý trong văn bản, cần hướng dẫn học sinh chú ý:
+ Đối với tác phẩm tự sự mà các sự kiện được trình bày theo thời gian,
cần hướng dẫn học sinh thực hiện thao tác tìm hiểu các từ ngữ chỉ thời gian như:
9


sau đó, tiếp theo, cuối cùng, trước tiên, ngày xưa, một hôm, vào một buổi
sáng,... để tìm đoạn ý.
+ Đối với tác phẩm trữ tình, học sinh cần căn cứ vào các câu văn, câu
thơ có sự chuyển đổi cảm xúc, tâm trạng để xác định đoạn, ý.
e. Giải pháp thứ 6: Hướng dẫn học sinh làm rõ nội dung câu, đoạn.
* Làm rõ nghĩa của câu: Cần hướng dẫn học sinh làm các công việc:
- Xác định các bộ phận chính, bộ phận phụ của câu, nhất là những câu
dài, những câu ghép, những câu đảo cú pháp, những câu có cấu trúc ngữ pháp
phức tạp mà học sinh không dễ dàng nhận ra các quan hệ ngữ pháp.
- Xác định câu đó tác giả nói về ai? Về cái gì? Về việc gì?
- Đặc biệt với những câu có ẩn ý, cần hướng dẫn học sinh tìm ra nghĩa
hàm ẩn, hàm ngôn chứa trong câu. Để hiểu được những câu này, cần hướng dẫn
học sinh tìm được những mối liên hệ bên trong của văn bản để hiểu ý nghĩa hàm
ẩn của nó chứ không phải chỉ có ý nghĩa biểu hiện.
- Một thao tác có tác dụng giúp học sinh hiểu nghĩa câu là thao tác đọc
diễn cảm câu (ngắt giọng chỗ cần tách ý; nhấn giọng ở những từ ngữ mang tính

chất thông báo; lên giọng, xuống giọng, kéo dài giọng để thể hiện tình cảm, cảm
xúc của tác giả). Nhờ sự hỗ trợ của âm thanh diễn ý, diễn cảm, học sinh có thể
hiểu sâu sắc thêm ý nghĩa của câu.
* Làm rõ nghĩa đoạn, ý:
- Ở những bài có phân đoạn, đoạn là yếu tố trực tiếp cấu tạo thành bài.
Để hiểu bài phải hiểu đoạn. Để hiểu đoạn, phải xác định được kiểu cấu trúc của
đoạn. Vì nếu xác định được cấu trúc của đoạn ta sẽ tìm ra được câu quan trọng,
câu chủ đề trong đoạn.
- Hướng dẫn học sinh đọc câu chủ đề, tiếp theo các em phải diễn đạt
nội dung của câu chủ đề bằng lời mình chứ không phải đọc nguyên văn cả câu.
- Hướng dẫn học sinh biết đặt tên cho đoạn. Đây chính là một thao tác
tưởng tượng, thao tác rất khó đối với học sinh Tiểu học. Vì đa số học sinh chỉ
biết đọc lại nguyên văn văn bản mà không biết diễn đạt theo một cách khác bằng
lời của mình (tức là chưa biết đọc sáng tạo). Học sinh chưa có kĩ năng tách ý ra
khỏi lời, chưa biết đi từ lời rút ra ý. Vì vậy giáo viên phải luyện tập cho học sinh
rất kĩ kĩ năng tổng hợp khi luyện đọc hiểu.
- Đọc hay (diễn cảm) cũng là một thao tác giúp học sinh hiểu sâu sắc
hơn ý của đoạn. Lúc này, nhờ âm thanh, các ý tình của tác phẩm sẽ được vang
lên, học sinh sẽ hứng thú hơn với nội dung của đoạn và hiểu đoạn để muốn biểu
đạt điều gì. Nhờ biết đọc hay (diễn cảm), học sinh sẽ hiểu sâu sắc hơn và cảm
nhận được nhiều điều tinh tế của văn bản.
* Khi dạy đọc hiểu văn bản khoa học, cần hướng dẫn học sinh:
- Phân tích, liệt kê các sự kiện chính có trong đoạn.
- Xác định mối quan hệ giữa các sự kiện nêu trong đoạn, cần chú ý các từ
ngữ liên kết câu trong đoạn.
- Tóm tắt đoạn thành một hoặc một vài câu, có thể đặt tên cho đoạn.
* Để làm rõ ý của một đoạn trong văn bản tự sự, cần luyện cho học sinh
thao tác:
- Gọi tên người, vật, tên sự việc được nêu trong đoạn.
10



- Phân tích để làm rõ người, vật hoặc sự vật đó được trình bày ở những
mặt nào? Sự trình bày đó nhằm mục đích gì?
- Đọc hay (diễn cảm) toàn đoạn.
- Tổng hợp các kết quả của sự phân tích trên thành ý chung của đoạn và
phát biểu ý chung này thành lời.
* Để tìm ý chung cho một đoạn văn, một khổ thơ trữ tình, giáo viên
cần hướng dẫn học sinh làm những việc sau:
- Tìm các câu, đoạn trong đoạn văn, khổ thơ cùng thể hiện cảm xúc của
tác giả về một đối tượng nào đó rồi nhóm chúng lại thành từng nhóm. Sau đó,
đọc diễn cảm từng câu đã tìm được. Xác định mục đích chung của việc thể hiện
cảm xúc ở các nhóm câu nói trên.
Ví dụ: Nhóm câu để bộc lộ cảm xúc để bày tỏ tình yêu những vẻ đẹp của
quê hương; nhóm câu bộc lộ cảm xúc để bày tỏ tình yêu những con người trên
quê hương. Phát biểu thành lời mục đích trên. Đây chính là ý chính của đoạn.
g. Giải pháp thứ 7: Hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung chính của bài đọc.
Từ phạm vi những nội dung cần tìm hiểu các văn bản văn chương khác
nhau, có thể tìm hiểu nội dung, ý nghĩa bài đọc bằng cách:
- Hướng dẫn học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa để
giúp học sinh tái hiện nội dung bài đọc (câu hỏi tái hiện), sau đó mới đặt ra
những câu hỏi giúp các em nắm được những vấn đề mang tính chất tư duy sâu
hơn như ý nghĩa, nội dung của bài đọc, thái độ của tác giả, tính cách nhân vật
(câu hỏi suy luận). Ngoài hệ thống câu hỏi và bài tập phần tìm hiểu bài trong
sách giáo khoa (phần cứng), thì giáo viên có thể linh động đưa thêm một số câu
hỏi gợi mở, dẫn dắt (phần mềm) chính xác, sát thực, đúng trọng tâm bài đọc,
phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để nâng dần mức độ cảm thụ văn
học cho các em. Thông qua các hình thức dạy học đa dạng: Cá nhân, nhóm, lớp
thảo luận rồi báo cáo kết quả. Làm sao mỗi học sinh đều được làm việc, đều
được suy nghĩ để tự nắm được nội dung, kiến thức bài đọc.

- Trong quá trình tìm hiểu bài, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh
cách trả lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu văn ngắn gọn, rõ ràng bằng ngôn ngữ
của mình, không trình bày nguyên vẹn lại câu văn, câu thơ trong sách. Việc làm
này sẽ tích cực hóa được hoạt động của học sinh khi đọc hiểu văn bản, phát triển
ở các em năng lực sáng tạo bằng các câu hỏi: Em hiểu điều đó như thế nào? Em
cảm nhận được điều gì? Em có tình cảm gì sau khi đọc? Sau khi học sinh nêu ý
kiến, học sinh khác bổ sung, nhận xét; giáo viên nên tiểu kết để khắc sâu, nhấn
mạnh ý chính và ghi bảng nếu thấy cần thiết.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ’ của
Nguyễn Khoa Điềm ( TVL4, tập 2). Giáo viên có thể đặt câu hỏi: ? Hình ảnh nào
trong bài nói lên tình yêu thương và niềm hy vọng của mẹ đối với con? Giáo
viên tổ chức dẫn dắt để học sinh chủ động tìm ra những hình ảnh đẹp trong các
câu thơ “ Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”: “ Mặt trời của mẹ, em nằm trên
lưng”, và người mẹ hy vọng: “ Mai sau con lớn vung chày lún sân”…
Sau đó giáo viên tiếp tục đặt câu hỏi: ? Cái đẹp thể hiện trong bài thơ này là
gì? Giáo viên dẫn dắt học sinh trả lời theo suy nghĩ riêng của cá nhân mỗi học
11


sinh, không gò ép, sau đó giáo viên nhận xét khái quát: Cái đẹp trong bài thơ là
lòng yêu nước thiết tha và tình thương con vô bờ của người mẹ.
h. Giải pháp thứ 8: Rèn kĩ năng hồi đáp văn bản cho học sinh
Đây là kĩ năng giữ vai trò hoàn thiện quá trình đọc hiểu. Rèn kĩ năng hồi
đáp văn bản sẽ tạo cho học sinh khả năng chủ động và sáng tạo trong việc lĩnh
hội văn bản, từ đó hình thành cho các em tư duy phê phán và tư duy sáng tạo.
Thông thường, giáo viên thực hiện hướng dẫn rèn kĩ năng này thông qua tiết ôn
luyện vào buổi học thứ hai bằng các công việc sau:
- Nêu những thu hoạch của bản thân học sinh về hiểu biết, về thái độ, về
hành động sau khi đọc văn bản.
- Nêu một vài dự kiến thực hiện điều mà bài đọc gợi ra hoặc yêu cầu.

2.4. Kết quả đạt được
Trải qua một quá trình chỉ đạo giáo viên, các tổ khối chuyên môn trong
việc tổ chức các hình thức, phương pháp dạy học rèn kỹ năng đọc hiểu cho học
sinh qua phân môn này như đã trình bày trên. Kĩ năng đọc hiểu của học sinh
được nâng cao rõ rệt. Rất nhiều em tỏ ra biết làm chủ văn bản được đọc, được
học. Các em nắm chắc nội dung bài bằng rất nhiều cách khác nhau, đáng mừng
là trong đó có rất nhiều ý phát biểu sáng tạo, trả lời câu hỏi, diễn đạt ý bằng câu
văn ngắn gọn, rõ ràng bằng ngôn ngữ của mình, không trình bày nguyên vẹn lại
câu văn, câu thơ trong sách. Nhiều em đọc và thể hiện cảm xúc rất “thật”, từ đó
kĩ năng đọc hay diễn cảm cũng được nâng lên. Các em biết làm chủ ngữ điệu,
biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm của tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, biểu hiện
được sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Kỹ năng đọc hiểu
trong phân môn Tập đọc của học sinh trường Tiểu học Hoằng Trung qua kiểm
nghiệm cụ thể như sau:
* Kết quả khảo sát cuối học kỳ I:
TT Lớp
1
2
3
4

4A
4B
5A
5B

Sĩ Số

HS đọc hiểu


Học sinh đọc hiểu

HS đọc hiểu

HS
36
36
27
28

HTT
13 em = 36,1%
12 em = 33,3%
6 em = 22,2%
15 em = 53,5

HT
18 em = 50,0%
18 em= 50,0%
15 em= 53,6%
12 em = 42,9%

CHT
5 em = 13,9%
6 em = 16,7%
6 em = 22,2%
1 em = 3,6%

HS đọc hiểu


HS đọc hiểu

* Kết quả khảo sát cuối học kỳ II:
TT

Lớp

Sĩ Số

HS đọc hiểu

12


1
2
3
4

4A
4B
5A
5B

HS
36
36
27
28


HTT
24 em = 66,7%
22 em = 61,1%
12 em = 44,4%
23 em = 82,1%

HT
12 em = 33,3%
14 em= 38,9%
13 em= 55,6%
5 em = 17,9%

CHT
0
0
0
0

Qua thực tế kiểm nghiệm sư phạm đã tổng hợp trong bảng thống kê trên cho
thấy sự chuyển biến rõ rệt của học sinh khối lớp 4-5 trong việc rèn kỹ năng đọc
hiểu qua phân môn Tập đọc. Điều đó chứng tỏ các em rất hứng thú học tập môn
Tập đọc, đã tự hình thành được thói quen có ý thức tập trung, tự giác trong học
tập. Từ đó, có thể khẳng định rằng: Nếu người giáo viên biết vận dụng một cách
triệt để các biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu cho học sinh lớp 4-5 một cách khoa
học sẽ nâng cao được chất lượng đọc hiểu cho học sinh, giúp các em cảm thụ
được cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn chương.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Tập đọc là một phân môn chiếm nhiều thời lượng trong chương trình
Tiếng Việt ở bậc Tiểu học. Đây là một phân môn được nhiều giáo viên quan tâm

và băn khoăn trăn trở trong quá trình giảng dạy. Việc rèn kỹ năng đọc hiểu cho
học sinh là cả một quá trình lâu dài và rất cần thiết không thể thiếu trong quá
trình dạy - học. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, kiên trì,
nhẫn nại không nóng vội. Phải thật yêu nghề, tận tâm, tận tụy hết lòng vì học
sinh. Phải luôn quan tâm, cận kề với học sinh kể lúc các em đúng cũng như khi
các em sai. Bởi lẽ, đọc hiểu phụ thuộc vào quá trình nhận thức của mỗi học sinh.
Có những học sinh tiến bộ ngay sau vài tuần, nhưng cũng có những học sinh sự
tiến bộ diễn ra rất chậm, thậm chí cả một học kỳ giáo viên mới nhận thấy được.
Nếu giáo viên không kiên nhẫn, nôn nóng thì chắc chắn sẽ thất bại. Mặt khác
giáo viên phải luôn luôn trau dồi kiến thức, tham khảo tài liệu. học hỏi trên sách
vở, báo đài, thông tin đại chúng. Học hỏi ở đông nghiệp thông qua các tiết dự
giờ thao giảng, dự giờ rút kinh nghiệm… Chắt lọc những phương pháp hay nhất,
những kinh nghiệm hữu hiệu nhất truyền thụ đến học sinh, bởi vì: “ Ở đâu có
thầy giỏi, ở đó có trò giỏi”.
Là một Hiệu trưởng nhà trường, đã kinh qua nhiều năm chỉ đạo, quản lý
hoạt động giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, tôi nhận thấy để giờ
dạy Tập đọc diễn ra nhẹ nhàng, thoải mái và hiệu quả thì giáo viên cần chú ý
những nội dung sau đây:
- Giáo viên phải nắm vững nội dung, chương trình, sách giáo khoa, đặc
trưng bộ môn, cần có sự lựa chọn phương pháp dạy học ở phần kỹ năng dạy đọc
hiểu sao cho phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp. Phải luôn đổi mới
phương pháp và hình thức dạy học để tạo sự hứng thú ham học cho học sinh.
Luôn động viên, nhắc nhở, khen ngợi kịp thời mọi sự tiến bộ của học sinh. Đánh
giá học sinh một cách công bằng, khách quan.
- Giáo viên phải tự rèn luyện để có giọng đọc chuẩn, lôi cuốn được học
sinh hứng thú say mê học các giờ Tập đọc.
13


- Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài một cách kỹ càng thông qua

hệ thống câu hỏi gợi mở để các em chủ động tìm ra, chủ động cảm nhận được
cái hay cái đẹp của nội dung các văn bản.
- Trong quá trình dạy, giáo viên phải luôn lấy học sinh làm trung tâm, tạo
hứng thú học tập cho các em và tạo điều kiện cho học sinh tự tìm ra kiến thức,
thể hiện những ý kiến, suy nghĩ của các em một cách độc lập, sáng tạo và giáo
viên luôn giám sát, kiểm tra… Từ đó phát hiện ra những khó khăn, vướng mắc
hoặc hững hạn chế của các em trong việc cảm nhận và tiếp thu nội dung các bài
tập đọc để kịp thời uốn nắn, hướng dẫn. Tạo tiền đề kiến thức cho học sinh có
thể học tốt phân môn Tập làm văn ở trường Tiểu học và sau này học lên Trung
học cơ sở và các bậc học cao hơn.
- Biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu phải được thực hiện thường xuyên, liên
tục ở tất cả các môn học, vì các môn học đều có liên quan, bổ sung cho nhau.
Bởi lẽ, có hiểu nội dung các em mới có kỹ năng tìm hiểu đề ở tất cả các môn học
giúp các em hoàn thành nội dung kiến thức các môn học một cách chính xác…
Mà trong đó, phân môn Tập đọc giữ vai trò chủ đạo.
- Phải biết kết hợp các biện pháp, phương pháp một cách khéo léo, phù
hợp, phát huy hết khả năng sáng tạo của học sinh.
- Người giáo viên phải nắm được các đặc điểm của học sinh, hình dung,
thấy hết những khó khăn của các em khi học đọc, đặc biệt là học kĩ năng đọc
hiểu để bình tĩnh trước những sai sót của các em khi đọc, không ca thán trước
những lỗi của các em.
- Giáo viên phải biết thu hút học sinh, tạo hứng thú học tập cho các em
trong mọi hoạt động học tập.
- Trong mỗi giờ dạy, để học sinh hình thành được kĩ năng, năng lực đọc
hiểu tốt thì giáo viên phải dạy đọc hiểu có định hướng, có mục tiêu và kế hoạch
dạy học rõ ràng. Điều quan trọng là phải xác định được nội dung đọc hiểu:
Trước hết phải thực hiện tốt kĩ năng đọc thành tiếng, kết hợp và tìm hiểu từ, ngữ
trong bài, tìm được từ “chìa khóa” trong bài. Tóm tắt được nội dung của đoạn,
bài, phát hiện ra những yếu tố văn chương và giá trị của chúng trong việc biểu
đạt nội dung.

3.2. Kiến nghị.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo nên mở nhiều hơn nữa các lớp chuyên đề
bồi dưỡng về năng lực chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và lý luận về đổi mới
phương pháp dạy học cấp huyện cho giáo viên Tiểu học.
- Các cấp có thẩm quyền tạo điều kiện đầu tư thêm trang thiết bị dạy học
cho các nhà trường, đủ để mỗi phòng học có một máy chiếu đa năng phục vụ
cho giáo viên dạy giáo án điện tử một cách thường xuyên, liên tục.
Xuất phát từ thực tế việc chỉ đạo hoạt động dạy học của người làm công tác
quản lý nhà trường, tôi xin trao đổi một vài biện pháp rèn kỹ năng đọc hiểu qua
phân môn Tập đọc lớp 4-5 ở trường Tiểu học bước đầu có hiệu quả. Chắc chắn
bài viết không tránh khỏi những hạn chế, rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến quý báu của đồng nghiệp để việc chỉ đạo chuyên môn trong việc dạy đọc
hiểu ở phân môn Tập đọc trong trường Tiểu học ngày một đạt kết quả cao hơn./.
Xin chân thành cảm ơn!
14


XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh hóa, ngày 04 tháng 5 năm
2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.

Đỗ Thị Năm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dạy Tập đọc ở Tiểu học- Lê Phương Nga- Nhà xuất bản Giáo dục năm 2001.
2. Dạy học đọc hiểu ở Tiểu học- Nguyễn Thị Hạnh- Nhà xuất bản Đại học Quốc

Gia Hà nội năm 2002.
15


3. Luyện tập về cảm thụ văn học ở Tiểu học- Trần Mạnh Hưởng- Nhà xuất bản
Giáo dục năm 2011.
4. Tạp chí Giáo dục Tiểu học
5. Chuyên đề Thế Giới trong ta
6. SGV Tiếng Việt 4 (T1,2-NXB GD)
7. SGK Tiếng Việt 4(T1,2-NXB GD)
8. SGV Tiếng Việt 5 (T1,2-NXB GD)
9. SGK Tiếng Việt 5(T1,2-NXB GD)

16



×