Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Giải quyết vấn đề pháp lý của những trường hợp nam, nữ chung sống như vợ chồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.69 KB, 15 trang )

MỞ BÀI
Tình trạng “Nam, nữ chung sống như vợ, chồng” không đăng ký kết hôn là một
hiện tượng đã và đang tồn tại trong xã hội ta như một hiện tượng khách quan và có xu
hướng ngày càng phổ biến. Hiện tượng này phát sinh và tồn tại chịu sự tác động bởi
nhiều yếu tố như là ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường, của lối sống phương Tây,
của trình độ dân trí và ý thức pháp luật trong một bộ phận nhân dân. Theo quy định
của pháp luật thì, nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì
không được công nhận là vợ chồng. Trên thực tế, thì việc “kết hôn” không đăng ký sẽ
làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp như sau một thời gian chung sống, các bên có con
chung, tài sản chung thì giữa họ nảy sinh mâu thuẫn và yêu cầu ly hôn; lại có trường
hợp sau khi chung sống, một trong hai bên lại đăng ký kết hôn với người khác.
Để hiểu rõ hơn về những hậu quả pháp lý mà các cặp Nam, Nữ chung sống như
vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ phải giải quyết như thế nào, thì em xin lựa
chọn đề tài “Giải quyết vấn đề pháp lý của những trường hợp nam, nữ chung sống
như vợ chồng” làm đề tài tìm hiểu cho bài tập của mình, rất mong nhận được sự đóng
góp ý kiến của các thầy cô để bài làm được hoàn thiện hơn !
B. NỘI DUNG
I – KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ, CHỒNG
1. Khái niệm nam, nữ chung sống như vợ chồng
Trong xã hội hiện nay, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về tình trạng “nam nữ
chung sống như vợ, chồng”. Một số quan điểm cho rằng “nam, nữ sống với nhau
không làm hôn thú nhưng bà con, làng xóm, gia đình hai bên đều công nhận, hai bên
thường xuyên chung sống một nhà, công nhận con sinh ra là con của hai người... thì
được xem là chung sống như vợ chồng”.

1


Có quan điểm lại cho rằng “chung sống như vợ chồng là phải chung sống thực
tế, thường xuyên trong một mái nhà, thường xuyên qua đêm công khai và được nhiều
người biết đến thì mớ gọi là chung sống như vợ, chồng”


Theo quy định tại điểm d mục 2 Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp số 01/2001/TTLT - TANDTC VKSNDTC – BTP ngày 03 tháng 01 năm 2001 thì: “Được coi nam và nữ chung sống
với nhau như vợ chồng, nếu họ có đủ điều kiện để kết hôn theo quy định của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000 và thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc họ về chung sống với nhau được gia đình (một bên hoặc cả hai bên) chấp
nhận;
- Việc họ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến;
- Họ thực sự có chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng
gia đình.”
Dưới góc độ pháp lý thì “nam nữ chung sống như vợ chồng” là trường hợp nam
nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng không đăng ký kết hôn.
Về nguyên tắc pháp luật không công nhận trường hợp này là vợ chồng. Tuy nhiên,
trên thực tế, các bên nam nữ vẫn chung sống với nhau như vợ chồng và thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, với gia đình và với xã hội.
2. Về bản chất
Theo quy định của pháp luật thì nam, nữ muốn trở thành vợ, chồng phải đăng
ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều này đã được khẳng định ngay
trong điều 11 Luật Hôn nhân gia đình Việt Nam năm 1959: “Việc kết hôn phải được
ủy ban hành chính cơ sở trú quán của bên con trai hoặc bên con gái công nhận và

2


ghi vào sổ kết hôn. Mọi nghi thức kết hôn khác đều không có giá trị về mặt pháp
luật”
Trên cơ sở kế thừa và phát triển luật Hôn nhân gia đình năm 1959 thì tại Điều
11 luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng đã quy định: “Việc kết hôn phải được
đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan đăng ký kết
hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại điều 14 của luật này. Mọi nghi thức kết

hôn không theo quy định tại điều 14 của luật này đều khong có giá trị pháp lý”
Tuy vậy, nhưng trên thực tế xuất phát từ nguyên nhân đất nước trải qua một thời
gian chiến tranh kéo dài, do phong tục, tập quán về kết hôn... nên nhiều đôi kết hôn
không đăng ký kết hôn, mà chỉ dựa theo phong tục, tập quán hay lề lỗi cổ xưa. Để bảo
vệ quyền lợi của các bên và con nên nhà nước ta đã công nhận trường hợp nam, nữ
chung sống như vợ chồng là kết hôn thực tế. Tuy nhiên để bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa thì nhà nước ta chỉ công nhận các trường hợp nam, nữ chung sống như vợ
chồng có đủ điều kiện kết hôn mà không đăng ký kết hôn và thời điểm bắt đầu chung
sống trước ngày luật Hôn nhân gia đình năm 1986 có hiệu lực (tức ngày 3/1/1987) là
hôn nhân thực tế, tức là nam, nữ chung sống theo quy định của pháp luật.
Đối với nam, nữ chung sống như vợ, chồng từ ngày 3/1/1987 đến trước ngày
1/1/2001 mà không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ, chồng. Như
vậy vấn đề nam, nữ chung sống như vợ, chồng đã được cập nhật trong các văn bản
pháp luật do nhà nước ta ban hành và sử dụng rộng rãi, các bản án, quyết định của
Tòa án khi giải quyết các tranh chấp liên quan đến hiện tượng nam, nữ chung sống
như vợ, chồng, có đủ điều kiện nhưng không đăng ký kết hôn.

 Nam, Nữ chung sống như vợ, chồng về thực chất thì đây là quan hệ vợ chồng mà
quan hệ đó không được xác lập theo thủ tục và trình tự pháp lý nhất định nhưng lại
đã và đang tồn tại trên thực tế. Hai bên chung sống với nhau như vợ chồng, thực sự
coi nhau là vợ chồng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với
3


nhau, với gia đình và với xã hội. Vì vậy, trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng và hôn nhân có đăng ký kết hôn về bản chất là giống nhau
3. Đặc điểm
Thứ nhất: nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn nhưng không đăng ký kết hôn mà
chung sống như vợ, chồng. Tức là việc chung sống của nam, nữ này tuân thủ Điều 9
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, về các điều kiện để kết hôn. Trong trường hợp

nam nữ chung sống như vợ chồng, hai bên nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn nhưng
xuất phát từ một vài lý do mà các bên không tiến hành đăng ký kết hôn. Ví dụ như ở
các tỉnh miền núi, do phong tục tập quán, kết hôn chỉ cần sự chứng kiến của già làng
nên việc đăng ký kết hôn khi lấy vợ, lấy chồng vẫn chưa được người dân biết đến và
quan tâm. Hoặc ở thành phố với lối sống “nhà nào biết nhà đấy” và do sự ảnh hưởng
mạnh mẽ của tư tưởng tự do cá nhân đã tạo điều kiện cho việc nam nữ chung sống
như vợ chồng không đăng ký kết hôn diễn ra phổ biến.
Đây chính là đặc điểm cơ bản để phân biệt với trường hợp nam, nữ không đủ
điều kiện kết hôn hay trường hợp kết hôn trái pháp luật. Đối với các trường hợp nam
nữ không đủ điều kiện kết hôn hoặc kết hôn trái pháp luật, các bên nam nữ đều không
đủ điều kiện kết hôn có thể là về độ tuổi, về ý chí tự nguyện hoặc vi phạm điều cấm
của xã hội không thể đăng ký kết hôn hoặc mặc dù có đăng ký kết hôn nhưng cũng
không được công nhận là vợ chồng. Còn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng, hai bên không hề vi phạm những điều kiện về kết hôn theo quy định của pháp
luật.
Về nội dung giữa hôn nhân hợp pháp và nam nữ chung sống như vợ chồng
không có sự khác biệt. Chính vì vậy, hành vi chung sống như vợ chồng của hai bên
hoàn toàn không vi phạm pháp luật.
Về mặt hình thức, nam nữ chung sống như vợ chồng là trường hợp nam nữ
chung sống với nhau nhưng giữa họ không có Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn do cơ
4


quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp. Điều đó có nghĩa là giữa họ trong quan hệ
hôn nhân không có chứng cứ về mặt pháp lý để khẳng định họ là vợ chồng. Theo quy
định của pháp luật, nam nữ chung sống như vợ chồng không được công nhận là vợ
chồng. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hôn nhân có đăng ký và trường hợp nam nữ
chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
Thứ hai: trong thời gian chung sống như vợ chồng, hai người thực sự coi nhau
là vợ chồng. Đây là điểm có thể giúp ta phân biệt với trường hợp nam nữ sống chung

tạm bợ. Việc đánh giá việc hai người có coi nhau là vợ chồng thực sự là vấn đề phức
tạp. Bởi lẽ đây thuộc về ý thức chủ quan của con người, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh
và thời điểm khác nhau.
Thứ ba: khi bắt đầu chung sống, hai người mong muốn chung sống lâu dài và
ổn định. Đây là đặc điểm để phân biệt với khái niệm “hôn nhân thử nghiệm”. Đối với
“hôn nhân thử nghiệm”, thì trước khi chung sống, các bên thỏa thuận sẽ “thử” chung
sống với nhau như vợ chồng, “thử” thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của vợ
chồng. Nếu sau một thời gian chung sống, các bên thấy phù hợp thì sẽ lúc này sẽ tiến
hành đăng ký kết hôn, còn trường hợp không thấy phù hợp với nhau nữa thì các bên
sẽ “đường ai nấy đi”. Còn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, hai
bên mong muốn xây dựng một gia đình hạnh phúc nên từ khi bắt đầu chung sống, họ
đã có ý định gắn bó lâu dài với nhau
II – THỰC TRẠNG NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG
Hiện nay, tình trạng nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn đang diễn ra ngày càng phổ biến, theo số liệu thống kê cho thấy hiện tượng này
chiếm tới 7% tổng số gia đình Việt Nam. Trên thực tế, hiện tượng này thường được
diễn ra chủ yếu ở các đối tượng là học sinh, sinh viên thuộc các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề; cũng có thể là một bộ phận
nhân dân do hạn chế về nhận thức, ảnh hưởng của phong tục tập quán... mà một trong
các bên đã qua một lần kết hôn, sau đó hôn nhân của họ chấm dứt do ly hôn hoặc do
5


vợ chồng chết, khi tuổi đã cao mới “kết bạn” để nương tựa nhau. Cũng có thể là một
trong hai bên là người “quá lứa lỡ thì” chung sống với người khác trong hoàn cảnh
“rổ rá cạp lại” nên họ ngại không muốn thực hiện thủ tục của việc kết hôn.
Tại các vùng nông thôn, quan niệm về hôn nhân còn rất hà khắc và dư luận xã
hội dẫn đến việc họ e dè không dám sống như vợ chồng. Còn ở thành phố lớn “nhà
nào biết nhà đấy” nên đây là cơ hội cho hiện tượng này xảy ra phổ biến. Mặt khác
trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và sự đề cao chủ nghĩa

tự do cá nhân trong các quan hệ xã hội thì quyền kết hôn còn được hiểu dưới góc độ
tiêu cực là quyền không kết hôn. Quyền không kết hôn được thể hiện dưới hai hình
thức: sống độc thân và chỉ nam nữ chung sống như vợ chồng với người có điều kiện
phù hợp kết hôn nhưng lại không đăng ký kết hôn. Với ý nghĩ rằng: Tờ giấy đăng ký
kết hôn chỉ là một tờ giấy ghi nhận việc đã rồi. Nếu một trong hai người không thật
tâm muốn vĩnh viễn chung sống, thì có hay không đăng ký kết hôn cũng chẳng ăn
nhằm gì. Họ cho rằng, nền tảng của hôn nhân là tình yêu đích thực giữa hai cá nhân
mà không phải là việc đăng ký thông qua một tờ giấy. Nếu có tình yêu bền vững, họ
sẽ chung sống lâu dài và thương yêu nhau, còn hơn những cặp vợ chồng đã đăng ký
kết hôn được công nhận là cặp vợ chồng hợp pháp, nhưng chỉ sau một thời gian, họ
lại mang nhau ra tòa ly dị vì lý do nào đó, lại phải tốn tiền cho án phí, luật sư... Hơn
nữa nếu họ cảm thấy không thể hòa hợp được nữa thì cũng dễ dàng chia tay, không bị
chi phối bởi những thủ tục, trình tự cũng như chi phí pháp lý để tiến việc ly hôn, đó
cũng là một trong những nguyên nhân khiến các bên đã không tiến hành việc đăng ký
kết hôn.
Hiện nay có thể thấy hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không
tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết nhằm xác định quan hệ vợ chồng trước pháp
luật đã trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến trên thế giới nói chung và ở Việt
Nam nói riêng. Thực trạng đó đã và đang gây ra những hậu quả tiêu cực cho xã hội,

6


đặc biệt là đối với sự phát triển và ổn định của gia đình vì gia đình là tế bào của xã
hội.
II – ĐƯỜNG LỐI GIẢI QUYẾT ĐỐI VỚI TRƯỜNG HỢP NAM, NỮ CHUNG SỐNG
NHƯ VỢ, CHỒNG
1. Quan điểm của pháp luật đối với trường hợp nam, nữ chung sống như vợ
chồng không đăng kí kết hôn và không trái pháp luật trước và sau khi luật
Hôn nhân gia đình năm 2000 có hiệu lực.

Theo nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 thì công nhận việc chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là hợp
pháp và giữa họ vẫn phát sinh quan hệ vợ chồng.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tại Điều 11 có quy định : “ 1. Việc kết hôn
phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan
đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi
nghi thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị
pháp lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì
không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại
với nhau cũng phải đăng ký kết hôn. 2. Chính phủ quy định việc đăng ký kết hôn ở
vùng sâu, vùng xa”. Như vậy, kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có
hiệu lực, thì trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn,
dù có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật cũng không được công nhận là
hôn nhân thực tế và không có giá trị pháp lý. Điều này thể hiện rõ thái độ của Nhà
nước ta là sẽ chấm dứt việc công nhân “hôn nhân thực tế”.
2. Đường lối giải quyết các trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng.
Theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành
Luật Hôn nhân và gia đình, Nghị định số 77/2001/NĐ-CP và thông tư liên tịch số
7


01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3/1/2001 đã có những hướng dẫn cụ
thể việc giải quyết về mặt pháp luật đối với những trường hợp vi phạm việc đăng kí
kết hôn trước và sau ngày 1/1/2001.
 Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987:
Căn cứ vào khoản a điều 3 Nghị quyết số 35 quy định:
“ a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987, ngày
Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được
khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án

thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000”.
Như vậy trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987
vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn sẽ không bị buộc phải đăng kí kết hôn và theo Điều 1,
Điều 2 Nghị định số 77/NĐ-CP trường hợp này được “nhà nước khuyến khích và tạo
điều kiện cho đăng kí kết hôn”. Việc đăng kí kết hôn của họ không bị hạn chế về mặt
thời gian, họ được miễn lệ phí đăng kí kết hôn. Đối với trường hợp này thì không
buộc phải đăng kí kết hôn và vẫn thụ lý để giải quyết việc ly hôn nếu các bên yêu cầu.
Điều này được hiểu rằng chúng ta chấp nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” đối với
những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987. Đối với
trường hợp này cách giải quyết như vậy là hợp lý và chúng tôi cũng tán thành với các
quan điểm sau:
- Thứ nhất, quan hệ này được xác lập trong một thời điểm đặc biệt, trước khi chưa có
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986, chúng ta bị chiến tranh chia cắt đất nước lâu
dài. Điều này tác động không nhỏ đến vấn đề đăng kí kết hôn
- Thứ hai, các quan hệ được xác lập trước ngày 3/1/1987, tính đến thời điểm Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, khoảng thời gian này là khá dài, mối
quan hệ giữa hai bên nam nữ tương đối ổn định.
8


Bởi vậy, công nhận “hôn nhân thực tế” đối với những trường hợp này là vấn đề
cần thiết để ổn định quan hệ hôn nhân gia đình, tránh những xáo trộn trong đời sống
gia đình của họ. Tuy vậy, chúng tôi cho rằng cần phải có quy định chặt chẽ hơn về vấn
đề này, không phải mọi trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3/1/1987 đều
được pháp luật bảo vệ giống như tinh thần quy định tại điểm a, khoản 3 Nghị quyết 35
mà chỉ những trường hợp vi phạm đăng kí kết hôn nhưng tuân thủ đầy đủ các điều
kiện kết hôn mới được pháp luật bảo vệ.”
 Trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001
(ngày Luật Hôn nhân và gia đình 2000 có hiệu lực pháp luật):
Điểm b, khoản 3 Nghị quyết số 35 quy định:

“Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001,
mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của luật này thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn
trong thời hạn 2 năm kể từ ngày luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003, trong
thời hạn này mà họ không đăng kí kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp
dụng các quy định về Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau
ngày 1/1/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ
chồng”.
Như vậy, theo quy định này thì từ ngày 3/1/1987 các bên nam nữ chung sống
với nhau như vợ chồng mà vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn thì buộc phải đăng kí kết
hôn và đăng kí trong thời hạn kể từ ngày 1/1/2001 đến ngày 1/1/2003. theo quy định
tại Nghị định 77/2001/NĐ-CP thì trong thời hạn này nếu các bên nam, nữ đăng kí kết
hôn thì vẫn được thừa nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” cho các trường hợp chưa đăng
kí kết hôn có nghĩa là pháp luật vẫn công nhận quan hệ hôn nhân của họ từ khi họ bắt
đầu chung sống với nhau. Đây cũng chính là cách giải quyết linh động nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các nam nữ song vẫn đảm bảo tính thống nhất của quy định “buộc các
bên phải đăng kí kết hôn”. Bởi vì nếu hết thời hạn quy định nói trên mà họ vẫn không
đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
9


Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có hướng dẫn
cách xác định thời điểm nam nữ chung sống như vợ chồng như sau: “thời điểm nam
nữ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng là ngày họ tổ chức lễ cưới hoặc về
sống chung với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến hoặc ngày họ bắt đầu
chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ, cùng nhau xây dựng gia đình”. Như vậy, xác
định được thời điểm nam nữ bắt đầu chung sống với nhau, chúng ta có cơ sở để ghi
nhận ngày hôn nhân có hiệu lực và ghi vào sổ kết hôn cũng như giấy chứng nhận
đăng kí kết hôn. Điều này thực sự có ý nghĩa cho việc giải quyết quyền lợi cho các
bên đương sự. Mặt khác, theo thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP nếu sau ngày 1/1/2003 họ mới đăng kí kết hôn thì trong trường hợp
này quan hệ vợ chồng của họ chỉ được công nhận là đã xác lập kể từ ngày họ đăng kí

kết hôn.
 Trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
kể từ ngày 1/1/2001:
Theo khoản 3, điểm c Nghị quyết 35 của Quốc hội : “ Kể từ ngày 1/1/2001 trở
đi, trừ những trường hợp quy định tại điểm a và b khoản 3 của Nghị quyết này, nam
nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn đều không được
pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có ly hôn thì tòa án thụ lý và tuyên bố không
công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con cái, tài sản thì áp dụng khoản 2,
khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”.
Như vậy, theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 việc kết hôn không đăng kí
không được công nhận. Điều này thể hiện thái độ kiên quyết của nhà nước ta trong
việc chấm dứt tình trạng “hôn nhân thực tế”. quy định này là đúng đắn và phù hợp bởi
vì mọi quy định của pháp luật cần phải được tuân thủ một cách chặt chẽ mới đảm bảo
tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
IV – HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA VIỆC NAM, NỮ CHUNG SỐNG NHƯ VỢ CHỒNG.
10


Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa nhận việc kết hôn mà không
đăng kí với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, trường hợp các bên xác lập
quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí thì khi có yêu cầu ly hôn Tòa án sẽ thực hiện
biện pháp: “Tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng” và áp dụng quy định hậu quả
pháp lý của việc đăng kí kết hôn trái pháp luật tại Điều 17 Luật Hôn nhân gia đình
năm 2000 theo đó, “1/ Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì hai bên nam, nữ phải
chấm dứt quan hệ như vợ, chồng. 2/ Quyền lợi của con được giải quyết như trường
hợp cha mẹ ly hôn. 3/ Tài sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì
vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của
các bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công
sức đóng góp của mỗi bên, ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”
để giải quyết vấn đề tài sản và con chung cho các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn

nhân không đăng kí khi có yêu cầu. Như vậy theo điều 3 nghị quyết số 35/2000/QH10
ta sẽ xác định được những trường hợp hôn nhân không có giá trị pháp lý và nếu họ có
yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hiện
hành và giải quyết như sau:
Về mặt nhân thân: Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng, khi đó
giữa họ chưa từng phát sinh quan hệ vợ chồng vì vậy, kể từ thời điểm quyết định của
Tòa án có hiệu lực thì họ phải chấm dứt việc sống chung như vợ chồng.
Về mặt tài sản: Nếu các bên yêu cầu giải quyết vấn đề tài sản, Tòa áp dụng
khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết như sau: “Tài
sản được giải quyết theo nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu
của người đó; tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa
thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi
bên; ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”. Trên cơ sở đó Tòa án
sẽ giải quyết việc bảo vệ quyền lợi cho người có tài sản riêng. Đối với tài sản chung,
tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên. Khi các bên không thỏa mãn
11


được và yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án sẽ chia tài sản chung cho hai bên có tính
đến “công sức đóng góp của mỗi bên” và rõ ràng không phải là “chia đôi một cách
bình đẳng”. Tuy nhiên không chỉ căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên mà phải
xem xét vào nguyên tắc bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con,theo quy định
của Điều 17, khoản 3 thì quyền lợi của phụ nữ và con được “ưu tiên” bảo vệ.
Đối với con chung: Khoản 2 Điều 17 quy định : “Quyền lợi của con được giải
quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn”.Theo đó đối với trường hợp xác lập quan hệ vợ
chồng nhưng không đăng kí kết hôn thì quyền lợi của các con cũng được pháp luật
bảo vệ giống như khi cha mẹ ly hôn. Vì vậy, khi hai bên nam nữ bị Tòa tuyên bố
không công nhận là vợ chồng thì họ vẫn có nghĩa vụ đối với con chung. Trường hợp
con dưới 3 tuổi, Tòa án sẽ giao cho người mẹ nuôi.Căn cứ vào khoản 5 Điều 2 Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2000: “Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt

đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, con đẻ và con nuôi, con trong giá thú
và con ngoài giá thú.” Hai bên có trách nhiệm cấp dưỡng, hỗ trợ nhau nuôi con chung
( trong trường hợp này là con ngoài giá thú) trưởng thành; quan trọng là con chung
trong trường hợp này cũng có quyền thừa kế hợp pháp khi người cha, người mẹ qua
đời mà không để lại di chúc theo điều 676 Luật Dân sự năm 2005. Như vậy, ngay từ
khi sinh ra, con ngoài giá thú được hưởng đầy đủ các quyền lợi như con trong giá thú,
như quyền được khai sinh, quyền được mang quốc tịch…
Như vậy, có thể nói giải quyết về mặt pháp luật vấn đề “hôn nhân thực tế” là
quy định quan trọng và cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để chúng ta bảo vệ quyền lợi cho
các bên đương sự khi phát sinh tranh chấp. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy
định về việc không thừa nhận các trường hợp kết hôn không đăng kí. Theo đó các văn
bản hướng dẫn thi hành luật này đã quy định cụ thể, giải quyết về mặt pháp luật đối
với sự tồn tại của “hôn nhân thực tế” trước đó, theo chúng tôi như vậy là phù hợp với
thực tiễn áp dụng thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.

12


V – KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VẤN ĐỀ NAM, NỮ CHUNG SỐNG
NHƯ VỢ CHỒNG.
Nam nữ chung sống như vợ chồng luôn là một hiện tượng khác quan trong xã
hội, do đó sẽ không có một giải pháp giải quyết nào sẽ ngăn chặn đươc tận gốc vấn đề
này. Tuy nhiên em xin nêu một số giải pháp để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên và
người thứ ba.
Việc luật Hôn nhân gia đình năm 2000 không thừa nhận hôn nhân thực tế là
hoàn toàn phù hợp cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên không thừa nhận
hôn nhân thực tế không có nghĩa là sẽ chấm dứt tình trạng nam nữ chung sống như
vợ, chồng mà ngược lại nó vẫn tiếp diễn tồn tại như một thực tế khách quan, do đó
pháp luật không thể bỏ qua và cũng không thể không điều chỉnh vấn đề này. Để giải
quyết các vấn đề phát sinh trên thì cần xây dựng các quy phạm pháp luật thành một

chế định riêng để điều chỉnh vấn đề chung sống như vợ chồng và bảo vệ các quyền và
lợi ích của các bên liên quan, quyền lợi của người phụ nữ, trẻ em và các giao dịch dân
sự liên quan đến người thứ ba. Đồng thời tạo điều kiện cho các Toà án giải quyết các
án kiện về hôn nhân và gia đình được thuận lợi và thống nhất.
Đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành, cần tăng cường,
củng cố và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng
mà không đăng ký kết hôn làm cơ sở cho các cơ quan xét sử một cách thống nhất.
Đặc biệt cần khắc phục những hạn chế của quy định hiện hành và xây dựng chế tài để
kịp thời sử lý, nghiêm minh những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng
Đối với quan hệ nam nữ chung sống như vợ chồng thì hiện nay chưa có một
văn bản pháp luật nào quy định chế tài xử lý vi phạm đối với hành vi nam nữ chung
sống như vợ chồng. Mặc dù Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.
Song Nghị định này chỉ điều chỉnh nhóm hành vi trực tiếp xâm hại đến các quan hệ
hôn nhân và gia đình, còn hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật thì không
13


được điều chỉnh. Do đó, cần quy định những chế tài cho hành vi này trong Nghị định
87/2001/NĐ-CP hoặc xây dựng một văn bản pháp luật để điều chỉnh những quan hệ
này.
Đối với công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật: có thể nói sự chuyển biến
ý thức của nhân dân đối với việc tuân thủ pháp luật là yếu tố quan trọng quyết định
đến hiệu lực của văn bản pháp luật trên thực tế. Do đó cần tăng cường phổ biến pháp
luật, giúp nhân dân hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc đăng ký kết hôn
cũng như thủ tục phải thực hiện theo quy định của pháp luạt để nhà nước công nhận là
vợ chồng
Tạo điều kiện, khuyến khích đăng kí kết hôn cho những trường hợp vi phạm
nhưng còn hạn chế về mặt nhận thức.
KẾT LUẬN

Các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa, phong tục tập quán và sự du nhập của
nền văn hóa phương Tây đều có ảnh hưởng nhất định, chi phối đến việc nam, nữ
chung sống như vợ chồng. Việc chung sống đó sẽ còn tồn tại như một hiện tượng xã
hội khách quan không phụ thuộc vào ý chí của Nhà nước, do đó cần nhìn nhận đúng
đắn về vấn đề này để vừa bảo đảm quyền công dân vừa bảo đảm tính pháp chế. Vấn
đề là ở chỗ Nhà nước cần có quan điểm, phương hướng giải quyết rõ ràng cụ thể đối
với từng dạng sống chung khi có tranh chấp xảy ra, sao cho vừa đảm bảo được quyền
lợi chính đáng của các bên đương sự, vừa bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật,
không để bất cứ hiện tượng nào không phù hợp các chuẩn mực xã hội mà không được
pháp luật điều chỉnh.

14


DANH MỤC TÀI KIỆU THAM KHẢO
---------1. Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội – 2009.
2. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội – 2012
3. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959
4. Đề tài khoa học cấp trường: “Giải quyết vấn đề hôn nhân thực tế theo luật hôn
nhân và gia đình Việt nam năm 2000”_Thạc sĩ Nguyễn Văn Cừ, Tạp chí luật học
số 1- số 6 -2000
5. Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21 tháng 11 năm 2001 quy định về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực hon nhân và gia đình
6. Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000 quy định về việc thi
hành luật hôn nhân gia đình
7. Thông tư số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 3 tháng 1 năm 2001
quy định về hướng dẫn thi hành “Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9 tháng 6
năm 2000 quy định về việc thi hành luật hôn nhân gia đình”
8. Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Toà án

nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 1986
9. Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết về
đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày 9 tháng 6 năm 2000
quy định về việc thi hành luật hôn nhân gia đình

15



×