Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tìm hiểu quy định của pháp luật phá sản về các vấn đề sau đây 1 đối tượng áp dụng luật phá sản năm 2004 2 chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ t

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.75 KB, 19 trang )

ĐỀ BÀI
Tìm hiểu quy định của pháp luật phá sản về các vấn đề sau đây
1. Đối tượng áp dụng Luật Phá sản năm 2004.
2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
3. Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh nghiệp mắc nợ phải nộp
kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ý nghĩa của từng loại giấy tờ đó.
4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ.

1


T

hương trường như chiến trường, sự tồn tại phát triển cũng như suy yếu của
một doanh nghiệp hầu hết đều không tránh khỏi một vòng đời giống như
các thực thể sống và đó cũng chính là quy luật chung của tất cả các doanh
nghiệp: khởi nghiệp, tăng trưởng, phồn thịnh và suy thoái; nhất là trong cuộc chiến
tranh cam go và quyết liệt hơn bao giờ hết giữa các doanh nghiệp hiện nay. Vì lẽ
đó, phá sản trở thành một hiện tượng hết sức tự nhiên của nền kinh tế thị trường
hiện nay. Để giải quyết những vấn đề khi một doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng
suy thoái không thể thanh toán nợ và phá sản toàn bộ (hoặc cục bộ), pháp luật phá
sản doanh nghiệp đã ra đời nhằm điều chỉnh các vấn đề này. Để làm rõ hơn về vấn
đề này, trong bài tập nhóm tháng số 2, nhóm chúng em xin đi sâu vào tìm hiểu và
làm rõ các vấn đề chính về các quy định của pháp luật phá sản hiện nay:
I. KHÁI NIỆM “PHÁ SẢN”
1. Định nghĩa
Thuật ngữ phá sản dùng để chỉ các chủ thể bị lâm vào tình trạng hỗn loạn về
tài chính và không còn khả năng thanh toán các khoản nợ. Có nhiều mức độ phá
sản khác nhau, từ tình trạng mất khả năng thanh toán tạm thời cho đến những
trường hợp chấm dứt sự hoạt động của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể
kinh doanh.


2. Các tác động của phá sản
Xét tổng thể, các tác động của phá sản là tiêu cực dưới các mặt sau:
Thứ nhất, về mặt kinh tế: Một doanh nghiệp bị phá sản trong điều kiện ngày
nay có thể dẫn đến những tác động tiêu cực. Khi quy mô của doanh nghiệp phá sản
càng lớn, tham gia vào quá trình phân công lao động của ngành nghề đó càng sâu
và rộng, số lượng bạn hàng ngày càng đông, thì sự phá sản của nó có thể dẫn đến
sự phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp bạn hàng theo "hiệu ứng domino" - phá
sản dây chuyền.
Thứ hai, về mặt xã hội: Phá sản doanh nghiệp để lại những hậu quả tiêu cực
nhất định về mặt xã hội bởi nó làm tăng số lượng người thất nghiệp, làm cho sức
ép về việc làm ngày càng lớn và có thể làm nảy sinh các tệ nạn xã hội, thậm chí
các tội phạm.
Thứ ba, về mặt chính trị: Phá sản dây chuyền sẽ dẫn tới sự suy thoái và khủng
hoảng nền kinh tế quốc gia, thậm chí khủng hoảng kinh tế khu vực và đây là
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến những khủng hoảng sâu sắc về chính trị.
Như vậy, xét ở ba mặt trên, phá sản với tính cách là một hiện tượng xã hội tiêu
cực cần được hạn chế và ngăn chặn đến mức tối đa. Để hạn chế các tác động tiêu
cực, phá sản cần phải được coi là sự lựa chọn cuối cùng và duy nhất của chính phủ
đối với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Yêu cầu này cần phải được thể
hiện một cách nhất quán trong pháp luật phá sản qua các nội dung như: tiêu chí xác
định một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, vấn đề hồi phục doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản, thứ tự ưu tiên thanh toán các khoản nợ khi tuyên bố
phá sản…
2


3. Vai trò của pháp luật phá sản
Pháp luật phá sản là một tổng thể thống nhất các quy phạm pháp luật nhằm
hướng đến việc giải quyết đúng đắn yêu cầu tuyên bố phá sản, trong đó luật phá
sản 2004 đóng vai trò trung tâm vì nó quy định những vấn đề có tính nguyên tắc

của thủ tục giải quyết một vụ phá sản.
Sự ra đời của pháp luật phá sản doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của các bên có liên quan. Đối với chủ nợ, thủ tục phá sản cho phép chủ nợ có các
biện pháp kiểm soát được tình hình tài chính của doanh nghiệp nợ, hạn chế những
rủi ro và thiệt hại xảy ra, đảm bảo việc thu hồi nợ được thực hiện công bằng nhất.
Còn đối với các doanh nghiệp nợ, pháp luật phá sản còn bảo vệ và tạo ra những cơ
hội mới đối với các doanh nghiệp nợ. Bên cạnh đó, quyền lợi của người lao động
cũng được pháp luật hết sức ưu tiên bảo vệ khi doanh nghiệp tiến hành thủ tục phá
sản.
Bên cạnh đó, pháp luật phá sản doanh nghiệp còn bảo đảm được trật tự an
toàn, xã hội, tránh được tình trạng đe dọa cưỡng bức thi hành “luật rừng” để xiết
nợ doanh nghiệp của các chủ nợ.
Có thể nói, pháp luật về phá sản doanh nghiệp làm cho nền kinh tế nước ta
ngày càng lành mạnh hóa, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả
hơn.
II. TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN
1. Đối tượng áp dụng của Luật phá sản 2004
Điều 2 Luật Phá sản năm 2004 quy định về đối tượng áp dụng của luật phá sản
bao gồm:
“1. Luật này áp dụng đối với doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã
(hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gọi chung là hợp tác xã) được thành lập và hoạt
động theo quy định của pháp luật.
2. Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật này đối với
doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp
tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh
vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu”
Cụ thể, căn cứ theo khoản 1 thì Luật phá sản được áp dụng đối với các loại
hình doanh nghiệp, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được thành lập theo quy định
của pháp luật.
Thứ nhất, đối với loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp được hiểu là tổ

chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh
doanh (khoản 1 điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005). Tuy nhiên, không phải tất cả các
loại hình doanh nghiệp đều là đối tượng của Luật phá sản 2004 mà chỉ những loại
hình doanh nghiệp được quy định cụ thể tại Điểm 1.1 chương I Nghị quyết số 03/
3


2005/ NQ – HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá sản, bao gồm:
- Công ty nhà nước;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
- Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên;
- Công ty cổ phần;
- Công ty hợp danh;
- Doanh nghiệp tư nhân;
- Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài;
Như vậy, Luật phá sản chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp thành lập và hoạt
động theo luật pháp Việt Nam chứ không áp dụng đối với doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Thứ hai, loại hình hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã:
Hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã đều là đối tượng áp dụng của Luật phá sản
căn cứ theo điều 2 luật phá sản 2004 và Điểm 1.1 chương I Nghị quyết số 03/
2005/ NQ – HĐTP ngày 28/4/2005. Vậy, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã được
hiểu thế nào? Theo quy định tại điều 3 Luật Hợp tác xã 2003 thì hợp tác xã là tổ
chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là
xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy
định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác
xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và

nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Còn theo quy định tại khoản 1 điều 44 thì Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức
kinh tế hoạt động theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, nhằm mục
đích nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã thành viên, hỗ trợ
nhau trong hoạt động và đáp ứng các nhu cầu khác của các thành viên tham gia.
Tuy nhiên, đến Luật hợp tác xã 2012, định nghĩa về hợp tác xã và liên hiệp hợp
tác xã được quy định chung trong điều 3 và có những sự thay đổi đáng kể, cụ thể
là:
“1. Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân,
do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của
thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong
quản lý hợp tác xã.
2. Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách
pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn
4


nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp
tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ
trong quản lý liên hiệp hợp tác xã”.
Ngoài ra, đối với trường hợp doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc
phòng, an ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân
hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực tiếp cung ứng sản
phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu lâm vào tình trạng phá sản thì Chính phủ có quy
định riêng về việc áp dụng này. Bởi vì đây những lĩnh vực đặc thù, có ảnh hưởng
sâu rộng đến nền kinh tế xã hội, cũng như có vị trí và vai trò rất quan trọng đối với
an ninh, quốc phòng của quốc gia, nhưng những chủ thể đó vẫn là những chủ thể
kinh doanh hoạt động trên thị trường và bình đẳng với các chủ thể kinh doanh khác
nên những chủ thể này vẫn thuộc sự điều chỉnh của luật phá sản. Danh mục và việc

áp dụng luật này đối với các doanh nghiệp đặc biệt này được quy định cụ thể trong
Nghị định số 67/2006/NĐ-CP quy định về hướng dẫn việc áp dụng luật phá sản đối
với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài sản.
2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Trong quá trình thực hiện quyền tự do kinh doanh, các chủ thể có quyền tực
chủ để đem lại nguồn lợi cho mình miễn là hành vi của chủ thể đó phù hợp với quy
định của pháp luật. Mặc dù hiện tượng kinh doanh thua lỗ dẫn đến phá sản có thể
gây ra hậu quả xấu tới nền kinh tế - xã hội, nhưng Nhà nước chỉ can thiệp khi có
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Tuy nhiên, xuất phát từ lợi ích của các bên trong
quan hệ phá sản doanh nghiệp, Nhà nước quy định chỉ những chủ thể nhất định
mới có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Theo quy định của Luật phá sản
2004 thì các đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bao gồm:
- Chủ nợ không có đảm bảo hoặc đảm bảo một phần (Điều 13)
- Người lao động (Điều 14).
- Chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước (Điều 16).
- Các cổ đông công ty cổ phần (Điều 17).
- Thành viên hợp danh công ty hợp danh (Điều 18).
Như vậy, so với Luật phá sản 1993, LPS 2004 đã quy định mở rộng thêm 3 đối
tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là: Chủ sở hữu doanh nghiệp
Nhà nước; Các cổ đông công ty cổ phần; Thành viên hợp danh công ty hợp danh.
Mục đích của việc mở rộng này là nhằm tạo thêm các kênh mới để thúc đẩy việc
làm đơn yêu cầu giải quyết phá sản, góp phần chấm dứt tình trạng có doanh nghiệp
thực chất đã không thể hoạt động trên thực tế nhưng vẫn tồn tại về mặt pháp lý.
a. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ

5


Chế định phá sản được đặt ra trước hết là nhằm bảo vệ các quyền về tài sản
của chủ nợ. Do vậy đối tượng đầu tiên được pháp luật quy định có quyền nộp đơn

yêu cầu mở thủ tục phá sản là chủ nợ.
Chủ nợ bao gồm 3 loại là:
+ Chủ nợ có đảm bảo là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản của
doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
+ Chủ nợ có bảo đảm một phần là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài sản bảo đảm
ít hơn khoản nợ đó.
+ Chủ nợ không có bảo đảm là chủ nợ có khoản nợ không được bảo đảm bằng
tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba.
Tuy nhiên, luật phá sản năm 2004 chỉ quy định cho chủ nợ có bảo đảm một
phần hoặc chủ nợ không có bảo đảm có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà không quy định
chủ nợ có bảo đảm có quyền đó. Có quy định này vì với chủ nợ có đảm bảo thì lợi
ích của họ đã được đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố của doanh nghiệp hay
của người thứ ba, vì vậy trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố
phá sản thì lợi ích của họ vẫn không bị ảnh hưởng. Quy định này sẽ giúp đảm bảo
lợi ích cho những chủ nợ không có đảm bảo và chủ nợ có đảm bảo một phần tránh
rơi vào thế bị động, trắng tay, không đòi được nợ.
b. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động trong doanh
nghiệp, hợp tác xã
Trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản
nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản thì người lao động cử người đại diện hoặc thông qua đại diện công
đoàn nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã đó.
Quy định này đã thể hiện sự quan tâm của Đáng và Nhà nước đối với quyền và lợi
ích chính đáng người lao động. Bởi lẽ, cuộc sống họ và gia đình họ sẽ gặp khó
khăn vô cùng khi bị ảnh hưởng trực tiếp từ việc họ không được nhận lương. Quyền
này sẽ giúp họ có cơ hội được trả đủ số lương, đảm bảo cuộc sống gia đình khi
nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã mình đang làm việc định “BÙNG” lương khi
có nguy cơ phá sản.

c. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của đại diện chủ sở hữu của
doanh nghiệp nhà nước
Khi nhận thấy doanh nghiệp nhà nước lâm vào tình trạng phá sản mà doanh
nghiệp không thực hiện nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản thì đại diện
chủ sở hữu của doanhg nhiệp có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối
với doanh nghiệp đó. Bởi, đây là những người chịu trách nhiệm quản lí hoạt động
của các doanh nghiệp Nhà nước, nhận thấy doanh nghiệp không còn khả năng hoạt
động dẫn tới rình trạng phá sản thì họ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp đó để có thể tránh những tổn thất lớn hơn sau này do
6


hoạt động kém hiệu quả của những doanh nghiệp này gây ra. Đây cùng còn có thể
coi là nghĩa vụ, trách nhiệm của các đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp Nhà nước
trong nhiệm vụ của chính họ.
Đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam bao gồm Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và Hội đồng quản trị công ty nhà nước. Khi
các Tổng công ty do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập không tự làm đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Thủ tướng với tư cách là đại diện chủ sở hữu nhà
nước đối với doanh nghiệp được quyền làm đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá
sản. Tương tự như vậy, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính Phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh và Hội đồng quản trị công ty nhà
nước thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với các doanh
nghiệp do mình quyết định thành lập
d. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các cổ đông công ty cổ
phần
Khi nhận thấy công ty cổ phần lâm vào tình trạng phá sản thì cổ đông hoặc
nhóm cổ đông có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của
điều lệ công ty; nếu điều lệ công ty không quy định thì việc nộp đơn được thực

hiện theo nghị quyết của đại hội cổ đông. Trường hợp điều lệ công ty không quy
định mà không tiến hành được đại hội cổ đông thì cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu trên 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty cổ phần đó.
e. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thành viên hợp danh
Khi nhận thấy công ty hợp danh lâm vào tình trạng phá sản thì thành viên hợp
danh có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với công ty hợp danh đó.
Việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của thành viên hợp danh không phụ
thuộc vào việc đại diện hợp pháp của công ty hợp danh có thực hiện nghĩa vụ nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hay không. Vì công ty hợp danh là công ty mà các
thành viên hợp danh của công ty phải chịu trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ tài
sản của công ty nên việc quy định các thành viên hợp danh của công ty cũng được
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là hợp lí.
Ngoài những đối tượng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản như
trên, trong khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ, nếu nhận thấy doanh nghiệp, hợp
tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan thanh tra, cơ
quan quản lý vốn, tổ chức kiểm toán hoặc cơ quan quyết định thành lập doanh
nghiệp mà không phải là chủ sở hữu nhà nước của doangh nghiệp có nhiệm vụ
thông báo bằng văn bản cho những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản biết để họ xem xét việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.

7


3. Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh nghiệp mắc nợ
phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và ý nghĩa của từng loại
giấy tờ đó
Để tránh tình trạng lạm dụng quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh
nghiệp có thể gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong kinh doanh, Tòa

án chỉ thụ lý đơn khi có đủ các điều kiện luật định.
a) Các giấy tờ mà chủ nợ phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Theo Điều 21 Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 buộc tất cả các chủ nợ
phải gửi giấy đòi nợ doanh nghiệp đến Tòa án. Vì điều khoản này không phân biệt
các loại chủ nợ, cho nên phải hiểu là chủ nợ có bảo đảm cũng phải gửi giấy đòi nợ
đến Tòa. Chủ nợ không có đảm bảo và chủ nợ có đảm bảo một phần khi nộp đơn
phải ghi rõ:
+ Tên và địa chỉ chủ nợ.
+ Tổng số nợ doanh nghiệp phải trả, kể cả số nợ đến hạn và chưa đến hạn,
những số tiền phải bồi thường theo hợp đồng (nếu có) và số tiền lãi đã đến hạn mà
chưa thanh toán.
+ Nợ và số tiền lãi đến hạn mà doanh nghiệp chưa trả.
+ Nợ chưa đến hạn: Chỉ số vốn còn nợ chứ không cần ghi số lãi.
+ Số nợ có bảo đảm, và phương thức bảo đảm (bảo lãnh, cầm cố hay thế chấp).
+ Số nợ không có bảo đảm.
+ Nguyên nhân tài liệu và chứng cứ chứng minh về số nợ đó.(Điều 7 Luật phá
sản)
Và khi chủ nợ khi gửi đơn đến Toà án yêu cầu giải quyết việc tuyên bố phá sản
doanh nghiệp theo quy định Điều 7 của Luật Phá sản doanh nghiệp 1993, phải gửi
kèm theo các tài liệu sau đây để chứng minh các khoản nợ:
1- Bản sao giấy đòi nợ đến hạn;
2- Các tài liệu liên quan đến việc giải quyết tranh chấp các khoản nợ;
3- Các tài liệu chứng minh tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ
đến hạn mà doanh nghiệp không thanh toán được, cụ thể là:
a) Đối với các khoản nợ đi vay là các văn bản nhận nợ và các giấy tờ chứng
minh số nợ đã đến hạn nhưng chưa được trả cho chủ nợ;
b) Đối với các khoản nợ phát sinh trong hoạt động kinh doanh là các hợp
đồng trao đổi, mua bàn hàng hoá, hợp đồng dịch vụ kèm theo hoá đơn bán hàng,
cung ứng dịch vụ và các giấy tờ chứng minh số nợ trên đã đến hạn trả nhưng chưa
được thanh toán;

8


c) Đối với các khoản nợ cho thuê tài sản là các hợp đồng cho thuê, biên bản
bàn giao tài sản và các giấy tờ chứng minh số tiền liên quan đến việc thuê tài sản
đã đến hạn trả mà doanh nghiệp chưa trả;
d) Đối với các khoản nợ thuế, nợ ngân sách khác là giấy báo nộp thuế và các
chứng từ mà theo đó doanh nghiệp có nghĩa vụ phải nộp ngân sách Nhà nước;
đ) Đối với các khoản nợ tiền lương, trợ cấp thôi việc, tiền bảo hiểm xã hội và
các lợi ích khác của người lao động là hợp đồng lao đông, thoả ước lao động,
bảng chấm công, bản nghiệm thu sản phẩm, dịch vụ, bản thanh toán tiền lương
hoặc tiền công, các chứng từ chi bảo hiểm xã hội và các chứng từ có liên quan đến
các lợi ích khác của người lao động;
e) Đối với các khoản nợ khác là bản đối chiếu nợ giữa chủ nợ và doanh
nghiệp mắc nợ.
4- Các tài liệu khác nếu thấy cần thiết”.
Có thể thấy, việc quy định chủ nợ khi gửi đơn yêu cầu tuyên bố phá sản thì các
chủ nợ phải cung cấp cho Tòa án các giấy tờ, tài liệu để chứng minh rằng doanh
nghiệp đã mất khả năng thanh toán nợ đến hạn đã thực sự gây khó khăn cho các
chủ nợ trong việc nộp đơn vì họ chỉ có thể biết được rằng mình đã gửi giấy đòi nợ
đến hạn nhưng không được doanh nghiệp mắc nợ trả, không thể có đủ chứng cứ để
chứng minh rằng doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn vì thực tế bản thân chủ nợ không tham gia quá trình lao động, cũng
không trực tiếp tham gia quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp, hợp tác xã đó
nên không thể nào nắm bắt được tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác xã
đó được.
Chính vì vậy, Luật phá sản 2004 không quy định chủ nợ phải nộp thêm các
giấy tờ nào khác kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản nhằm đơn giản hóa các
điều kiện mà họ phải đáp ứng khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ nợ thực hiện quyền của mình. Đơn yêu cầu mở thủ tục

phá sản phải có các nội dung chính sau đây:
“a) Ngày, tháng, năm làm đơn;
b) Tên, địa chỉ của người làm đơn;
c) Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;
d) Các khoản nợ không có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần đến hạn mà
không được doanh nghiệp, hợp tác xã thanh toán;
đ) Quá trình đòi nợ;
e) Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản”
Chủ nợ chỉ có trách nhiệm phải gửi giấy đòi nợ cho Tòa án trong thời hạn 60
ngày (trừ trường họp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan khác)
kế từ ngày cuối cùng đăng báo về quyết định mở thủ tục phá sản ( Điều 51 LPS
9


2004). Giấy đòi nợ phải nêu rõ khoản nợ, số nợ đến hạn và chưa đến hạn, số nợ có
đảm bảo và không có đảm bảo mà doanh nghiệp, hợp tác xã phải trả, kèm theo các
tài liệu chứng minh về các khoản nợ đó. Chủ nợ không gửi giấy đòi nợ đến Tòa án
thì bị coi là từ bỏ quyền đòi nợ.
b) Các giấy tờ mà đại diên người lao động phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản
Luật phá sản 2004 có sự tiến bộ khi cho phép người lao động mà cụ thể là đại
diện người lao động hoặc công đoàn được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản trong trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã không trả được lương, các khoản
nợ khác cho người lao động và nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng phá sản là không cần điều kiện “không trả được lương cho người lao động
trong 3 tháng liên tiếp” như quy định về Luật phá sản doanh nghiệp.
Đơn phải được gửi cho Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và
phải có nội dung chủ yếu sau đây:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn;
+ Tên, địa chỉ của người làm đơn;

+ Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản;
+ Số tháng nợ tiền lương, tổng số tiền lương và các khoản nợ khác mà doanh
nghiệp, hợp tác xã không trả được cho người lao động;
+ Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản (Điều 14 Luật phá sản).
Ngoài đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, LPS 2004 không có quy định về các
giấy tờ kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà người lao động phải nộp.
Việc không quy định nộp kèm theo các giấy tờ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, theo ý kiến của nhóm là đúng đắn vì lý do cơ bản sau: có thế nói, người lao
động là tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp, hợp tác xã đồng thời lại là đội ngũ
lực lượng đông đảo nhất. Do đó khi quyền lợi của họ bị ảnh hưởng, cụ thể họ
không được trả lương thì sẽ khiến đội ngũ nhân công lâm vào tình trạng khó khăn,
khó khăn về tài chính, chất lượng công việc không được đảm bảo vì họ đi làm với
mục đích mun sinh mà đi làm bị doanh nghiệp, hợp tác xã nợ lương lâu không trả
thì không chỉ ảnh hưởng đến bản thân họ mà còn ảnh hưởng đến cả cuộc sống của
những thân trong gia đình của họ đặc biệt đối với những gia đình còn khó khăn,
đồi sống gia đình chưa cao, cả gia đình nương tựa chủ yếu vào đồng tiền lương của
người lao động chính trong gia đình. Mà nếu người lao động bị nợ tiền lương
không được công ty, doanh nghiệp trả mà lại còn phải làm nhiều giấy tờ thủ tục
rườm rà thì liệu bản chất sự quan tâm của Nhà nước đối với người lao động có
thực sự trở thành hiện thực hay không? Chính vì lí do đó nên cần có sự đơn giản,
nhanh gọn trong việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của người lao động đối
với doanh nghiệp, hợp tác xã mình đang làm việc.
c) Các giấy tờ mà doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản phải
nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
10


Theo luật phá sản, khi nhận thấy doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng
phá sản thì chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã
có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã

đó. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải được gửi cho tòa án có thẩm quyền theo
quy định của pháp luật và nội dung chính phải bao gồm:
+ Ngày, tháng, năm làm đơn;
+ Tên, địa chỉ của doanh nghiệp, hợp tác xã;
+ Căn cứ của việc yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Kèm theo đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải có các giấy tờ tài liệu sau đây:
+ Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã, trong
đó giải trình nguyên nhân và hoàn cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng
thanh toán; nếu doanh nghiệp là công ti cổ phần mà pháp luật yêu cầu phải được
kiểm toán thì báo cáo tài chính phải được tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận;
Để chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì phải thông qua
bản báo cáo kết quả kinh doanh, hay còn gọi là bảng báo cáo lỗ lãi. Bản báo cáo
này sẽ chỉ ra sự cân bằng giữa thu nhập (doanh thu) và chi phí trong từng kỳ kế
toán, nó phản ánh tống hợp tình hình hoạt động và kêt quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh. Bản báo cáo còn được sử dụng như một sự điều chỉnh cho những kế
hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai. Qua báo cáo có thể đánh giá
doanh nghiệp làm ăn phát đạt hay đang rơi vào tình trạng khó khăn. Vì vậy, việc
quy định phải nộp kèm theo Đơn đề nghị mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp
mắc nợ là rất cần thiết. Nó chứng minh cho cơ quan có thẩm quyền về tình trạng
không trả được nợ của doanh nghiệp thông qua việc giải trình nguyên nhân, hoàn
cảnh liên quan đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Đây là dấu hiệu đầu tiên
cần được làm rõ khi nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vì chỉ khi chứng minh
được rằng doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng này thì khi đó mới đủ điều kiện
để cơ quan có thẩm quyền xem xét có nên hay không giải quyết cho doanh nghiệp
được phá sản.
+ Báo cáo về các biện pháp mà doanh nghiệp, hợp tác xã đã thực hiện nhưng
vẫn không khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến
hạn;
Báo cáo về các biện pháp khắc phục của doanh nghiệp nhằm góp phần đảm
bảo việc phá sản không do ý kiến chủ quan, không mong muốn của doanh nghiệp,

mặc dù đã có các biện pháp song việc phá sản của doanh nghiệp là không thể tránh
khỏi, và buộc phải mở thủ tục phá sản. Ngoài ra việc nộp các báo cáo về các biện
pháp khắc phục doanh nghiệp chứng tỏ doanh nghiệp không còn khả năng phục
hồi, và nếu tiếp tục hoạt động, doanh nghiệp không thế có lợi, nếu hoạt động tiếp
không thể thanh toán nợ cũ và có thê phát sinh thêm khoản nợ mới vì thế cần chấm
dút hoạt động của doanh nghiệp.
+ Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã và địa điểm nơi có tài
sản nhìn thấy được;
11


Việc xác định phạm vi của khối tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản có ý nghĩa quan trọng vì không chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ nợ
mà còn là cơ sở đế Tòa án quyết định phương hướng giải quyết một vụ việc phá
sản cụ thể.
Việc kiểm kê tài sản nhằm đánh giá đúng trục trạng, số lượng, cơ cấu, giá trị
tài sản của doanh nghiệp tại thời điếm hiện tại, qua đó cho thấy rằng doanh nghiệp
không còn khả năng thanh toán nợ .
Việc kê khai chi tiết tài sản của doanh nghiệp nhằm đảm bảo tránh trường họp
doanh nghiệp tẩu tán tài sản hoặc định giá giá trị tài sản sai không đúng giá trị thực
tế gây thiệt hại đến lợi ích của các chủ nợ ví dụ như nếu doanh nghiệp không nộp
bản kê khai chi tiết tài sản hiện có của doanh nghiệp thì sẽ dẫn đến tình trạng
doanh nghiệp tự ý bán, chuyến đổi cố phần hoặc chuyến đối quyền sở hữu tài sản
của doanh nghiệp mà đáng lẽ ra khoản tài sản đó phải được ưu tiên thanh toán cho
chủ nợ của doanh nghiệp khi đến hạn trả nợ.
+ Danh sách các chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ tên, địa
chỉ của các chủ nợ; ngân hàng mà chủ nợ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có
bảo đảm và không có bảo đảm; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không
có bảo đảm;
+ Danh sách những người mắc nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã trong đó ghi rõ

họ tên, địa chỉ của họ; ngân hàng mà họ có tài khoản; các khoản nợ đến hạn có
đảm bảo và không có đảm bảo; các khoản nợ chưa đến hạn có bảo đảm và không
có bảo đảm;
Danh sách này góp phần cho Tòa án nắm rõ được những chủ nợ mà doanh
nghiệp đang mắc nợ và những người mắc nợ doanh nghiệp để thông qua đó giúp
cho Tố thanh quản lý, thanh lý tài sản do Tòa án lập ra lập nên danh sách chủ nợ và
danh sách người mắc nợ để niêm yết công khai tại trị sở Tòa án và trụ sở của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Thông qua danh sách chủ nợ mà doanh
nghiệp phải nộp mà Thầm phán có thể triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ để quyết
định các vấn đề liên quan đến chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ.
Ngoài ra, danh sách chủ nợ, người mắc nợ còn đảm bảo tránh xảy ra tranh
chấp trong quá trình xử lí tài sản, để biết được chủ nợ nào được ưu tiên thanh toán
trước, chủ nợ nào thanh toán sau có tác dụng thống kê nắm bắt đầy đủ đế tòa án
giải quyết.
+ Danh sách ghi rõ họ tên, địa chỉ của các thành viên nếu doanh nghiệp mắc nợ
là một công ti có các thành viên liên đới chịu trách nhiệm về những khoản nợ của
doanh nghiệp;
Danh sách các thành viên liên đới chịu trách nhiệm có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong quá trình yêu cầu mở thủ tục phá sản của doanh nghiệp. Nó Thể hiện
trách nhiệm liên đới của các thành viên trong công ty, xử lý các khoản nợ của
doanh nghiệp phá sản. Qua đó cho biết quyền và nghĩa vụ các thành viên trong
công ty: Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
12


trong phạm vi số vốn đã cam kết góp. Theo quy định tại Điều 94 luật Phá sản năm
2004 thì những người giữ các chức vụ Giám đốc, Tống giám đốc, Chủ tịch và các
thành viên Hội đồng quản trị công ty, tổng công ty 100% vốn nhà nước bị tuyên bố
phá sản không được cử đảm đương các chức vụ đó ở bất kỳ doanh nghiệp nhà
nước nào, kể từ ngày công ty, tổng công ty nhà nước bị tuyên bố phá sản. Người

được giao đại diện phần vốn góp của nhà nước ở doanh nghiệp khác mà doanh
nghiệp đó bị tuyên bố phá sản không được cử đảm đương các chức vụ quản lý ở
bất kỳ doanh nghiệp nào có vốn của nhà nước. Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành
viên hợp danh công ty hợp danh của công ty hợp danh, Giám đôc (Tổng giám đốc),
Chủ tịch và thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên của doanh nghiệp
không được quyền thành lập doanh nghiệp, không được làm người quản lý doanh
nghiệp trong thời gian từ một đến ba năm kể từ ngày doanh nghiệp bị tuyên bố phá
sản.
+ Những tài liệu khác mà Tòa án yêu cầu doanh nghiệp, hợp tác xã phải cung
cấp theo quy định của pháp luật (Điều 15 Luật phá sản).
+ Bảng kê chi tiết tài sản của doanh nghiệp và địa điểm nơi có tài sản nhìn thấy
được;
Nghĩa vụ nộp đơn trong thời hạn 3 tháng, kể từ ngày nhận thấy doanh nghiệp,
hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản vẫn là giới hạn có tính chất “co giãn”. Người
nộp đơn phải nộp tiền tạm ứng lệ phí theo quy định của pháp luật.
4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ
a. Nguyên tắc thanh toán các khoản nợ
Các khoản nợ dù có sự sắp xếp theo thứ tự ưu tiên thanh toán khác nhau nhưng
việc thanh toán luôn được thực hiện theo nguyên tắc:
- Nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ đều được
thanh toán đủ số nợ của mình. (điều 36 luật phá sản 2004).
- Nếu tài sản của doanh nghiệp phá sản không đủ để thanh toán cho các khoản
nợ thì trong cùng một loại đối tượng thực hiện việc chi trả theo tỉ lệ tương ứng với
giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, hợp tác xã.(điều 36 luật phá sản 2004).
- Các khoản nợ chưa đến hạn vào thời điểm thanh lí được xử lí như các khoản
nợ đến hạn, nhưng không được tính lãi đối với thời gian chưa đến hạn. (điều 34
luật phá sản năm 2004)
Những nguyên tắc này được đưa ra nhằm đảm bảo công bằng cho các chủ nợ.
Bởi khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản thì hơn bất cứ đối
tượng nào, chủ nợ là những người bị ảnh hưởng nhiều nhất đến quyền lợi. Để

quyền lợi của họ có thể được đảm bảo và cũng là đảm bảo công bằng giữa các chủ
nợ với nhau thì pháp luật đã quy định rõ ràng về nguyên tắc phân chia các khoản
nợ, các chủ nợ đều được thanh toán đủ nợ khi giá trị tài sản của doanh nghiệp đủ
để thanh toán và được thanh toán theo tỉ lệ tương ứng với giá trị tài sản còn lại của
doanh nghiệp, hợp tác xã nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán nợ.
13


Bên cạnh đó, pháp luật cũng tính đến quyền lợi của các chủ nợ chưa đến hạn.
Vì vậy mà quy định khoản nợ chưa đến hạn được xử lí như khoản nợ đến hạn.
Nhưng cũng nhằm đảm bảo công bằng giữa các chủ nợ và cũng là phù hợp với quy
định của pháp luật nên các khoản nợ không được tính lãi đối với thời gian chưa
đến hạn.
b. Trình tự thanh toán các khoản nợ của chủ nợ
Việc thanh toán các khoản nợ của chủ nợ được tiến hành theo trình tự như sau:
Thứ nhất là thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản của doanh nghiệp.
Song song với việc với việc ra quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán gửi
văn bản đề nghị cử người tham gia Tổ quản lý, thanh lý tài sản tới cơ quan, tổ
chức, cá nhân liên quan quy định tại Điều 15 Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 11/7/2006. Việc thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản phải tuân theo quy
định của pháp luật về thành phần (Điều 15, NĐ 67/2006/NĐ-CP), trình tự thành
lập (điều 16), trường hợp có thay đổi về thành phần của Tổ ( điều 17), trường hợp
giải thể (điều 18), thành lập lại (điều 19), đặc biệt là phải tuân thủ Nguyên tắc và
chế độ làm việc của Tổ quản lý, thanh lý tài sản (điều 20) cũng như nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm của Tổ trưởng (điều 21).
Thứ hai là việc định giá tài sản của doanh nghiệp.
Trước tiên là Tổ quản lý, thanh lý tài sản và doanh nghiệp, hợp tác xã cùng
nhau thỏa thuận về giá tài sản được kiểm kê. Nếu không thỏa thuận được thì Tổ
trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản có trách nhiệm thuê tổ chức có chức năng định
giá hoặc thành lập Hội đồng định giá tài sản thực hiện công việc này. Việc thuê tổ

chức khác định giá hoặc thành lập Hội đồng định giá phải tuân thủ điều kiện được
quy định tại điều 22 Nghị định 67/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 11/7/2006.
Sau đó, Tổ quản lý, thanh lý tài sản lập bảng kê toàn bộ tài sản hiện có của
doanh nghiệp, hợp tác xã, kể cả các khoản tiền mặt, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy
tờ có giá và các quyền về tài sản.
Cùng với đó là việc Tổ quản lý, thanh lý tài sản giám sát, kiểm tra doanh
nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục phá sản và có thể đề nghị quyết định áp dụng các
biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết như quy định tại Điều 25
Nghị định 67/2006/NĐ-CP. Để tránh việc doanh nghiệp, hợp tác xã bị mở thủ tục
phá sản có các hoạt động như: Ký kết và thực hiện hợp đồng mới; Sử dụng, bảo
quản và chuyển dịch tài sản ngoài hợp đồng; Thanh toán các khoản nợ phát sinh
sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản nhằm tẩu tán tài sản.
Thứ ba là lập danh sách chủ nợ và danh sách những người mắc nợ. Việc lập
danh sách này phải tuân theo quy định của pháp luật tại Điều 26 Nghị định
67/2006/NĐ-CP.
Thứ tư là bán đấu giá tài sản và phân chia tài sản của doanh nghiệp, hợp
tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý tài sản.
14


Các công việc này sẽ được thực hiện theo hướng dẫn tại điều 27 đến 30, Nghị
định 67/2006/NĐ-CP.
Tuy nhiên có một số lưu ý khi phân chia tài sản như sau (việc phân chia này
cũng căn cứ trên nguyên tắc thanh toán các khoản nợ, theo quy định của pháp
luật):
Theo quy định tại Khoản 1, Điều 29 Nghị định 67/2006/NĐ-CP và các điều
35,36,37 Luật phá sản 2004 thì có thể suy ra trình tự thanh toán các khoản nợ như
sau:
Đầu tiên là ưu tiên thanh toán cho các khoản nợ được bảo đảm bằng tài sản thế
chấp hoặc cầm cố được xác lập trước khi Toà án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá

sản được ưu tiên thanh toán bằng tài sản đó và phải hoàn trả lại tài sản cho Nhà
nước (theo hướng dẫn tại mục III.1 của Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)
Tiếp đó mới phân chia tài sản theo thứ tự quy định tại Điều 37 LPS theo trình
tự là:
a) Phí phá sản. Ví dụ như: chi phí bảo quản tài sản, lưu kho bãi tài sản,.. (phải
có hóa đơn, chứng từ hợp pháp)
b) Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của
pháp luật và các quyền lợi khác theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao
động đã ký kết. Việc đưa việc thanh toán các khoản nợ cho người lao động lên
trước việc thanh toán cho các chủ nợ không có bảo đảm thể hiện chính sách của
Nhà nước ta đối với người lao động. Đặc biệt các khoản nợ đối với người lao động
còn được quy định rõ tại Nghị định 94/2005/NĐ-CP
c) Các khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho các chủ nợ trong danh sách
chủ nợ theo nguyên tắc nếu giá trị tài sản đủ để thanh toán các khoản nợ thì mỗi
chủ nợ đều được thanh toán đủ số nợ của mình; nếu giá trị tài sản không đủ để
thanh toán các khoản nợ thì mỗi chủ nợ chỉ được thanh toán một phần khoản nợ
của mình theo tỷ lệ tương ứng.
III. HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. Những hạn chế
Luật Phá sản năm 2004 ra đời thay thế Luật Phá sản năm 1993 đã góp phần
hoàn thiện hành lang pháp lý trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ nợ, doanh nghiệp mắc nợ và những người có liên quan; xác định trách nhiệm
của doanh nghiệp mắc nợ khi giải quyết việc phá sản; góp phần thúc đẩy doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả và đảm bảo trật tự kỷ cương xã hội. Tuy nhiên, sau
một thời gian áp dụng Luật PS, đã nảy sinh một số bất cập.
a. Về tiêu chí xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

15



Điều 3 Luật phá sản đã quy định: “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả
năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm
vào tình trạng phá sản”.
Trên thực tế quy định này là phù hợp nhưng nó vẫn chỉ là định tính, không
phản ánh đúng thực trạng tài chính thực tế của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng
phá sản. Đồng thời chưa có tiêu chí cụ thể để hướng dẫn doanh nghiệp thế nào
được coi là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn nên dẫn đến
việc một số doanh nghiệp khi căn cứ vào Điều luật này đã “Lạm dụng” quyền nộp
đơn nhằm gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, uy tín, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp khác.
b. Về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Thứ nhất, thành phần chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
còn bị hạn chế. Cụ thể, theo điều 13 Luật phá sản thì chủ nợ có bảo đảm không
được quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Quy định này là không hợp lý vì
thủ tục phá sản là một phương thức đòi nợ đặc biệt, việc không cho chủ nợ có bảo
đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đã làm mất đi quyền lựa chọn phương
thức đòi nợ hữu hiệu này của các chủ nợ có bảo đảm.
Luật phá sản năm 2004 cũng không quy định cho một số chủ thể này có quyền
nộp đơn như Tòa án, Viện công tố, Thanh tra chuyên nghành... khi thực hiện chức
năng nhiệm vụ có liên quan doanh nghiệp, HTX mà nhận thấy doanh nghiệp, HTX
đó đang lâm vào tình trạng phá sản thì có quyền mở thủ tục hoặc yêu cầu Tòa án
mở thủ tục phá sản doanh nghiệp, HTX. Chính những quy định này làm giảm áp
lực từ phía các cơ quan nhà nước lên doanh nghiệp, dẫn đến tình trạng nhiều doanh
nghiệp thua lỗ kéo dài nhưng vẫn ung dung tồn tại nếu chủ doanh nghiệp hoặc chủ
nợ không nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản,
Thứ hai, về quyền nộp đơn của chủ nợ và người lao động trong doanh nghiệp.
Hiện nay các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không phải là con đường
hấp dẫn trừ khi không còn con đường nào khác. Để đảm bảo quyền lợi của mình
thay vì việc sử dụng con đường nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản con nợ thì các

chủ nợ thường đi tìm các giải pháp khác khôn ngoan hơn và có lợi hơn qua việc
thu xếp kín đáo các khoản nợ. Đối với ngân hàng thương mại nhà nước thì việc xử
lý các khoản nợ xấu, khó đòi của các doanh nghiệp nhà nước bằng các hình thức
xóa nợ, giảm nợ, khoanh nợ, giãn nợ vẫn còn được sử dụng thay vì nộp đơn xin
phá sản doanh nghiệp.
Đối với người lao động, Luật phá sản 2004 quy định người lao động không
được tự nộp đơn mà phải cử người đại diện hoặc thong qua đại diện công đoàn để
nộp đơn. Thủ tục cử người đại diện cho người lao động được quy định trong luật
phá sản rất phức tạp và khó thực thi. Chính vì vậy Luật phá sản hiện hành đã hạn
chế và gần như vô hiệu hóa quyền nộp đơn của người lo động trong doanh nghiệp.

16


2) Hướng hoàn thiện
Thứ nhất, mở rộng đối tượng áp dụng của Luật phá sản. Đối tượng áp dụng
của Luật phá sản cần được mở rộng hơn nữa theo hướng mọi tổ chức, các nhân có
hoạt động sản xuất kinh doanh và có đăng ký kinh doanh không phân biệt loại hình
tổ chức, quy mô kinh doanh và ngành nghề kinh doanh nếu lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ đến hạn thì đều có thể bị đưa ra Tòa để giải quyết theo thủ
tục phá sản vì:
- Các chủ thể kinh doanh trong đó có cá nhân, hộ gia đình…cần bình đẳng với
các chủ thể kinh doanh khác trong việc sử dụng các cơ chế do pháp luật quy định
trong đó có cơ chế phá sản.
- Nhiều hộ gia đình có quy mô kinh doanh lớn làm ăn với cả doanh nhân nước
ngoài nên Luật phá sản cũng cần sửa đổi choc ho phù hợp với Luật phá sản của thế
giới nhất là khi trở thành thành viên của WTO.
Thứ hai, cần có cơ chế bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ. Đối với các chủ nợ
cũng cần bảo đảm cho họ quyền đòi nợ đúng pháp luật tránh tình trạng như thời
gian gần đây, tình trạng bắt xiết nợ gây mất trật tự an toàn công cộng vẫn luôn

diễn ra. Một số chủ nợ lo tài sản bị "bốc hơi", đã nhờ côn đồ đòi nợ theo kiểu “xã
hội đen” khi mang hung khí, súng đến tận nhà để uy hiếp các con nợ. Ở Hà Tĩnh,
mới đây cũng đã xuất hiện kiểu đòi nợ thuê này, gióng lên hồi chuông cảnh báo về
tình hình ANTT trên địa bàn.
Thứ ba, cho phép chủ nợ có bảo đảm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Bổ
sung quy định về quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của một số chủ thể
đặc biệt.Cần tăng cường vai trò của chủ nợ có bảo đảm để thủ tục phá sản có hiệu
quả hơn vì đối với doanh nghiệp mắc nợ thì chủ nợ chủ yếu vẫn là chủ nợ có bảo
đảm. Quyền lợi cuả chủ nợ có bảo đảm cần được đặc biệt quan tâm trong thủ tục
phá sản nếu không sẽ rất nguy hại đến hệ thống tín dụng bảo đảm. Do đó ưu thế
của tín dụng có bảo đảm- đó là sự an toàn sẽ bị mất đi.
III. KẾT LUẬN
Nếu như lợi nhuận với các doanh nghiệp giống như “củ cà rốt” thì pháp luật
phá sản doanh nghiệp chính là “chiếc gậy” để răn đe các doanh nhân. Trong nền
kinh tế thị trường phát triển như vũ bão hiện nay, các doanh nghiệp chỉ cần lơ là
quản lý và kinh doanh sẽ dễ dàng dẫn đến bờ vực phá sản, vì vậy pháp luật phá sản
doanh nghiệp chính là công cụ để răn đe các doanh nghiệp buộc các doanh nghiệp
luôn phải vươn lên tự hoàn thiện mình để tồn tại và phát triển trong sự phát triển
chung của nền kinh tế thị trường nước ta.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại (tập 1), Nxb
CAND, Hà Nội, 2006
2. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật doanh nghiệp), Nxb
ĐHQG, Hà Nội, 2006
3. Luật phá sản 1993
4. Luật phá sản 2004

5. Luật hợp tác xã 2003
6. Luật hợp tác xã 2012
7. Nghị quyết số 03/ 2005/ NQ – HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội đồng thẩm
phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật phá
sản
8. Nghị định số 67/2006/NĐ-CP quy định về hướng dẫn việc áp dụng luật phá
sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý, thanh lý tài
sản
9. Nghị định số 114/2008/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
luật phá sản đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm
chứng khoán tài chính khác
10. Lại Anh Tuấn, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đặc điểm - tình hình
thực hiện và những kiến nghị hoàn thiện / Lại Anh Tuấn, Trường đại học Luật Hà
Nội, 1997

18


MỤC LỤC
ĐỀ BÀI.............................................................................................1
I. KHÁI NIỆM “PHÁ SẢN”..................................................................2
1. Định nghĩa...............................................................................2
2. Các tác động của phá sản.......................................................2
3. Vai trò của pháp luật phá sản..................................................3
II. TÌM HIỂU MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT PHÁ SẢN.............3
1. Đối tượng áp dụng của Luật phá sản 2004.............................3
2. Chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.........5
3. Các giấy tờ mà Chủ nợ, đại diện người lao động, doanh
nghiệp mắc nợ phải nộp kèm theo Đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản và ý nghĩa của từng loại giấy tờ đó.......................................8

4. Nguyên tắc và trình tự thanh toán các khoản nợ của các chủ
nợ..............................................................................................13
III. HẠN CHẾ VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN..........................................15
1. Những hạn chế......................................................................15
2) Hướng hoàn thiện..................................................................17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................18
MỤC LỤC.......................................................................................19

19



×