Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội giai đoạn 20102017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 113 trang )

BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG HÀ NỘI

TRƢƠNG ĐÌNH PHƢƠNG

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 - 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

Hà Nội - Năm 2019


TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƢỜNG HÀ NỘI

TRƢƠNG ĐÌNH PHƢƠNG
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
LĨNH VỰC ĐẤT ĐAI TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN BẮC TỪ LIÊM,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010 - 2017

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 8850103
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ ĐỨC PHÚC

Hà Nội - Năm 2019



i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Đề tài “Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số
giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa
bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2017" là công
trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn này
là hoàn toàn trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
nghiên cứu nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong luận văn đều có xuất
xứ, nguồn gốc cụ thể. Việc sử dụng các thông tin này trong quá trình nghiên
cứu là hoàn toàn hợp lệ.
Hà Nội, ngày tháng

năm 2019

Tác giả

Trƣơng Đình Phƣơng


ii
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến tập thể các thầy
giáo, cô giáo của trường đại học Tài nguyên và môi trường Hà Nội đã tận tình
truyền đạt kiến thức chỉ bảo tôi trên con đường học tập nghiên cứu khoa học;
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Ngô Đức Phúc là
người hướng dẫn luận văn của tôi, đã giành nhiều tâm huyết của mình để giúp
tôi định hướng khoa học và luôn động viên khích lệ tôi hoàn thành luận văn
một cách tốt nhất;

Xin cảm ơn lớp Cao học quản lý đất đai khóa 2017 – 2019 trường Đại
học Tài nguyên và môi trường và các đồng nghiệp tại UBND Quận Bắc Từ
Liêm, Thanh tra Quận Bắc Từ Liêm, Văn phòng HĐND & UBND Quận Bắc
Từ Liêm, phòng Tài nguyên & Môi trường Quận Bắc Từ Liêm, cán bộ địa
chính các phường thuộc quận Bắc Từ Liêm đã ủng hộ, động viên tôi, giúp đỡ
tôi tìm kiếm chuẩn bị và cung cấp cho tôi nhiều tài liệu thông tin quan trọng
cũng như đóng góp cho luận văn của tôi nhiều ý kiến đóng góp quý báu;
Cuối cùng tôi xin đặc biệt cám ơn những người thân trong gia đình đã
quan tâm chia sẻ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi có thể yên tâm vững lòng
hoàn thiện luận văn này.
Tác giả luận văn

Trương Đình Phương


iii
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................ 1
2. Mục tiêu nghiên cứu...................................................................................... 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ...................................................... 3
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU................................ 4
1.1. Cơ sở pháp lý về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai .................... 4
1.1.1. Khái niệm cơ bản về vi phạm hành chính........................................... 4
1.1.2. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính ...... 8
1.1.3. Tổng quan những quy định pháp lý về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai theo luật đất đai 2003 và các văn bản có liên quan . 11
1.1.4. Tổng quan những quy định pháp lý về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai theo luật đất đai 2013 và các văn bản có liên quan. 21
1.2. Cơ sở lý luận về vấn đề nghiên cứu. ........................................................ 25

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai. ... 25
1.2.2. Các loại hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ............ 31
1.2.3. Nguyên tắc xử lý các vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai .... 33
1.3. Cơ sở thực tiễn ......................................................................................... 35
1.3.1 Tình hình phát hiện các vi phạm trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam ... 36
1.3.2. Tình hình xử lý các vi phạm trong lĩnh vực đất đai tại Việt Nam .... 40
1.3.3 Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trong xử lý vi phạm về quản
lý, sử dụng đất đai tại Việt Nam. ................................................................ 41
1.3.4. Thực trạng hệ thống tổ chức thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực
đất đai tại Việt Nam .................................................................................... 43
1.3.5. Thực trạng cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác thanh tra,
kiểm tra về đất đai tại Việt Nam ................................................................. 47


iv
CHƢƠNG II. ĐỐI TƢỢNG, NỘI DUNG, PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU ................................................................................................................ 48
2.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 48
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 48
2.3. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................... 48
CHƢƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ................................................. 50
3.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Bắc Từ Liêm. ......50
3.1.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên ............................................................ 50
3.1.2. Khái quát về đặc điểm kinh tế - xã hội. ........................................... 53
3.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội quận Bắc Từ
Liêm ............................................................................................................ 55
3.2. Khái quát tình hình quản lý nhà nước về đất đai và hiện trạng sử dụng đất
trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm ....................................................................... 57
3.2.1 Khái quát tình hình quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn quận .. 57
3.2.2 Hiện trạng sử dụng đất của quận Bắc Từ Liêm ................................. 62

3.3. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận
Bắc Từ Liêm giai đoạn 2010 đến 1/4/2014..................................................... 66
3.4. Tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận
Bắc Từ Liêm từ ngày 1/4/2014 đến năm 2017 ............................................... 75
3.5. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn
quận Bắc Từ Liêm ........................................................................................... 83
3.5.1. Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai giai đoạn
từ năm 2010 đến 1/4/2014 .......................................................................... 83
3.5.2. Tình hình xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai giai đoạn
từ 1/4/2014 đến năm 2017 .......................................................................... 85
3.5.3. Nhận xét, đánh giá chung:................................................................. 89
3.6. Đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong lĩnh
vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. ..................................... 91


v
3.6.1. Giải pháp chung: ............................................................................... 91
3.6.2. Giải pháp cụ thể trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm. ............................ 93
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102
PHỤ LỤC


vi

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt
HĐND
KH

KPHQ

Chữ viết đầy đủ
Hội đồng nhân dân
Kế hoạch
Khắc phục hậu quả



Quyết định

TB

Thông báo

TNHH

Trách nhiệm hữu hạn

UBND

Ủy ban nhân dân

VPHC

Vi phạm hành chính

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


XPVPHC

Xử phạt vi phạm hành chính


vii
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Hiện trạng sử dụng đất quận Bắc Từ Liêm năm 2017 ................... 63
Bảng 3.2. Tổng hợp thống kê vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai từ
năm 2010 đến 1/4/2014 ................................................................................... 67
Bảng 3.3: Tổng hợp kết quả điều tra về nguyên nhân dẫn đến vi phạm hành chính
về đất đai giai đoạn 2010 - 1/4/2014 trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm ................. 75
Bảng 3.4. Tổng hợp số lượng vi phạm hành chính về đất đai trên địa bàn
quận Bắc Từ Liêm giai đoạn 2014 - 2017 ...................................................... 77
Bảng 3.5. Phân loại hành vi vi phạm đất đai chủ yếu trên địa bàn quận Bắc Từ
Liêm giai đoạn 2014 - 2017 ............................................................................ 78
Bảng 3.6: Tổng hợp kết quả điều tra về nguyên nhân dẫn đến vi phạm hành chính
về đất đai giai đoạn 1/4/2014 - 2017 trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm ................. 80
Bảng 3.7. Tổng hợp kết quả điều tra tình hính quản lý, sử dụng đất đối với các
thửa đất công và đất nông nghiệp có công trình trên đất (khảo sát hộ gia đình,
cá nhân) ........................................................................................................... 82
Bảng 3.8. Thống kê hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai trên địa bàn huyện Từ Liêm giai đoạn 2010 - 1/4/2014............................ 84
Bảng 3.9. Thống kê hình thức xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm giai đoạn 1/4/2014 - 2017 ...................... 87


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật đất đai đầu tiên của Việt Nam được ban hành đã khẳng định: “Đất
đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các
khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc
phòng”. Đất đai có vai trò quan trọng như vậy, nên Đảng và Nhà nước ta luôn
luôn quan tâm vấn đề đất đai, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai thông
qua việc ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định, các chủ trương, đường lối,
chính sách trong quản lý nhà nước về đất đai cho phù hợp với sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực tiễn cho thấy, từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, nhà nước thực hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những
giá trị vốn có thì tình trạng vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phát
sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp
về mặt hành vi. Tính phức tạp của hành vi vi phạm trong lĩnh vực đất đai
không chỉ bắt nguồn từ những lợi ích kinh tế, từ hệ quả của sự quản lý thiếu
hiệu quả của cơ quan công quyền, sự bất hợp lý và thiếu đồng bộ của hệ thống
chính sách, pháp luật đất đai... mà còn do những nguyên nhân có tính lịch sử
trong quản lý và sử dụng đất đai qua các thời kỳ.
Bắc Từ Liêm là một quận thuộc Hà Nội, nằm dọc phía bờ nam
của sông Hồng, Bắc giáp huyện Đông Anh, Nam giáp quận Nam Từ Liêm,
Đông giáp quận Tây Hồ, Đông Nam giáp quận Cầu Giấy, Tây giáp
huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức. Quận được thành lập theo Nghị quyết
số 132/NQ-CP ngày 27/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ, trên cơ sở tách 9
xã: Minh Khai, Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Phú Diễn,
Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; một phần xã Xuân Phương với 9,30 ha
diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu; một phần thị trấn Cầu Diễn với 75,48 ha


2

diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu thuộc huyện, thành 13 phường mới
(Minh Khai, Thượng Cát, Liên Mạc, Thụy Phương, Tây Tựu, Phúc Diễn, Phú
Diễn, Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Đông Ngạc, Đức Thắng, Xuân Đỉnh, Xuân
Tảo). Trong quá trình đô thị hóa những năm vừa qua, nhu cầu phát triển kinh
tế của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đã thúc đẩy việc xây dựng và sử
dụng đất vào mục đích để ở và kinh doanh, sản xuất ngày càng phát triển. Tuy
nhiên với sự am hiểu pháp luật về đất đai còn hạn chế, từ đó đã phát sinh
nhiều vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu về vi phạm hành chính và xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai thực sự có ý nghĩa cấp bách cả về lý
luận cũng như thực tiễn, không những giúp Nhà nước trong nỗ lực xác lập cơ
chế xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai một cách có hiệu quả mà
còn góp phần vào việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
và lập lại kỉ cương hành chính và sử dụng đất bền vững với các phường mới
được thành lập, qua đó góp phần lập lại kỷ cương, phòng, chống vi phạm,
tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực đất đai là rất cần thiết.
Xuất phát từ lý do thực tiễn đó, học viên đã chọn đề tài luận văn thạc sỹ:
“Nghiên cứu thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm,
thành phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2017"
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng vi phạm hành chính, xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai trên địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành
phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2017.


3

3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm
phong phú hệ thống lý luận của khoa học quản lý đất đai về công tác xử lý vi
phạm hành chính nói chung và về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất
đai nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu góp phần đưa ra một số giải
pháp nhằm hạn chế vi phạm hành chính trong công tác quản lý về đất đai trên
địa bàn quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.


4
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở pháp lý về vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của vi phạm hành chính.
Nghiên cứu Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được ban hành năm
1989, 1995, 2002 và Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2011 (có hiệu lực từ
ngày 07/07/2012) cho thấy khái niệm vi phạm hành chính đều đã được đề cập
trong văn bản này. Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 1989 quy
định: “Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân hay tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại đến quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là
tội phạm hình sự và theo quy định pháp luật là phải bị xử lý vi phạm hành
chính” [1].
Định nghĩa này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi
hành pháp luật và đưa vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật. Theo Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 và sau đó là Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính năm 2002 thì khái niệm vi phạm hành chính không được
định nghĩa một cách trực tiếp mà được hiểu một cách gián tiếp qua khái niệm
xử lý vi phạm hành chính: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối
với cá nhân,cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành
vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà

không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính”[2].
Cho đến nay, cách hiểu về vi phạm hành chính được các nhà khoa học
và thực tiễn hiểu một cách khá thống nhất đó là: “Vi phạm hành chính là hành
vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định
của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và phải bị xử
phạt hành chính theo quy định của pháp luật”.


5
- Đặc điểm cấu thành vi phạm hành chính.
Khái niệm vi phạm hành chính là cơ sở đầu tiên cho việc xác định một
vi phạm pháp luật là vi phạm hành chính, đồng thời để phân biệt vi phạm
hành chính với các vi phạm khác. Để xác định một hành vi xảy ra có phải là
vi phạm hành chính hay không, cũng như đánh giá được đúng tính chất vi
phạm và mức độ xâm hại của hành vi thì việc xem xét các đặc điểm cấu thành
vi phạm hành chính là vô cùng quan trọng. Những đặc điểm và yếu tố cấu
thành này được mô tả trong các văn bản pháp luật có quy định về vi phạm
hành chính, hình thức và biện pháp xử lý đối với loại vi phạm này. Cũng
tương tự như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, các dấu hiệu cấu thành vi
phạm hành chính thể hiện ở bốn yếu tố: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ
thể và khách thể.
- Mặt khách quan của vi phạm hành chính.
Mặt khách quan của vi phạm hành chính là những biểu hiện ra bên
ngoài của thế giới khách quan của vi phạm hành chính bao gồm: hành vi, tính
trái pháp luật của hành vi, hậu quả thiệt hại của hành vi gây ra cho xã hội,
quan hệ nhân quả, thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện vi phạm.
- Khách thể của vi phạm hành chính
Khách thể vi phạm hành chính là các quan hệ xã hội được các quy định
về xử lý vi phạm hành chính bảo vệ. Tuy nhiên, dưới góc độ của vi phạm

hành chính, trật tự quản lý nhà nước cũng chính là các quan hệ xã hội được
luật hành chính bảo vệ. Có quan điểm cho rằng, khách thể của vi phạm hành
chính là trật tự quản lý nhà nước. Nhưng quan điểm như vậy chưa chính xác,
ngoài trật tự quản lý nhà nước thì khách thể của vi phạm hành chính còn có
thể là các quan hệ xã hội khác. Các quan hệ xã hội bị vi phạm hành chính xâm
hại rất đa dạng, đó là: trật tự nhà nước và xã hội, sở hữu nhà nước, tổ chức,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, trật tự quản lý. Cho nên khách thể


6
của vi phạm hành chính phải được hiểu là các quan hệ xã hội được quy phạm
pháp luật hành chính bảo vệ.
- Chủ thể của vi phạm hành chính
Chủ thể của vi phạm hành chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Cá
nhân, tổ chức chỉ có thể trở thành chủ thể của vi phạm hành chính khi có năng
lực trách nhiệm pháp lý hành chính.
- Cá nhân:
Năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính thể hiện khả năng nhận thức
của con người đối với hành vi vi phạm. Vì vậy, hai yếu tố để xác định năng
lực pháp lý đối với cá nhân là: Đạt độ tuổi theo quy định của pháp luật và
không mắc bệnh làm mất khả năng nhận thức hành vi.
Cá nhân thực hiện hành vi vi phạm hành chính chỉ được coi là chủ thể
vi phạm hành chính khi có năng lực pháp lý hành chính. Ở đây cũng cần phân
biệt giữa chủ thể vi phạm hành chính với đối tượng vi phạm hành chính. Cá
nhân chỉ cần có năng lực trách nhiệm pháp lý hành chính được xác định là
chủ thể vi phạm hành chính. Còn đối tượng vi phạm hành chính ngoài năng
lực trách nhiệm pháp lý hành chính còn phải thực hiện một hành vi vi phạm
hành chính cụ thể và bị xử phạt hành chính.
Cá nhân là chủ thể của vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật
hiện hành là mọi công dân. Trong đó, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi

nếu vi phạm hành chính thì bị xử phạt về vi phạm hành chính do cố ý và chỉ
bị phạt cảnh cáo. Người từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính do mình
gây ra và khi phạt tiền đối với họ thì mức phạt không quá một nửa mức tiền
phạt đối với người thành niên, trong trường hợp họ không có tiền nộp phạt thì
cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay. Quy định cha mẹ (người chưa
thành niên vi phạm) phải nộp thay không có nghĩa là xử phạt cả người không
vi phạm. Mà ở đây chúng ta hướng tới trách nhiệm giáo dục ý thức pháp luật
cho những người chưa thành niên. Đối với cán bộ, công chức, viên chức và


7
người có thẩm quyền bị xử lý vi phạm hành chính đối với những hành vi hành
chính liên quan đến việc thi hành công vụ, thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ
được giao. Nếu không có yếu tố này thì họ chỉ bị xử lý như mọi công dân
bình thường. Quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời kỳ tập trung huấn
luyện và những người thuộc lực lượng công an nhân dân, nếu thực hiện vi
phạm hành chính thì bị xử lý như đối với công dân khác.
- Tổ chức:
Trong vi phạm hành chính không phải lúc nào người vi phạm cũng là
cá nhân. Ở trường hợp người vi phạm là người nhân danh tổ chức thực hiện vi
phạm thì đương nhiên chủ thể vi phạm hành chính ở đây là tổ chức. Pháp luật
hành chính coi tổ chức là chủ thể vi phạm hành chính gồm: cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức nước ngoài. Tuy nhiên, khi xử phạt
hành chính đối với tổ chức, nếu là cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị xã hội
sẽ dẫn đến tình trạng tiền nhà nước chạy từ túi này sang túi khác. Do đó cần
phải truy cứu người có lỗi trực tiếp vi phạm hành chính để tổ chức bị xử phạt,
hoặc cần phải suy xét người có lỗi để truy cứu trách nhiệm kỷ luật. Điều này
đã được quy định cụ thể tại điểm b, khoản 1, Điều 6 Pháp lệnh Xử lý Vi phạm
hành chính 2002: “Tổ chức bị xử phạt hành chính về mọi hành vi vi phạm
hành chính do mình gây ra. Sau khi chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị

xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra vi phạm hành chính để xác định trách
nhiệm pháp lý của người đó theo quy định của pháp luật”.
Đối với cá nhân, tổ chức nước ngoài vi phạm hành chính trong phạm vi
lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam thì bị xử phạt
hành chính theo quy định của pháp luật Việt Nam, trừ trường hợp điều ước
quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác.
- Mặt chủ quan của vi phạm hành chính:
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính là những quan hệ tâm lý bên
trong của cá nhân vi phạm hành chính, bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích thực
hiện hành vi vi phạm.


8
Dấu hiệu tập trung cơ bản nhất của mặt chủ quan là yếu tố lỗi: “Lỗi
được hiểu một cách thông thường là điều sai sót, không nên, không phải trong
cách cư xử, trong hành động”. Trên phương diện pháp lý, lỗi được xác định là
trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm của mình và
hậu quả của hành vi đó. Tuy nhiên, dưới góc độ của Luật Hành chính, nội
dung lỗi có những nét đặc thù so với lỗi của các ngành luật khác. Trong nhiều
trường hợp chỉ cần có lỗi, nghĩa là người vi phạm có thể biết hoặc có thể biết
tính chất sai trái của mình là đủ để xác định vi phạm hành chính xảy ra.
Mặt khác, lỗi trong hành chính không chỉ đặt ra đối với cá nhân vi
phạm mà còn đặt ra đối với tổ chức. Thông thường, yếu tố lỗi của tổ chức vi
phạm hành chính được xác định bởi hành vi trái pháp luật của hành chính và
hành vi đó theo quy định của pháp luật hành chính phải bị xử phạt hành
chính. Như vậy, không phải đối với tổ chức vi phạm hành chính chúng ta
không và không thể xác định yếu tố lỗi truy cứu trách nhiệm pháp lý hành
chính mà việc xem xét lỗi sẽ thông qua việc truy cứu trách nhiệm kỷ luật. Lỗi
trong vi phạm hành chính là lỗi của một người thực hiện hành vi trái pháp luật
nhận thức được nghĩa vụ pháp lý bắt buộc nhưng họ lại có ý thức xem thường

mặc dù họ hoàn toàn có khả năng xử sự theo đúng nghĩa vụ đó.
Lỗi trong thực hiện vi phạm hành chính được thể hiện dưới hai hình
thức lỗi cố ý và lỗi vô ý.
1.1.2. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
- Khái niệm xử lý vi phạm hành chính
Hiểu một cách toàn diện và đầy đủ thì xử lý vi phạm hành chính là hoạt
động áp dụng các chế tài hành chính, bao gồm các hình thức xử phạt hành
chính, các biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây
ra, các biện pháp ngăn chặn và đảm bảo việc xử lý vi phạm hành chính, các
biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính và các
biện pháp chế tài hành chính khác. Do đó, xử lý vi phạm hành chính phải là


9
hoạt động cưỡng chế nhà nước do các chủ thể được Nhà nước giao quyền tiến
hành áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính.
Vì thế, xử phạt vi phạm hành chính là biện pháp quan trọng nhất nhưng
không phải biện pháp duy nhất để xử lý vi phạm hành chính.Từ những phân
tích trên đây có thể quan niệm: Xử lý vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng
chế mang tính quyền lực nhà nước nhằm áp dụng các chế tài hành chính, do
các chủ thể được Nhà nước giao quyền thực hiện đối với cá nhân, tổ chức có
hành vi vi phạm hành chính theo trình tự thủ tục do pháp luật quy định.
- Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế Nhà nước chỉ áp dụng đối
với đối tượng có hành vi vi phạm hành chính trên thực tế mà không thể áp
dụng đối với hành vi chưa được dự liệu là hành vi vi phạm hành chính. Điều
này cho thấy xử phạt hành chính chỉ được tiến hành khi có hành vi vi phạm
hành chính. Đặc điểm có tính nguyên tắc này đã được khẳng định tại khoản 2
Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002: “Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử
phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy

định”[2]. Do vậy, đòi hỏi cơ quan Nhà nước, người có thẩm quyền khi xử
phạt hành chính phải xác định rõ: hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế có phải
là hành vi vi phạm hành chính, hành vi đó do cá nhân hay tổ chức thực hiện,
tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi… để có thể quyết định hình thức
xử phạt cho phù hợp, bảo đảm nguyên tắc xử lý đúng người, đúng hành vi vi
phạm.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai phải được
tiến hành theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. “Thủ tục là những
việc phải làm theo một trật tự quy định”. Do đó, thủ tục xử lý vi phạm hành
chính có thể được hiểu là các giai đoạn, các bước cũng như thứ tự thực hiện
các hành động cần phải tiến hành trong các giai đoạn, các bước đó. Các nội
dung này do nhà nước quy định và các chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm


10

hành chính cụ thể. Không một chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính nào được phép tự đặt ra cho mình một trình tự, thủ tục mới, khác với
trình tự, thủ tục Nhà nước như sau: “Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng
chế Nhà nước do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành nhằm áp
dụng các hình thức xử phạt hành chính phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi vi phạm đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính”
- Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính
Cơ sở pháp lý để xác định phạm vi thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính được quy định tại khoản 1 Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
2002 như sau: “Việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Điều này có nghĩa là việc áp
dụng các biện pháp xử phạt hành chính, các biện pháp hành chính khác, các
biện pháp ngăn chặn và đảm bảo xử lý vi phạm hành chính phải do cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật"[2].

Quyền hạn của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong xử lý vi
phạm hành chính được pháp luật quy định cụ thể đối với từng biện pháp
cưỡng chế hành chính trên cơ sở cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền
cân nhắc kỹ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi theo thẩm quyền. Như
vậy, thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được xác định cho nhiều cơ
quan, cán bộ - công chức nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền này được
Nhà nước quy định chủ yếu tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính.
- Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
Khi xử lý vi phạm hành chính, có nhiều cơ quan nhà nước, người có
thẩm quyền tham gia. Có những vụ việc xử lý vi phạm hành chính được
chuyển từ cơ quan này sang cơ quan khác mà mỗi cơ quan thực hiện một hoạt
động áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, trong số các cơ quan áp dụng pháp luật để
xử lý vi phạm hành chính chỉ có một chủ thể trực tiếp xem xét, ra quyết định
xử phạt hành chính cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền đó là chủ thể có
thẩm quyền xử phạt hành chính.


11
Nhìn chung, thẩm quyền xử phạt hành chính là quyền hạn và nghĩa vụ
xử phạt hành chính của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền tiến hành xử
phạt hành chính theo thủ tục xử phạt và trong phạm vi nhất định theo quy
định của pháp luật.
Thẩm quyền xử phạt hành chính được xây dựng trên cơ sở phân cấp
quản lý và hành vi vi phạm hành chính cụ thể. Đặc điểm này nhằm đảm bảo
cho việc sử lý vi phạm hành chính nhanh chóng và đấu tranh có hiệu quả đối
với mọi hành vi vi phạm pháp luật, cụ thể là:
+ Thẩm quyền sử phạt hành chính được trao cho hệ thống các cơ quan
rộng lớn. Điều này thể hiện tính chất đa dạng, phức tạp và biến động của hệ
thống các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính.
+ Thẩm quyền xử phạt hành chính kết hợp hài hòa giữa thẩm quyền xử

phạt với loại hành vi vi phạm hành chính và thẩm quyền xử phạt với mức phạt
cụ thể.
+ Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính hoàn toàn độc lập
không phụ thuộc vào nhau .
1.1.3. Tổng quan những quy định pháp lý về xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai theo luật đất đai 2003 và các văn bản có liên quan
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hành vi trái pháp luật đất
đai, được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến quyền sở hữu đất
đai của Nhà nước, quyền và lợi ích của người sử dụng đất cũng như các quy
định về chế độ sử dụng các loại đất mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính; xử lý vi phạm hành chính là xử
lý các trường hợp thực hiện trái pháp Luật đất đai 2003 và các hành vi vi
phạm hành chính theo Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7
năm 2002; Pháp lệnh sửa đổi một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính ngày 08 tháng 3 năm 2007; Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008.


12
Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai tại thời điểm Luật
đất đai 2003 được hướng dẫn xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định số 105
ngày 11/11/2009; Nghị định này quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối
với những hành vi vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai quy định trong Nghị định
này là hành vi cố ý hoặc vô ý của người sử dụng đất, tổ chức, cá nhân có liên
quan, tổ chức hoạt động dịch vụ về đất đai vi phạm các quy định của pháp
luật về đất đai mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của pháp luật.
Xử phạt hành chính là hoạt động cưỡng chế Nhà nước chỉ áp dụng đối
với đối tượng có hành vi vi phạm hành chính trên thực tế mà không thể áp

dụng đối với hành vi chưa được dự liệu là hành vi vi phạm hành chính. Điều
này, cho thấy xử phạt hành chính chỉ được tiến hành khi có hành vi vi phạm
hành chính. Đặc điểm có tính nguyên tắc này đã được khẳng định tại khoản 2
Điều 3 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002: "Cá nhân, tổ chức chỉ bị xử
phạt hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật quy định"
[2]. Do vậy, đòi hỏi cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền khi xử phạt hành
chính phải xác định rõ: hành vi vi phạm xảy ra trên thực tế có phải là hành vi
vi phạm hành chính không, hành vi đó do cá nhân hay tổ chức thực hiện, tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi… để có thể quyết định hình thức xử
phạt cho phù hợp, bảo đảm nguyên tắc xử lý đúng người, đúng hành vi vi
phạm.
Trong lĩnh vực đất đai, xử lý vi phạm hành chính có sự đồng nhất
tương đối với xử phạt vi phạm hành chính. Đó là hoạt động của các
chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành
về xử phạt vi phạm hành chính quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt
hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả đối với các tổ chức, cá nhân


13
thực hiện hành vi vi phạm hành chính về đất đai theo quy định của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai có đặc
điểm sau đây:
Thứ nhất, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được áp
dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính về đất đai theo quy định
của pháp luật. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 và pháp lệnh sử đổi
năm 2008 và Nghị định 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai được tiến
hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Pháp lệnh

Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009
của Chính phủ có quy định về xử phạt vi phạm hành chính xác định cụ thể
chủ thể có thẩm quyền quy định tại các Điều 25, 26 và 27, hình thức, mức xử
phạt mà họ được phép áp dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính
về đất đai ( Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của các cấp được phân
theo quy định từ thấp lên cao).
Thứ ba, xử phạt vi phạm hành chính về đất đai được tiến hành theo quy
trình xử lý vi phạm hành chính và theo pháp luật quy định. Các nguyên tắc cơ
bản bao gồm: (i) nguyên tắc phân định thẩm quyền; (ii) nguyên tắc thời hiệu;
(iii) nguyên tắc xử phạt; (iv) nguyên tắc xác định mức độ hậu quả của hành vi
vi phạm hành chính. Các thủ tục xử lý vi phạm hành chính có thể được hiểu là
các giai đoạn, các bước cũng như thứ tự thực hiện các hành động cần phải tiến
hành trong các giai đoạn, các bước đó. Các nội dung này do nhà nước quy
định và các chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có nghĩa vụ phải
tuân theo khi tiến hành hoạt động xử lý vi phạm hành chính cụ thể. Không
một chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính nào được phép tự đặt ra cho
mình một trình tự, thủ tục mới, khác với trình tự, thủ tục Nhà nước đã quy định.


14
Thứ tư, kết quả xử phạt vi phạm hành chính về đất đai thể hiện ở các
quyết định xử phạt, trong đó ghi nhận các hình thức, mức xử phạt áp dụng đối
với tổ chức, cá nhân vi phạm. Việc quyết định áp dụng hình thức xử phạt đó
thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với các tổ chức, cá
nhân vi phạm hành chính về đất đai, qua đó giáo dục cho mọi người ý thức
tuân thủ pháp luật đất đai nói riêng và pháp luật nói chung.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực đất đai bao gồm xử phạt vi phạm hành chính gồm hình thức xử phạt
chính và hình thức xử phạt bổ sung.
Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập; hình thức xử phạt bổ

sung, biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử
phạt chính đối với những hành vi vi phạm hành chính có quy định hình thức
xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định trong Nghị định
này trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị định này. Hình thức,
mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả
của hành vi vi phạm hành chính, nhân thân của người có hành vi vi phạm
hành chính, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết
tăng nặng được áp dụng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Pháp lệnh của
Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7
năm 2002 về việc xử lý vi phạm hành chính (sau đây gọi là Pháp lệnh số
44/2002/PLUBTVQH10).
Hình thức xử phạt chính bao gồm 2 hình thức là: c nh cáo và phạt
ti n; hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: tước quy n sử dụng giấy phép từ 06
tháng đến 09 tháng hoặc đình chỉ hoạt động từ 09 tháng đến 12 tháng và tịch
thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai.
Như vậy, khi nói đến xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
chỉ gồm xử phạt vi phạm hành chính, là hoạt động của các chủ thể có thẩm


15
quyền căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành về xử phạt vi phạm
hành chính quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính và
các biện pháp cưỡng chế hành chính theo quy định của pháp luật đối với các
tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai mà không áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính.
- Kết quả của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính về đất đai thể hiện
ở các quyết định xử phạt, trong đó ghi nhận các hình thức, mức xử phạt áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Việc quyết định áp dụng hình thức xử
phạt đó thể hiện sự trừng phạt nghiêm khắc của Nhà nước đối với các tổ chức,

cá nhân vi phạm hành chính về đất đai, qua đó giáo dục cho mọi người ý thức
tuân thủ pháp luật đất đai nói riêng và pháp luật nói chung.
ác nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai
Là xử phạt hành chính theo thẩm quyền xử phạt vi phạm hành được
quy định tại pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, và nghị định số
105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ có quy định về xử phạt vi
phạm hành chính; được quy định đối với trường hợp vi phạm hành chính
trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền xử phạt của nhiều người, phải căn cứ
vào thời gian thụ lý vụ việc. Nghĩa là, vụ việc vi phạm được người nào thụ lý
đầu tiên sẽ do người đó tiến hành xử phạt.
Trong trường hợp phạt tiền, thẩm quyền xử phạt được xác định căn cứ
vào mức tối đa của khung tiền phạt quy định đối với từng hành vi vi phạm cụ
thể chứ không phải căn cứ vào mức tiền phạt thực tế áp dụng đối với cá nhân,
tổ chức vi phạm, đồng thời phải căn cứ vào hình thức xử phạt được quy định áp
dụng đối với hành vi vi phạm.
Đối với trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai thì thẩm quyền xử phạt được xác định theo
nguyên tắc:


16
- Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với từng hành vi đều
thuộc thẩm quyền của người xử phạt, thì thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó.
- Nếu hình thức, mức xử phạt được quy định đối với một trong các
hành vi vượt quá thẩm quyền của người xử phạt, thì người đó phải chuyển vụ
vi phạm đến cấp có thẩm quyền xử phạt.
- Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai là hai
(02) năm kể từ ngày có hành vi vi phạm hành chính được thực hiện.
Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét
xử theo thủ tục tố tụng hình sự nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra

hoặc đình chỉ vụ án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính thì
thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba (03) tháng kể từ ngày người có
thẩm quyền xử phạt nhận được quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.
- Mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện, đình chỉ, xử lý kịp thời;
việc xử phạt vi phạm hành chính phải được tiến hành nhanh chóng, công khai,
triệt để; mọi hậu quả do vi phạm hành chính gây ra phải được khắc phục theo
quy định của Nghị định này và quy định của pháp luật có liên quan.
Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì từng người
vi phạm đều bị xử phạt. Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm.
Hình thức xử phạt chính được áp dụng độc lập; hình thức xử phạt bổ
sung, biện pháp khắc phục hậu quả chỉ được áp dụng kèm theo hình thức xử
phạt chính đối với những hành vi vi phạm hành chính có quy định hình thức
xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được quy định trong Nghị định
105 /2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ có quy định về xử phạt vi
phạm hành chính về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.


×