Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Sử dụng sơ đồ tư duy để dạy học có hiệu quả các tiết ôn tập, tổng kết trong chương trình ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (656.4 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

I. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG :
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Lý do khách quan

Trang
1
1
3
3
3
4
4
4
6


16
17
17
17
19


Định hướng đổi mới phương pháp dạy học hiện nay là tích cực hoá hoạt
động học tập của học sinh, làm cho người học trở thành chủ thể tích cực trong
hoạt động học tập của chính họ. Để phát huy được tính tích cực của học sinh,
cần tạo điều kin để các em được suy nghĩ, làm việc và thảo luận nhiều hơn, được
phát biểu quan điểm của mình, được đưa ra những nhận xét về vấn đề đang bàn
luận,....trong quá trình học tập để tự chiếm lĩnh tri thức.
Trên thực tế nghiên cứu các phương pháp, kĩ thuật dạy học theo hướng đổi
mới cho thấy sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh
để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Việc sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) là một
cách học giúp học sinh phát huy tối đa năng lực tư duy logic của học sinh, giúp
các em có thể chiếm lĩnh tri thức một cách nhanh, sâu sắc nhất, tự ý thức nhất.
Đây là một phương pháp học tập tích cực, giúp cho cả người học và người dạy
giảm tải được cách ghi nhớ máy móc mà thiên về suy nghĩ chiều sâu của trí óc,
cách học này lưu giữ kiến thức được lâu hơn.
Thông thường chúng ta thường ghi chép thông tin bằng các ký tự, đường
thẳng, con số. Với cách ghi chép này, chúng ta mới chỉ sử dụng một nửa của bộ
não - não trái, mà chưa sử dụng kỹ năng bên não phải, nơi giúp chúng ta xử lý
các thông tin về nhịp điệu, màu sắc, không gian ... và cách ghi chép thông
thường khó nhìn được tổng thể của cả vấn đề. Còn sơ đồ tư duy có cấu tạo như
một cái cây có nhiều nhánh lớn, nhỏ mọc xung quanh. “Cái cây” ở giữa bản đồ
là một ý tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn thể
hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn sẽ được phân thành
nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở

mức độ sâu hơn. Sự phân nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn
được nối kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả ý
tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ rang, có nhiều màu sắc hấp dẫn.
Qua nghiên cứu và thực nghiệm giảng dạy cho thấy một số giáo viên còn
gặp khó khăn trong việc tổ chức hoạt động dạy học trên lớp với việc thiết kế và
sử dụng SĐTD. Đề tài này sẽ đưa ra một số gợi ý giúp giáo viên sử dụng SĐTD
vào dạy học các bài ôn tập tiếng việt, tổng kết văn bản trong bộ môn Ngữ văn 9
để giải quyết khó khăn trên.
1.2.Lý do chủ quan
Việc học văn trong nhà trường hiện nay là một vấn đề vô cùng bức thiết.
Các em dường như không thiết tha lắm với việc học bộ môn này. Về mặt khách
quan cho thấy, học các bộ môn xã hội khi tốt nghiệp THPT, thi đại học các em
khó chọn trường, đồng thời khi ra trường thì rất khó xin việc. Về mặt chủ quan
chúng ta cũng nhận thấy rằng các em ngại học văn vì phải đọc nhiều, viết nhiều
và đôi khi câu chữ trong văn chương đa nghĩa, phức tạp khiến người học khó
tiếp cận. Vì vậy, vai trò của người thầy dạy văn trong nhà trường rất quan trọng.
2


Người thầy phải truyền được niềm say mê học văn cho học sinh khiến mỗi giờ
học văn là mỗi giờ các em được trải nghiệm mình, được học tập chiếm lĩnh tri
thức, được sáng tạo.... Nhưng một thực tế cho thấy, không phải ở giờ học văn
nào, học sinh cũng được đón nhận lòng yêu nghề, nhiệt huyết với bài dạy và
cách khai thác kiến thức bài học đúng đắn của thầy cô. Có những giờ văn, giáo
viên dạy còn nặng nề về lí thuyết, áp đặt kiến thức hoặc truyền đạt nội dung văn
bản mờ nhạt. Giáo viên chưa thực sự sáng tạo, đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng tích cực lấy học sinh là trung tâm, hướng dẫn cho các em tự chiếm
lĩnh tri thức bằng các kĩ thuật, phương pháp dạy học mang tính chất phát huy
tính chủ động, sáng tạo của người học. Bên cạnh đó, trong quá trình dạy học bộ
môn Ngữ văn ở THCS, bản thân tôi nhận thấy nhiều học sinh chưa biết cách

học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một
cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm
được “sự kiện nổi bật” trong tài liệu đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các
kiến thức có liên quan với nhau.
Thấm thía được những trở ngại trên của việc dạy văn trong nhà trường phổ
thông, bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn này, tôi cảm thấy
rất trăn trở và quyết tâm tìm ra phương pháp dạy học văn, tạo sự hứng thú, lòng
say mê học tập của học sinh. Trong quá trình giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong
nhà trường THCS, tôi mạnh dạn áp dụng những phương pháp, kĩ thuật dạy học
tích cực vào bài học để phát huy tối đa hoạt động tích cực của học sinh và nâng
cao chất lượng dạy học bộ môn văn ở từng khối lớp do mình đảm nhận. Một
trong những phương pháp dạy học theo hướng đổi mới tích cực hiện nay mà tôi
nhận thấy rất bổ ích, lí thú đó là sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD).
Nhìn chung, đây là một trong những phương pháp dạy học kích thích được
sự sáng tạo, sự hứng thú cho người học. Các em sẽ có cơ hội để phát huy tư duy
độc lập sáng tạo của mình trong việc hình thành kiến thức bài học hoặc tổng kết,
khái quát kiến thức của một bài học, một chương, hệ thống một chủ đề. Thực
hiện thành công phương pháp dạy học theo hướng đổi mới tích cực này, tôi thiết
nghĩ học sinh sẽ có hứng thú khi học bộ môn Ngữ Văn, nâng cao hiệu quả dạy
và học bộ môn này trong nhà trường THCS.
Đề tài “Sử dụng sơ đồ tư duy để dạy học có hiệu quả các tiết ôn tập,
tổng kết trong chương trình Ngữ Văn 9” là quá trình thực nghiệm thành công
phương pháp dạy học theo hướng đổi mới, tích cực để nâng cao hiệu quả, chất
lượng dạy và học của cá nhân tôi.Tuy nhiên trong phạm vi hạn hẹp dung lượng
của đề tài sáng kiến kinh nghiệm, tôi xin được chia sẻ với đồng nghiệp về việc
sử dụng sơ đồ tư duy một cách hiệu quả trong một số tiết ôn tập, khái quát của
chương trình Ngữ văn lớp 9.
2. Mục đích nghiên cứu:
3



Đối với các tiết ôn tập Ngữ văn 9, lượng kiến thức nhiều khó nắm bắt. Vì
vậy nếu vận dụng SĐTD sẽ xác đinh được kiến thức trọng tâm, ôn tập và ghi
nhớ nhanh hơn, thấy rõ mối quan hệ tương hỗ giữa các ý, các phần trong bài học
3. Đối tượng nghiên cứu:
Khi tiến hành đề tài tôi đã dựa trên tình hình giảng dạy và học tập thực tế của
giáo viên và học sinh trong nhà trường THCS Nhữ Bá Sỹ huyện Hoằng Hóa. Từ
đó, đưa ra những cách thức, phương pháp về vấn đề hướng dẫn cho đối tượng học
sinh đại trà nắm vững kiến thức cơ bản một cách chắc chắn, dễ hiểu, dễ nhớ và
không còn cảm giác “sợ” đối với bộ môn Ngữ văn.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp tra cứu tài liệu
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế
- Phương pháp tổng hợp.

II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận
4


Sơ đồ tư duy (SĐTD) còn gọi là lược đồ tư duy. Đây là hình thức ghi chép
nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một
mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường
nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở,
không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí, có thể vẽ thêm hoặc bớt
các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm
từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể trình bày nó
dưới dạng SĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập SĐTD phát huy được tối
đa khả năng sáng tạo của mỗi người.

SĐTD giúp học sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu
của các nhà khoa học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in
đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình.
Vì vậy sử dụng SĐTD giúp học sinh huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc học sinh trực tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn
phát triển khiếu thẩm mĩ, óc hội họa, lại vừa phát huy được tối đa khả năng sáng
tạo của các em trong học tập, không rập khuôn một cách máy móc như khi lập
các bảng biểu, sơ đồ, vì các em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng
riêng của mình. Vì thế, tạo một không khí sôi nổi, hào hứng, say mê cho học
sinh trong học tập. Đây cũng là một trong những nội dung quan trọng của phong
trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
GD&ĐT đang triển khai thực hiện.
Qua trên, chúng ta nhận thấy rằng việc sử dụng SĐTD vào quá trình dạy
học là một điều cần thiết và bổ ích. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và
thực nghiệm giảng dạy cho thấy một số giáo viên còn gặp khó khăn trong việc tổ
chức hoạt động dạy học trên lớp với việc thiết kế và sử dụng SĐTD. Đề tài này
tôi xin được chia sẻ khó khăn với đồng nghiệp và mạnh dạn bày tỏ một vài kinh
nghiệm nhỏ về việc sử dụng SĐTD có hiệu quả cao trong dạy các bài ôn tập,
tổng kết kiến thức của các bài học trong chương trình Ngữ văn 9.
2.Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
Một thực tế cho thấy, sơ đồ tư duy (SĐTD) là hình thức giúp học sinh học
được phương pháp học tập chủ động, tích cực. Bởi vì, hiện nay tình trạng học
sinh có xu hướng không thích học môn Ngữ văn hoặc ngại học môn Ngữ văn do
đặc trưng môn học thường phải ghi chép nhiều, khó nhớ. Điều này xuất hiện
nhiều ở các cấp học tại các trường phổ thông trong cả nước. Bên cạnh đó, một
số em học tập chăm chỉ nhưng thành tích học tập chưa cao. Các em thường học
bài nào biết bài nấy, học phần sau không biết liên hệ với phần trước, không biết
hệ thồng kiến thức, liên kết kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức
đã học trước vào bài học sau. Hoặc để tự mình chiếm lĩnh tri thức thì các em còn
tỏ ra rất lúng túng. Do đó, việc sử dụng thành thạo SĐTD trong dạy học, sẽ giúp

5


học sinh có được phương pháp học tập tích cực, tăng tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy. Bởi vì, SĐTD giúp học sinh huy động tối đa tiềm
năng của bộ não. Việc học sinh vẽ SĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng
tạo của học sinh, các em được tự do chọn màu sắc ( xanh, đỏ, tím, vàng…),
đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong..), các em tự sáng tạo trong quá trình thiết lập
mô hình để trình bày kiến thức bài học nên trên mỗi SĐTD thể hiện rõ cách
hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và SĐTD do các em tự thiết kế
nên các em sẽ yêu quý, trân trọng sản phẩm trí tuệ của mình.
Trong quá trình dạy học các bài ôn tập, tổng kết trong chương trình Ngữ
văn 9 rất cần đến việc sử dụng SĐTD, vì đây là chương trình cuối cấp học
THCS. Hầu hết các bài ôn tập, tổng kết đều có tính chất khái quát lại cả một hệ
thống chương trình, đơn vị kiến thức của các phân môn: Văn bản, Tiếng việt,
Tập làm văn của các lớp 6,7,8 và lớp 9. Trong các tiết học này, giáo viên hướng
dẫn tốt cho học sinh học bài theo phương pháp vẽ SĐTD để ôn tập, tổng kết kiến
thức thì hiệu quả dạy học sẽ rất tốt. Vì đây là một phương pháp học tập tích cực,
giúp cho cả người học và người dạy giảm tải được cách ghi nhớ máy móc mà
thiên về suy nghĩ chiều sâu của trí óc, cách học này lưu giữ kiến thức được lâu
hơn. Đồng thời học sinh sẽ tự giác, tích cực hoạt động để tự ôn tập, nắm vững
kiến thức đã học, nhờ đó mà việc chiếm lĩnh và lưu giữ kiến thức bài học sẽ
được lâu hơn. Hơn thế nữa,các tiết ôn tập trong chương trình Ngữ văn 9 có
những bài phân phối chương trình chỉ cho thời lượng là một tiết kiến thức thì
quá nhiều (ví dụ: tiết 129: Ôn tập thơ), vì vậy nếu giáo viên không hướng dẫn
học sinh ôn tập trước và soạn bài kĩ lưỡng bài ở nhà thì tiết học sẽ không thành
công. Ở các tiết học như thế, việc vận dụng SĐTD vào quá trình dạy học là một
phương pháp dạy học đạt được kết quả khả quan nhất.
Khi dạy học các tiết tổng kết, ôn tập trong chương trình ngữ văn 9 ở các lớp
tại Trường THCS Nhữ Bá Sỹ bản thân tôi nhận thấy rằng nhiều tiết dạy theo

phương pháp truyền thống giáo viên không thể truyền tải được tất cả các đơn vị
kiến thức bài học (rơi vào tình trạng cháy giáo án). Còn đối với học sinh, vì
dung lượng kiến thức của bài ôn tập, tổng kết nhiều mà việc xâu chuỗi lô gíc các
bài học trước đó ở các phân môn Ngữ văn (tiếng Việt, Văn bản, Tập làm văn) ở
các em rất hạn chế. Thông thường các em học bài nào biết bài ấy, việc lưu giữ
kiến thức không bền cho nên đến bài học ôn tập, tổng kết một phần, một chương
hay một chủ đề…các em thường sử dụng tài liệu để chép. Do đó đến lớp, các em
rơi vào tình trạng tiếp thu bài học một cách thụ động, học đối phó, không nắm
vững được nội dung kiến thức bài học. Như vậy, hiệu quả dạy học sẽ không cao;
đồng thời không thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới trong giáo dục hiện nay.
Qua những cơ sở thực tế trên, bản thân tôi nhận thức rằng việc vận dụng
SĐTD vào trong quá trình dạy học là một trong những phương pháp phát huy tối
6


ưu vai trò của người học để chiếm lĩnh tri thức theo một trình tự tư duy lô gíc,
phát triển trí thông minh, khả năng sáng tạo đặc biệt là trong các tiết học ôn tập,
tổng kết.
3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
3.1.Các giải pháp thực hiện:
Để thực hiện đề tài này, tôi đã tiến hành một số giải pháp như sau:
1.1 Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ vai trò, tác dụng, tiện ích của việc sử dụng
sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn.
1.2 Giáo viên giúp học sinh nhận thức được sự khác nhau giữa tư duy truyền
thống và tư duy bằng sơ đồ.
1.3 Giáo viên hướng dẫn học sinh các thao tác thiết kế sơ đồ tư duy và những
điều cần tránh khi vẽ SĐTD.
1.4 Một số tiết ôn tập, tổng kết trong chương trình ngữ văn 9 sử dụng sơ đồ tư
duy vào quá trình đạt hiệu quả.
3.2.Các biện pháp tổ chức thực hiện:

Trên cơ sở bốn giải pháp mà tôi đã đưa ra ở phần I, tôi sẽ tiến hành các biện
pháp tổ chức cụ thể sau:
Biện pháp tổ chức 1: Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ vai trò, tác dụng, tiện
ích của việc sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học Ngữ Văn.
Sơ đồ tư duy (SĐTD) là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng
một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức. SĐTD giúp học
sinh học tập một cách tích cực. Một số kết quả nghiên cứu của các nhà khoa
học cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do
chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy sử dụng
SĐTD giúp học sinh huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Việc học sinh trực
tiếp vẽ SĐTD vừa lôi cuốn, hấp dẫn các em, đồng thời còn phát triển khiếu thẩm
mĩ, óc hội họa, vừa phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của các em trong học
tập, không rập khuôn một cách máy móc như khi lập các bảng biểu, sơ đồ, vì các
em dễ dàng vẽ thêm các nhánh để phát triển ý tưởng riêng của mình.
SĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các
nhánh). Do đó, chúng ta có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào tất cả các khâu trong
quá trình dạy học. Từ khâu kiểm tra bài cũ, đến khâu dạy học kiến thức mới, hay
khâu củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, rồi ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau
mỗi chương, mỗi học kì, kể cả việc kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút.
Sơ đồ tư duy, một công cụ có tính khả thi cao. Ta có thể vận dụng được với
bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay nói chung. Bởi vì
ta có thể thiết kế Sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, tờ lịch cũ, bảng phụ,… bằng cách
sử dụng bút chì màu, phấn màu, tẩy…hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm
Sơ đồ tư duy (Mind Map). Với những trường đủ điều kiện về cơ sở vật chất như
7


Máy chiếu Projecto, phòng máy vi tính đảm bảo, chúng ta có thể sử dụng phần
mềm (Mind Map) để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông
tin.

Rèn kuyện cho các em có thói quen và kĩ năng sử dụng thành thạo SĐTD
trong quá trình dạy học sẽ gúp học sinh có được phương pháp học tốt, phát huy
tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy.
Biện pháp tổ chức thực hiện 2: Giáo viên giúp học sinh nhận thức được sự
khác nhau giữa tư duy truyền thống và tư duy bằng sơ đồ:
Trong quá trình dạy học sinh vẽ SĐTD cho các bài học ôn tập, tổng kết;
giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh hiểu được sự khác nhau giữa tư duy
truyền thống và tư duy bằng sơ đồ, qua đó các em sẽ thấy được những tiện lợi
khi sử dụng SĐTD trong học tập để chiếm lĩnh tri thức. Cụ thể:
STT
Cách biểu hiện
Tư duy truyền thống Tư duy bằng sơ đồ
1
Đường nét
Thẳng
Nhiều loại
2
Màu sắc
Không

3
Ngôn ngữ
Nhiều
Chắt lọc (từ khoá)
4
Hình ảnh
Không

5
Không gian (định

Đơn hướng
Đa hướng
hướng phát triển)
Biện pháp tổ chức thực hiện 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh các thao tác
thiết kế sơ đồ tư duy và những điều cần tránh khi vẽ SĐTD:
a.Các thao tác thiết kế SĐTD:
Để có thể sử dụng tốt và phát huy một cách có hiệu quả SĐTD trong quá
trình dạy học, trước hết, chúng ta cần cho học sinh làm quen với một số sơ đồ tư
duy có sẵn, để chí ít các em có cái nhìn khái quát về nó (tiếp xúc nó, hiểu nó, rồi
nhìn theo bản vẽ để tập vẽ theo nó). Đây là bước chuẩn bị hết sức quan trọng, vì
các em chưa hình dung được SĐTD của bài học trong đầu mình cũng như chưa
biết cách thức, phương pháp vẽ. Chúng ta cần dành thời gian hợp lý cho các em
làm quen với SĐTD, theo cách sau đây:
Để tiết kiệm thời gian, giáo viên nên chọn thời gian thuận lợi ngay từ đầu
năm học tổ chức một buổi ngoại khóa “Làm quen với Sơ đồ tư duy” (vào tiết
sinh hoạt lớp) để giới thiệu, cho các em làm quen và hướng dẫn cách vẽ SĐTD
cho các em (đây cũng là một bước tạo không khí sôi nổi, lôi cuốn các em tiếp
cận với một phương pháp, kĩ thuật dạy học mới). Để buổi ngoại khóa thành
công, giáo viên cần chuẩn bị tốt các nội dung sau:
+ Về phía học sinh, giáo viên cần nhắc nhở các em mang theo đầy đủ các
dụng cụ: giấy vở, bìa lịch cũ, bìa cứng, bút chì, hộp màu, tẩy,...
+ Về phía giáo viên, cần chuẩn bị trước: phòng máy, máy chiếu, bảng phụ,
phấn màu, ... và một số SĐTD đã vẽ sẵn trên trên máy, trên giấy vở, trên bìa
8


lịch, trên bảng phụ... Sau đó, chúng ta bắt đầu tiến hành tổ chức nội dung theo
các bước sau:
Bước 1: Giúp học sinh làm quen với SĐTD:
-Trong giờ học, giáo viên giới thiệu một số SĐTD vẽ sẵn cho học sinh làm

quen (Nên chọn vẽ SĐTD ở những bài đã học trong chương trình cho các em
vừa tiện theo dõi, đồng thời vừa thuận lợi trong việc hệ thống hóa kiến thức, học
sinh sẽ nhanh tiếp thu hơn vì các em đã học). Giáo viên giới thiệu cấu trúc
SĐTD theo mạch kiến thức của bài học cho học sinh nắm, rồi hướng dẫn cách
vẽ một SĐTD ( Gv đã cung cấp cho các em phương pháp vẽ SĐTD trong quá
trình học tập chiếm lĩnh tri thức bài học).
Bước 2: Hướng dẫn học sinh đọc hiểu bản vẽ của SĐTD:
-Giáo viên chọn những SĐTD có kết cấu đơn giản cho học sinh quan sát.
Sau đó, cho các em dựa vào SĐTD để thuyết trình nội dung bài học (kiến thức)
được vẽ trong sơ đồ. ( Gv rèn luyện cho các em tư duy lô-gic, tư duy hệ thống và
kĩ năng thuyết trình SĐTD trước đám đông ).
Bước 3: Hướng dẫn học sinh tập vẽ SĐTD:
-Giáo viên đưa ra chủ đề bằng từ khóa (hoặc hình ảnh) ở trung tâm màn
hình (hoặc trên bảng phụ, giấy rô ki, bìa….). Ví dụ: Tổng kết từ vựng. Cho học
sinh thực hành vẽ SĐTD trên giấy hoặc bìa lịch hay bảng phụ.
-Giáo viên đặt các câu hỏi gợi ý để các em suy nghĩ và vẽ các nhánh cấp 1,
cấp 2, cấp 3... ( GV rèn luyện kĩ năng vẽ SĐTD cho học sinh).
Ví dụ:

Bước 4: Khuyến khích học sinh trang trí SĐTD:
-Khi các em đã vẽ xong mô hình cơ bản của SĐTD, giáo viên gợi ý cho các
em vẽ chèn thêm những hình ảnh cần thiết để minh họa cho nội dung của sơ đồ,
gợi ý cho các em chỉnh sửa đường nét, sử dụng màu sắc để phân biệt, làm nổi
9


bật mạng lưới các ý trong sơ đồ.(Kĩ năng hội họa - dấu ấn sáng tạo riêng của
học sinh trong bản vẽ SĐTD).
Bước 5: Chia sẻ kinh nghiệm trong quá trình thực hiện SĐTD:
-Giáo viên thu một số SĐTD các em vừa vẽ theo từng loại (Sơ đồ không

triển khai đủ các ý chính, sơ đồ vẽ quá chi tiết đến vụn vặt, sơ đồ vẽ không đúng
trọng tâm kiến thức, sơ đồ dùng quá nhiều hình ảnh, màu sắc lòe loẹt,... )
-Giáo viên cho học sinh quan sát, nhận xét, góp ý chỉnh sửa, bổ sung.
-Giáo viên lắng nghe, định hướng cho các em chỉnh sửa, bổ sung.
* Lưu ý:
+ SĐTD là một sơ đồ mở. Vì vậy, giáo viên cần tôn trọng và phát huy sự
sáng tạo của các em, bởi đây là “sản phẩm” của chính các em. Giáo viên chỉ
chỉnh sửa cho các em chủ yếu về mặt kiến thức. Mặt khác, giáo viên cũng cần
khuyến khích, biểu dương những SĐTD vẽ đảm bảo đầy đủ kiến thức trọng tâm,
đẹp, có cách trình bày khoa học, cân đối, hài hòa về đường nét, màu sắc.
+ Nếu thấy mất quá nhiều thời gian để tô đậm màu trong một nhánh, ta có
thể hướng dẫn thêm cho các em cách gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi
trong đó.
+ Giáo viên nhắc nhở thêm các em cần hình thành thói quen tốt: nên lập
SĐTD trong quá trình chuẩn bị bài mới ở nhà và lập lại sau khi học xong bài
trên lớp để có điều kiện đối chiếu xem mình đã làm được những gì? Những gì
mình còn sai sót cần bổ sung, sửa chữa. Nếu làm được như vậy, chẳng những
giúp các em nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện cho các em phát triển năng
lực tư duy (Tư duy lô-gic, tư duy hệ thống...) rất tốt.
+ Giáo viên nhắc các em sau mỗi bài học nên lưu các SĐTD lại để sau này
tiện việc ôn tập, hệ thống kiến thức vào một phong bì kiểm tra.
b. Giáo viên giúp học sinh nắm vững những điều cần tránh khi ghi chép
trên SĐTD:
Trong giờ học, khi hướng dẫn học sinh vẽ SĐTD, giáo viên phải giúp cho
các em nắm vững những điều cần tránh khi vẽ SĐTD, cụ thể:
-Ghi lại nguyên cả đoạn văn dài dòng trên các nhánh.
-Ghi chép quá nhiều ý vụn vặt không cần thiết trên SĐTD.
-Dành quá nhiều thời gian để ghi chép máy móc trên SĐTD.
-Tránh cầu kì ( tô vẽ nhiều quá) hoặc SĐTD đơn giản quá không có thông
tin, chỉ có các đề mục.

-Không vẽ quá chi tiết, cũng không vẽ quá sơ sài.
Biện pháp tổ chức thực hiện 4: Một số tiết ôn tập, tổng kết trong chương
trình ngữ văn 9 sử dụng sơ đồ tư duy vào quá trình đạt hiệu quả tốt:
Nhận thức được lợi thế của công cụ SĐTD vào việc lập kế hoạch dạy học,
hướng dẫn học sinh học tập bằng SĐTD ở 3 phân môn: Đọc hiểu văn bản, Tiếng
10


Việt và Làm văn đặc biệt là trong các tiết ôn tập, tổng kết trong chương trình
Ngữ văn 9, bản thân tôi đã thực hiện thành công các tiết dạy theo SĐTD. Dưới
đây là một số tiết dạy minh chứng cho việc dử dụng thành công SĐTD vào dạy
học có hiệu quả của bản thân tôi ở các lớp học 9C,9D trường THCS Nhữ Bá SỹTT Bút Sơn
a.Hướng dẫn cho học sinh học trên lớp theo mô hình vẽ SĐTD.
Tiết 73: Ôn tập Tiếng Việt.
A.Mục tiêu cần đạt:
1.Kiến thức:
-Củng cố một số nội dung của phần Tiếng Việt đã học ở học kì I:
+Các phương châm hội thoại.
+Xưng hô trong hội thoại.
+Lời dẫn trực tiếp và lời dẫn gián tiếp.
2.Kĩ năng:
Khái quát một số kiến thức Tiếng Việt đã học về phương châm hội thoại, xưng
hô trong hội thoại, lời dẫn trực tiếp và dẫn gián tiếp.
3.Thái độ:
Nâng cao ý thức tự giác trong học tập.
B.Chuẩn bị của thầy và trò:
1.Đối với giáo viên:
-Soạn bài theo chuẩn kiến thức kĩ năng.
-Chuẩn bị bài học: Vẽ sơ đồ tư duy hoàn thiện để học sinh theo dõi, điều chỉnh
thiếu sót.

-Sử dụng máy chiếu trong bài học.
-Kết hợp thuyết minh với sơ đồ tư duy để dạy học bài ôn tập.
2.Học sinh:
-Soạn bài trước khi đến lớp.
-Chuẩn bị giấy rô ki, bút màu để vẽ sơ đồ tư duy.
C.Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học:
I.Hoạt động khởi động:
1.Ổn định tổ chức lớp.
2.Kiểm tra bài cũ: Giáo viên kiểm tra phần chuẩn bị bài của học sinh.
II. Bài mới: Giáo viên giới thiệu bài.
Hoạt động của giáo viên và học sinh
Hoạt động 1:
Sau khi giới thiệu bài mới, giáo viên ghi cum
từ trung tâm “ÔN TẬP TIẾNG VIỆT” lên giữa
bảng đen. Sau đó, dẫn dắt học sinh lần lượt đi

Nội dung cần đạt
I.Ôn tập phần lí thuyết:
1.Các phương châm hội thoại.
2.Xưng hô trong hội thoại.
3.Cách dẫn trực tiếp, dẫn gián
11


vào tìm hiểu các nội dung ôn tập theo trình tự tiếp.
SGK. Bắt đầu với việc hệ thống, củng cố kiến
thức lý thuyết thông qua các câu hỏi:
?Chúng ta đã học qua những phương châm hội
thoại nào? Em hãy nhắc lại nội dung mỗi
phương châm hội thoại?

-Hs động não nhớ lại kiến thức đã học để trả
lời.
-Gv vẽ nhánh, ghi nội dung chính.
?Tiếng Việt có những loại từ ngữ nào thường
dùng để xưng hô? Cho ví dụ mỗi loại? .
-Hs suy nghĩ trả lời.
-Gv vẽ nhánh, ghi nội dung chính.
?Em có nhận xét gì về từ ngữ xưng hô trong
tiếng Việt? Khi sử dụng từ ngữ xưng hô em cần
lưu ý điều gì? .
-Hs động não nhớ lại kiến thức dã học để trả
lời.
-Gv vẽ nhánh, ghi nội dung chính.
?Có mấy cách dẫn lại lời nói, ý nghĩ của một
người hay một nhân vật?
Mỗi cách dẫn ấy khác nhau như thế nào? .
-Hs suy nghĩ trả lời.
-Gv vẽ nhánh, ghi nội dung chính.
-Sau khi giáo viên và học sinh thực hiện các thao tác ôn tập lý thuyết như
trên, Gv sẽ trình chiếu một SĐTD đã hoàn thiện đầy đủ, đảm bảo đơn vị kiến
thức bài học trên màn hình máy chiếu (nếu không có máy chiếu đa năng thì giáo
viên có thể vẽ sẵn trên giấy rô ki hoặc bảng phụ).
-Hs theo dõi SĐTD của giáo viên trên màn hình, điều chỉnh những thiếu
sót.

12


Hoạt động 2:
II.Luyện tập.

-Gv hướng dẫn Hs làm các bài tập trong sách giáo khoa.
-GV yêu cầu Hs hoạt động theo nhóm hoặc hoạt động cá nhân, sau đó lên bảng
trình bày.
-Gv yêu cầu Hs nhận xét chéo, GV nhận xét chung, bổ sung, đánh giá.
*Lưu ý: vì dung lượng hạn hẹp của sáng kiến kinh nghiệm nên ở hoạt động 2
của tiết ôn tập, bản thân tôi không sử dụng SĐTD nên xin phép không dành
nhiều thời gian để bàn về vấn đề này.
D.Củng cố dặn dò:
-Gv yêu cầu Hs nắm vững đơn vị kiến thức bài học.
-Hs về nhà rèn luyện thêm kĩ năng vẽ SĐTD.
-Hoàn thiện bài tập ôn tập.
13


-Soạn bài tiết 74.
E.Rút kinh nghiệm:
Trên đây là một giáo án mà bản thân tôi đã vận dụng SĐTD vào dạy học
thành công.
b.Hướng dẫn cho học sinh học ở nhà theo mô hình vẽ SĐTD chuẩn bị cho
bài học tiếp theo.
Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD ở nhà (phần chuẩn bị bài):
- Dùng SĐTD để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức
sau mỗi chương, phần….Sau mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học
sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách
vẽ SĐTD. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh ôn tập theo tổ, nhóm, cá nhân theo
hình thức: các em đọc bài, soạn bài theo cách vẽ sơ đồ tư duy. Mỗi nhóm, tổ, cá
nhân có thể tự định hướng cho mình các vẽ các sơ đồ tư duy dựa trên các từ
khoá chính của bài ôn tập, tổng kết. Nếu là phân nhóm, tổ thì mỗi nhóm, tổ vẽ
vào một tờ giấy rô ki, mỗi thành viên của nhóm, tổ phải đầu tư trí tuệ vào bản vẽ
của nhóm mình (tổ trưởng, nhóm trưởng phân công), đối với cá nhân thì các em

có thể độc lập sáng tạo bản vẽ của mình vào các phương tiện cá nhân (sáp màu,
bút vẽ, giấy bìa, giấy rô ki hoặc vở bài tập). Sau khi vẽ các em phải kiểm tra,
điều chỉnh thiếu sót (theo cách hiểu của học sinh), cử đại diện nhóm, tổ trình bày
sơ đồ tư duy vào tiết học hôm sau (nên cho các thành viên trong tổ, nhóm được
thể hiện văn phong nói của mình trước đám đông, rèn luyện kĩ năng giao tiếp.
Sau đó chọn người nói tốt nhất có trách nhiệm trình bày sơ đồ tư duy của tổ
trước lớp ).
Quy trình tổ chức hoạt động vẽ SĐTD trên lớp trong tiết học tiếp theo:
-Cho học sinh lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân thông qua gợi ý của giáo
viên.
-Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về
SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập.
- Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức
của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn
chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học.
-Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một
SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày,
thuyết minh về kiến thức đó.
* Lưu ý:
-Để tạo sự hứng thú cho giờ học, giáo viên có thể tổ chức cho các nhóm thi
vẽ SĐTD với nhau. Giáo viên cho từ khoá “Ôn tập về truyện” (tiết 153,154).
Học sinh sử dụng giấy rô ki và sáp màu để vẽ SĐTD cho từ khoá này. Thời gian
cho cuộc thi là 20 phút. Sau đó các nhóm cử đại diện lên trình bày. Đội nào
14


thắng sẽ được cộng điểm thưởng vào bài kiểm tra 15 phút hoặc mỗi thành viên
của nhóm sẽ được 10 điểm (GV lấy điểm kiểm tra miệng). Nhóm nào chưa hoàn
thành hoặc vẽ chưa đúng thì sẽ bị phạt làm trực nhật, vệ sinh trường lớp trong
một tuần. Gv sẽ là trọng tài để kiểm định chất lượng của bản vẽ SĐTD của các

nhóm. Gv chuẩn bị một SĐTD chuẩn của bài học trình bày, học sinh theo dõi và
đánh giá chất lượng bản vẽ của nhóm mình, điều chỉnh những thiếu sót.
-Giáo viên có thể đưa ra một SĐTD chưa hoàn thiện trên tờ giấy rô ki, yêu
cầu mỗi nhóm học sinh lên bảng bốc thăm phần trình bày của nhóm mình.
Sau đó, mỗi nhóm trình bày vào tờ giấy A4 phần nội dung kiến thức mà
nhóm mình sẽ trình bày, sau thời gian 7 phút, cử đại diện lên dính vào tờ giấy rô
ki mà giáo viên đã chuẩn bị treo trên bảng, nhóm trưởng thuyết minh phần trình
bày của nhóm mình. Giáo viên cho các nhóm nhận xét và sau đó giáo viên sẽ
tổng hợp kiến thức, nhận xét, bổ sung và cho điểm.
Ví dụ: Giáo viên đưa ra SĐTD cho tiết học Ôn tập về truyện ( Tiết 153-phần
ôn tập kiến thức cơ bản về các văn bản đã học -Câu hỏi 1, SGK, trang 144).

15


Trên đây là một sơ đồ tư duy chưa hoàn chỉnh, giáo viên đưa ra để học sinh
điền thông tin tiếp theo để hoàn thiện bài ôn tập.
c. Giải quyết những tình huống sẽ xảy ra trong quá trình dạy học bằng
SĐTD ở các tiết ôn tập, tổng kết trong chương trình Ngữ văn 9:
-Trong quá trình tổ chức cho học sinh chiếm lĩnh đơn vị kiến thức bài học
theo SĐTD, giáo viên sẽ bắt gặp những tình huống sau:
+Sẽ có những học sinh vẽ SĐTD đáp ứng được mục tiêu, yêu cầu của bài
học. Nhưng bên cạnh đó, sẽ có những học sinh không vẽ theo yêu cầu của bài
học, thậm chí sẽ lúng túng không biết vẽ SĐTD.
+Có những SĐTD vẽ thiếu nhánh, ghi nội dung kiến thức bài học trên các
nhánh không phù hợp.
-Trước những tình huống đó, giáo viên cần phải có những biện pháp xử lí
hợp lí, nâng cao hiệu quả dạy học. Cụ thể, bản thân tôi sẽ giải quyết các tình
huống đó như sau:
+Đối với những SĐTD của các em vẽ tốt, đáp ứng yêu cầu của bài học thì

giáo viên nên động viên, khen, biểu dương và cho điểm cao để khuyến khích,
tạo hứng thú cho các em học tập tốt hơn.
+Đối với những học sinh tỏ ra lúng túng trước kĩ năng vẽ SĐTD, giáo viên
nên quan sát và lại gần hướng dẫn các em từng thao tác một. Từ khâu chọn từ
khoá đến phân nhánh cho từng kiến thức bài học, chọn những từ ngữ hàm súc,
ngắn gọn để trình bày vào các nhánh. Nếu các em còn chưa thực sự nắm vững
được các thao tác vẽ SĐTD, giáo viên có thể cung cấp một bản vẽ SĐTD có sẵn,
học sinh theo dõi và bắt chước. Sau đó, giáo viên giúp học sinh hiểu, vẽ được
SĐTD cho một kiến thức bài học.
+Đối với những bản vẽ SĐTD thiếu các nhánh hoặc thiếu nội dung trình
bày trên các nhánh, giáo viên nên hướng dẫn các em đọc lại nội dung kiến thức
bài học. Học sinh sẽ phải đọc lại nội dung yêu cầu của bài học, xác định những
nội dung lớn cần phải ôn tập, sau đó động não suy nghĩ về những đơn vị kiến
thức liên quan đến nội dung đó. Các em sẽ vạch các đơn vị kiến thức ra giấy
nháp trước, sau đó sắp xếp lại theo một trình tự hợp lí, cuối cùng mới bắt tay vào
vẽ SĐTD.
+Mỗi tiết dạy học theo SĐTD giáo viên đều phải chuẩn bị sẵn một sơ đồ tư
duy chuẩn mực để trình bày trước học sinh. Các em sẽ quan sát SĐTD chuẩn
của giáo viên mà điều chỉnh những thiếu sót trong bản vẽ của mình, rút kinh
nghiệm cho lần sau.
*Lưu ý: Với dung lượng hạn hẹp của SKKN, bản thân tôi xin phép được trình
bày một số bản vẽ SĐTD cho các tiết ôn tập, tổng kết bài học trong chương trình
Ngữ văn 9 như trên. Các tiết còn lại, giáo viên sẽ tiếp tục linh hoạt sử dụng
SĐTD vào bài học có hiệu quả cao.
16


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Sau một thời gian ứng dụng SĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học
môn Ngữ văn, tôi nhận thấy bước đầu có những kết quả rất khả quan. Trước hết,

bản thân tôi đã nhận thức được vai trò tích cực của việc ứng dụng SĐTD trong
quá trình dạy học. Tôi đã tìm hiểu, biết cách sử dụng SĐTĐ một cách hiệu quả
trong hầu hết các khâu của quá trình lên lớp, từ việc kiểm tra bài cũ, dạy bài
mới, củng cố kiến thức bài học, ôn tập, hệ thống kiến thức các chương,
phần....Học sinh tiếp thu bài, nắm kiến thức chắc chắn hơn, khoa học hơn, nhanh
hơn. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng SĐTD để ghi chép bài,
tổng hợp kiến thức môn học. Những học sinh trung bình đã biết dùng SĐTD để
củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Điều quan trọng hơn là các em học
tập tích cực hơn, sôi nổi hơn. Các em không còn tâm lý chán học, ngại học môn
Ngữ văn vì phải ghi chép nhiều. Trái lại, tất cả rất hào hứng với việc học tập. Vì
việc ứng dụng SĐTD không chỉ tạo tác động trực quan lôi cuốn các em, mà còn
giúp các em ghi chép bài gọn gàng, khoa học hơn, nhanh hơn và nhẹ nhàng hơn
nhiều so với cách ghi chép trước đây. Cụ thể:
- Năm học 2017-2018: Trước khi thực hiện đề tài, qua phiếu thăm dò niềm
yêu văn, hiểu văn của học sinh, tôi thu được kết quả sau: Tổng số học sinh lớp
9C, 9D: 80 em.
Sử dụng sơ đồ,
Yêu thích môn
Có thái độ bình Không thích học văn,
biểu đồ tư duy
văn, hiểu bài học thường.
không hiểu bài.
SL
%
SL
%
SL
%
truyền thống
20

25
30
37,5
30
37,5
vào các bài ôn
tập, tổng kết.
-Sau khi thực hiện thành công đề tài, tôi thu được kết quả sau:
Sử dụng sơ đồ tư
Yêu thích môn
Có thái độ
Không thích học văn,
duy theo phương
văn, hiểu bài học. bình thường.
không hiểu bài.
pháp dạy học
SL
%
SL
%
SL
%
tích cực vào các
40
50
30
37,5
10
12,5
bài ôn tập, tổng kết.

Bảng so sánh kết quả thi giữa HKI và kết quả thi cuối HKII của 2 lớp 9
Trường THCS Nhữ Bá Sỹ TT Bút Sơn:
KT giữa HKI
KT cuối HKII
Ghi chú
Số HS
Số HS
Lớp
Sĩ số
đạt 5,0
Tỉ lệ
đạt 5,0
Tỉ lệ
trở lên
trở lên
9C
42
30
71%
42
100%
tăng 18,9%
9D
38
29
76,3%
38
100%
Tăng23,7%
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

17


1.Kết luận:
Với những ưu điểm của SĐTD mà bản thân tôi đã khai thác trong quá
trình dạy học các bài ôn tập, tổng kết như trên, hiện nay sơ đồ tư duy trở
thành một công cụ gợi mở, kích thích quá trình tìm tòi kiến thức của học
sinh.Việc sử dụng SĐTD trong quá trình dạy học giúp các em học tập một cách
chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một
cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng em
không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), hệ thống hóa kiến thức (huy động
những điều đã học trước đó vào việc chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa
(hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức
được học qua sách vở vào cuộc sống.
Sơ đồ tư duy còn là một công cụ tư duy thực sự hiệu quả trong hoạt động
nhóm bởi nó tối đa hoá được nguồn lực của cá nhân và tập thể. Mỗi thành viên
đều rèn luyện được khả năng tư duy, kỹ năng thuyết trình và làm việc khoa học.
Sử dụng SĐTD giúp cho các thành viên hiểu được nội dung bài học một cách rõ
ràng và hệ thống. Việc ghi nhớ cũng như vận dụng cũng sẽ tốt hơn. Chỉ cần nhìn
vào Sơ đồ tư duy, bất kỳ thành viên nào của nhóm cũng có thể thuyết trình được
nội dung bài học.
Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy
mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ
thống, khoa học. Sử dụng SĐTD kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực
khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình,… có tính khả thi cao góp phần đổi mới
PPDH, đặc biệt là đối với các lớp ở cấp THCS.
2.Kiến nghị:
* Tổ chuyên môn:
- Bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cốt cán về đổi mới PPDH.
- Thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt chuyên môn.

- Đánh giá, xếp loại giáo viên đúng năng lực, trình độ và đề xuất khen
thưởng kịp thời những giáo viên tích cực trong đổi mới PPDH.
-Tổ chức các tiết thao giảng thực hiện đổi mới PPDH để đồng nghiệp học
hỏi, trau dồi thêm kinh nghiệm dạy học, nâng cao hiệu quả dạy-học.
*. Với giáo viên:
- Nhiệt tình, say mê với nghề, tận tuỵ với học sinh.
- Luôn tạo hứng thú trong giờ học ( đặc biệt là các tiết tập ôn tập, tổng kết
luôn luôn bị coi là khó và nhiều kiến thức) bằng các hình thức như: thi giữa các
nhóm, tổ, tổ chức các trò chơi, …để học sinh có hứng thú và yêu thích môn học
hơn.

18


- Cần có sự linh hoạt khi ứng dụng SĐTD vào việc soạn, giảng, kiểm tra
đánh giá, tổ chức hoạt động cho học sinh, tránh lạm dụng; nhất là đối với bộ
môn Ngữ văn.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi vận dụng SĐTD ở các tiết
ôn tập, tổng kết trong dạy học bộ môn Ngữ văn tại trường THCS Nhữ Bá sỹ -TT
Bút Sơn. Trong quá trình triển khai sang kiến kinh nghiệm, bản thân tôi không
tránh khỏi những hạn chế. Vì vậy, tôi rất mong được sự góp ý chân thành của
lãnh đạo cấp trên và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi được
đầy đủ và hoàn thiện, mang tính khả thi hơn.
Xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ

Hoằng Hóa, ngày 7 tháng 05 năm 2018
CAM KẾT KHÔNG COPY

Người thực hiện

Đinh Thị Hoài Anh

TÀI LIỆU THAM KHẢO

19


1. Tám đổi mới để trở thành người giáo viên giỏi – NXB Giáo dục Việt Nam
(Người dịch: Lê Văn Canh)
2. Cẩm nang phương pháp sư phạm- NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh (Đinh
Văn Tiến )
3. Dạy và học tích cực –NXB Đại học Sư phạm (Nguyễn Lăng Bình, Đỗ
Hương Trà)
4. Sách giáo khoa hướng tới phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực –
NXB Giáo dục Việt Nam ( Nguyễn Vinh Hiển )

DANH MỤC

20


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN

Họ và tên tác giả: Đinh Thị Hoài Anh
Chức vụ và đơn vị công tác : Giáo viên trường THCS Nhữ Bá Sỹ
Cấp đánh

Kết quả
Năm học
giá xếp loại
đánh giá
TT
Tên đề tài SKKN
đánh giá xếp
(Phòng, Sở, xếp loại (A,
loại
Tỉnh...)
B, hoặc C)
1
Thực trạng dạy học văn ở
Sở GD&ĐT Loại C
Năm học
THCS và một số giải pháp
Thanh Hóa
2007-2008
nâng cao hiệu quả dạy học.
2
Nâng cao chất lượng đọc
Phòng
Loại A
Năm học
văn bản trong dạy và học
GD&ĐT
2009 – 2010
môn Ngữ văn THCS.
Hoằng Hóa
3

Một số giải pháp nâng cao
Sở GD&ĐT Loại C
Năm học
chất lượng dạy và học văn
Thanh Hóa
2011 – 2012
biểu cảm ở chương trình
Ngữ văn lớp 7.
4
Hướng dẫn một số cách viết Sở GD&ĐT Loại B
Năm học
mở bài và tìm dẫn chứng
Thanh Hóa
2013-2014
nhằm nâng cao năng lực
làm bài văn nghị luận xã hội
cho HS lớp 9 Trường THCS
Nhữ Bá Sỹ-TT Bút Sơn.

21



×