Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

bài học kỳ dân sự 1 hoàn thiện pháp luật về người không được quyền hưởng di sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.7 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

Trang
Trang.............................................................................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU.................................................................................................................................................2
CHƯƠNG I.................................................................................................................................................3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI.....................................................................3
KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN...................................................................................................3
CHƯƠNG III.............................................................................................................................................13
HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC...........................................................................13
QUYỀN HƯỞNG DI SẢN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN...............................................................13
1. Hạn chế của pháp luật về người không được quyền hưởng di sản.............................................13
2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người không được quyền hưởng di sản......................17

1


LỜI MỞ ĐẦU
Chế định về quyền thừa kế là một trong những chế định quan trọng của bộ
luật dân sự Việt Nam 2005 nói riêng và luật dân sự Việt Nam nói chung. Đặc
biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi tài sản của người dân tăng lên đáng kể về cả số
lượng và chất lượng và cùng với nhu cầu để lại tài sản của thế hệ trước để lại cho
thế hệ sau, thừa kế ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Những vấn đề tranh chấp về
thừa kế xảy ra ngày càng nhiều, đòi hỏi sự phát triển sâu và rộng của chế định về
quyền thừa kế. Đặc biệt, để giải quyết các vấn đề tranh chấp về thừa kế, cần xác
định được đâu là đối tượng có quyền hưởng thừa kế, đâu là đối tượng không
được quyền hưởng thừa kế.
Bên cạnh những qui định của pháp luật cho phép công dân có quyền được
hưởng di sản từ người để lại di sản thì Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy
định về người không được quyền hưởng di sản. Đi sâu vào phân tích nội dung
của điều luật còn rất nhiều vấn đề cần bàn luận, chính vì vậy em chọn đề tài


“Hoàn thiện pháp luật về người không được quyền hưởng di sản” với mong
muốn đóng góp một phần nào đó trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Bộ luật
Dân sự nói chung và chế định về thừa kế nói riêng trong đó có nội dung về người
thừa kế không có quyền hưởng di sản.

2


CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI
KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
1. Người thừa kế
1.1. Khái niệm chung
Pháp luật thừa kế Việt Nam chưa đưa ra khái niệm cụ thể về người thừa
kế. Tuy nhiên, dựa trên cơ sở Điều 631 BLDS năm 2005, một số tác giả đã đưa
ra quan điểm về người thừa kế như sau: “Người thừa kế là người được nhận di
sản thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc hoặc vừa hưởng di sản theo di chúc,
vừa hưởng di sản theo pháp luật”, “Sau khi mở thừa kế, quyền và nghĩa vụ của
người để lại thừa kế sẽ được chuyển cho những người khác theo di chúc hoặc
theo quy định của pháp luật. Người được hưởng các quyền phải gánh chịu các
nghĩa vụ đó gọi là người thừa kế.” Như vậy, có thể hiểu người thừa kế là người
được hưởng các quyền và phải gánh chịu những nghĩa vụ về tài sản từ một người
đã chết theo ý chí mà người đó thể hiện trong di chúc hoặc theo quy định của
pháp luật.
Người thừa kế theo di chúc là người được chỉ định trong di chúc nên có
thể là bất kì cá nhân hoặc pháp nhân, tổ chức nào và trong trường hợp đặc biệt
thì Nhà nước cũng có thể là người thừa kế theo di chúc. Còn người thừa kế theo
pháp luật, hiện nay, chỉ có thể là cá nhân và là người thừa kế theo hàng thừa kế,
nghĩa là phải có một trong ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi
dưỡng với người để lại di sản.

1.2. Điều kiện trở thành người thừa kế
3


1.2.1 Đối vời người thừa kế là cá nhân
Điều 635 BLDS 2005 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người
còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.” Như vậy, pháp
luật không quy định điều kiện về năng lực chủ thể của người thừa kế, chỉ cần cá
nhân đó còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời
điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
Một người còn sống vào thời điểm mở thừa kế nhưng đến thời điểm phân
chia di sản lại chết (hoặc đã bị tuyên bố chết) thì người đó vẫn được hưởng di
sản, phần di sản được hưởng đó được coi là di sản và lại được chia cho những
người thừa kế của họ. Bên cạnh đó, có trường hợp người thừa kế khôgn có mặt
khi mở thừa kế (do mất tích, biệt tích nhưng chưa bị tuyên bố chết thì vẫn được
suy đoán là còn sống), nếu họ trở về trước thời điểm di sản được phân chia thì
cũng vẫn được coi là còn sống vào thời điểm mở thừa kế.
Nếu một người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế thì phải
thành thai trước khi người để lại di sản chết mới được quyền hưởng di sản.
Theo quy định tại Điều 23 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của
Chính phủ về việc đăng ký và quản lý hộ tịch thì: “Trẻ em sinh ra sống được từ
24 giờ trở lên rồi mới chết cũng phải đăng kí khai sinh và đăng kí khai tử”, như
vậy có thể gián tiếp hiểu rằng một đứa trẻ sinh ra sống được từ 24 giờ trở lên thì
được coi là sinh ra và còn sống, và nếu sinh ra và còn sống sau thời điểm mở
thừa kế thì sẽ được hưởng di sản. Còn việc quy định cá nhân đó phải thành thai
trước khi người để lại di sản chết chủ yếu là để xác định mối quan hệ huyết
thống giữa người thừa kế theo pháp luật với người để lại di sản. Điều 63 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Con sinh ra trong thời kì hôn nhân
hoặc do người vợ có thai trong thời kì đó là con chung của vợ chồng”, và theo

phương pháp suy đoán, trong vòng 300 ngày kể từ thời điểm mở thừa kế, nếu
4


đứa trẻ được sinh ra thì mặc nhiên sẽ được coi là thành thành thai trước thời
điểm mở thừa kế, là người thừa kế của người để lại di sản.
1.2.2. Đối với người thừa kế là cơ quan, tổ chức
Để một cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc thì cơ quan, tổ
chức đó phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. Tức là vào thời điểm người để lại
di sản chết, cơ quan, tổ chức đã được thành lập và chưa chấm dứt hoạt động.
Tuy nhiên, nếu một pháp nhân, tổ chức được chỉ định trong di chúc còn tồn tại
vào thời điểm mở thừa kế nhưng không còn tồn tại vào thời điểm phân chia di
sản (do việc hợp nhất, sáp nhập, chia, tách) thì quyền và nghĩa vụ của pháp nhân,
tổ chức đó được chuyển giao cho pháp nhân mới (Điều 94, 95, 96, 97 BLDS
2005), do đó phần di sản mà pháp nhân, tổ chức này được hưởng sẽ thuộc về
pháp nhân mới. Nhưng đối với trường hợp tổ chức bị giải thể hoặc phá sản, năng
lực chủ thể của pháp nhân, tổ chức đó đã chấm dứt, các thành viên cũng không
có tư cách chủ thể, di sản sẽ được chia theo pháp luật (áp dụng tương tự với
trường hợp di chúc không có giá trị pháp luật).
2. Người không được quyền hưởng di sản
Trong quan hệ thừa kế, những người thuộc diện và hàng thừa kế của người
chết hoặc những người được chỉ định trong di chúc thông thường sẽ là những
người được hưởng di sản thừa kế. Tuy nhiên, nếu người thừa kế không xứng
đáng được hưởng thì sẽ không được quyền hưởng di sản. Theo đó, khoản 1 Điều
643 BLDS 2005 quy định phạm vi người không được quyền hưởng di sản là
những người bị pháp luật tước quyền thừa kế do đã có hành vi trái pháp luật,
xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm… của người để lại di
sản và những người thừa kế khác, có những hành vi không xứng đáng với bổn
phận của mình. Đây là những người đã bị kết án về một trong các hành vi quy
5



định tại điểm a, c Khoản 1 Điều 643 (hành vi cố ý xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe người để lại di sản; hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại
di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó; hành vi cố ý
xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn
bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng), hoặc đã thực hiện một
trong các hành vi quy định tại điểm b, d Khoản 1 Điều 643, cho dù không bị kết
án về những hành vi này (hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng
người để lại di sản; hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản). Theo
quy định của pháp luật thì những người này sẽ không được quyền hưởng di sản,
tuy nhiên nhằm tôn trọng ý chí của người để lại di sản nên pháp luật quy định
những người nói trên vẫn được hưởng di sản “nếu người để lại di sản đã biết
hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.
CHƯƠNG II
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI
KHÔNG ĐƯỢC QUYỀN HƯỞNG DI SẢN
Theo Khoản 1 Điều 643, những người sau đây không được quyền hưởng
di sản:
1. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về
hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm
trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản (điểm a khoản 1 Điều 643
BLDS).
Hành vi “xâm phạm tính mạng, sức khỏe” được hiểu rằng là hành vi cố ý
giết người để lại di sản, cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
6



người để lại di sản một cách trái pháp luật. Hành vi tước đoạt tính mạng là hành
vi có khả năng gây ra cái chết cho người để lại di sản, chấm dứt sự sống của
người đó. Những người này bị tòa án kết án về tội giết người theo Điều 93
BLHS, tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 BLHS. Trường hợp này, lỗi của
người phạm tội là lỗi cố ý, nhằm mục đích tước đoạt sự sống hoặc sức khỏe của
người để lại di sản. Động cơ của người phạm tội và việc thực hiện tội phạm đã
hoàn thành hay chưa hoàn thành không ảnh hưởng đến nội dung của quy định
trên.
Người có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản đã
bị kết án về một trong số các hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế di sản của
người đã bị ngược đãi hành hạ sau khi người đó chết. Hành vi ngược đãi là hành
vi đối xử tàn nhẫn, tồi tệ với người thân của mình trái với đạo đức luân lý, ở đây
được thể hiện bằng những hành động như chửi mắng, nhục mạ, bỏ mặc, bỏ đói,
mặc rách làm cho người để lại di sản đau đớn về mặt thể xác cũng như tinh thần,
khiến danh dự bị xúc phạm, giày vò. Người phạm tội có thể là những người có
quan hệ lệ thuộc với người bị hành hạ. Những người bị hành hạ ngược đãi
thường là người bị lệ thuộc về vật chất hoặc họ không thể tự chăm lo cho bản
thân nên cần có người khác giúp đỡ trong những sinh hoạt hàng ngày. Hành vi
đối xử tàn ác có tính chất hành hạ gây đau đớn về thể xác hoặc tinh thần.
Một người có hành vi làm nhục danh dự của người để lại di sản thì không
có quyền nhận di sản thừa kế của người đó để lại.
Điều đáng chú ý trong quy định này là căn cứ pháp lý để tước quyền
hưởng di sản của những người thừa kế theo pháp luật khi họ có những hành vi kể
trên là một bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật. Ở đây, cần phải hiểu rằng, dù
người thừa kế có những hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hay có
những hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản nhưng chưa bị kết án thì họ
vẫn được hưởng di sản.
7



2 Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản
sản (điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS)
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người để lại di sản với người thừa kế
theo pháp luật khi người để lại di sản còn sống. Phổ biến nhất là các quan hệ
nuôi dưỡng nhau giữa cha mẹ với các con, các con đã trưởng thành với cha mẹ
già yếu không có khả năng lao động hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có
năng lực hành vi dân sự không đầy đủ. Quan hệ nuôi dưỡng nhau giữa ông bà
với các cháu, giữa các cháu với ông bà, giữa anh chị em ruột đối với nhau. Nghĩa
vụ nuôi dưỡng chăm sóc giữa những người thân trong gia đình đã được quy định
trong luật HN&GĐ năm 1959, luật HN&GĐ năm 1986 và hiện nay là Luật
HN&GĐ năm 2000.
Người thừa kế theo pháp luật bị coi là có hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi
dưỡng là người được Luật Hôn nhân và gia đình xác định có nghĩa vụ nuôi
dưỡng người để lại di sản nhưng họ không thực hiện nghĩa vụ đó. Chính vì vậy,
chúng ta cần xem xét các quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để
xác định chính xác trách nhiệm của người thừa kế theo pháp luật.
Thứ nhất, người để lại thừa kế là cha, mẹ của họ. Luật Hôn nhân và gia
đình 2000 đã quy định: “Con có nghĩa vụ và có quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha
mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có
nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”. Theo quy
định này thì bổn phận của con là phải chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi
trường hợp, bất luận tình trạng kinh tế, sức khỏe của cha mẹ như thế nào.
Thứ hai, người để lại thừa kế là con của họ. Nếu như nghĩa vụ của con là
phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp, hoàn cảnh thì cha mẹ
chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con khi con chưa thành niên hoặc con đã
8


thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao
động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân. Cha mẹ luôn là người thừa kế

theo pháp luật đối với di sản do con để lại nhưng cha mẹ sẽ không được hưởng
thừa kế theo luật đối với di sản của con nếu cha mẹ không thực hiện việc nuôi
dưỡng con khi người con đó nằm trong tình trạng nói trên.
Thứ ba, người để lại thừa kế là anh, chị hoặc em của họ. Theo quy định
của pháp luật thì anh, chị, em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp
không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc giáo dục con. Như vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em đối với
người để lại thừa kế khi người này nằm trong trình trạng trên, đồng thời họ là
người chưa thành niên hoặc là người bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực
hành vi.
Thứ tư, người để lại thừa kế là ông, bà của họ. Theo khoản 2 Điều 47 Luật
Hôn nhân và gia đình đã xác định cháu có nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà. Vì vậy,
nếu người có quyền hưởng di sản là cháu mà không thực hiện nghĩa vụ này sẽ
không được quyền hưởng di sản mà ông bà để lại.
Thứ năm, người để lại thừa kế là cháu của họ. Ông bà nội, ngoại có nghĩa
vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháy chưa thành niên hoặc đã thành niên
nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và
không có tài sản để tự nuôi dưỡng mình, đồng thời cũng không có cha mẹ, anh,
chị, em có thể nuôi dưỡng được. Vì thế, nếu người để lại thừa kế là cháy nằm
trong tình trạng trên mà ông, bà là người hưởng thừa kế nhưng không thực hiện
nghĩa vụ nuôi dưỡng thì họ sẽ không được quyền hưởng di sản. Mặt khác, nếu
người cháu có đủ năng lực hành vi để lập di chúc và trong di chúc đó, ông bà
được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng sau đó người cháu lại lâm vào tình trạng
còn được nuôi dưỡng và ông bà là người có nghĩa vụ đó nhưng lại không thực

9


hiện nghĩa vụ thì ông bà cũng không được quyền hưởng di sản theo di chúc của
người cháu.

Thứ sáu, người để lại thừa kế là vợ hoặc chồng của họ. Vợ chồng có nghĩa
vụ nuôi dưỡng nhau khi một bên không có khả năng lao động và còn cấp dưỡng
cho nhau kể cả khi đã ly hôn mà bên kia yêu cầu được Tòa án thừa nhận. Trong
trường hợp vợ (hoặc chồng) đau ốm, tàn tật không thể lao động để tự nuôi mình
mà chết thì chồng (hoặc vợ) sẽ không được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật
nếu họ đã không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại thừa kế. Còn trong
trường hợp vợ chồng đã được Tòa án cho ly hôn bằng một bản án đã có hiệu lực
pháp luật mà một bên chết thì họ không còn là người thừa kế theo pháp luật của
nhau nữa.
Các trường hợp trên xác định những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau.
Nếu những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng
của mình với người để lại di sản khi người đó còn sống khiến người đó lâm vào
tình trạng khó khăn về kinh tế, khổ sở về tinh thần và bị ảnh hưởng đển sức khỏe
thì những người đó không xứng đáng được hưởng di sản của những người mà
mình có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng.
3. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm mục hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó
có quyền hưởng (điểm c khoản 1 Điều 643 BLDS).
Trường hợp này người thừa kế bị kết án về tội có ý giết người thừa kế
khác. Người thừa kế khác có thể hiểu là người thừa kế cùng hàng hoặc người
thừa kế ở hàng trên để chiếm đoạt phần tài sản lẽ ra người này được hưởng. Việc
giết người ở hàng thừa kế dưới thì không thể khiến cho người có âm mưu giết
người nhận được di sản thừa kế, vì theo nguyên tắc chỉ khi những người ở hàng
thừa kế trên không còn ai thì người ở hàng thừa kế dưới mới được hưởng di sản
thừa kế. Theo như quy định của điều luật thì nếu hành vi giết người không phải
10


vì động cơ để chiếm một phần hoặc toàn bộ di sản của người chết thì không bị
tước quyền hưởng di sản.

4. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản
trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản (điểm
d khoản 1 Điều 643 BLDS).
Hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc
lập di chúc: Đây là trường hợp người thừa kế đã thực hiện một số hành vi cho
người lập di chúc tin và lầm tưởng vào sự việc nào đó vì vậy đã lập di chúc để lại
di sản cho người này. Ví dụ như hành vi bịa đặt rằng những người thừa kế khác
đã có những hành động, lời nói xúc phạm danh dự và có âm mưa giết người lập
di chúc, khiến người lập di chúc tức giận và quyết định không chia di sản cho
những người đó nữa. Trường hợp này người lập di chúc hoàn toàn tưởng tượng
sai sự việc và tin tưởng tuyệt đối vào hành vi của người thừa kế. Xét về ý thức
chủ quan, người lập di chúc đã thể hiện ý chí của mình là định đoạt tài sản cho
một người nào đó nhưng bị lừa dối nên đã hủy di chúc này lập di chúc khác và
để lại di sản cho người lừa dối mình được hưởng phần di sản đã được định đoạt
trước đây. Ý chí này phải được thể hiện dưới một hình thức nhất định và có cơ sở
pháp lý để chứng minh cho ý chí đó. Trong thực tế, sự việc người thừa kế lừa
người lập di chúc được làm rõ khi người lập di chúc còn sống sẽ dễ dàng hơn,
khi người lập di chúc đã chết thì việc xác định có hành vi lừa dối, cưỡng ép,
ngăn cản hay không trở nên rất khó khăn phức tạp.
Hành vi giả mạo di chúc là hành vi của người đã lập một di chúc theo ý
chí của mình nhằm thay thế di chúc của người để lại di sản hoặc để cho những
người khác tưởng lầm rằng người chết có để lại di chúc. Hành vi giả mạo có thể
được thể hiện như tự viết di chúc và tự ký theo chữ ký của người lập di chúc.
Những người có hành vi giả mạo di chúc này là người có hành vi lập một di chúc
11


theo ý chí của mình nhằm mạo danh người để lại di sản hoặc thay thế di chúc của
người để lại di sản nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của

người để lại di sản. Trong thực tế việc giả mạo di chúc rất khó xác định, vì chữ
ký của nhiều người rất đơn giản.
Hành vi sửa chữa di chúc mà người để lại di sản đã lập là hành vi của một
người trong việc thay đổi một phần hoặc toàn bộ nội dung của di chúc mà người
để lại di sản đã lập, trái với ý chí của người đó khi còn sống. Người thừa kế xóa
một hoặc nhiều từ trong di chúc mà những từ này ảnh hưởng đến quyền lợi của
những người thừa kế hoặc người thừa kế viết thêm vào di chúc số người được
hưởng, số tài sản được hưởng. Hay nói cách khác, người thừa kế đã tẩy xóa, sửa
chữa nội dung di chúc.
Hành vi hủy di chúc là hành vi của người đã làm tiêu hủy di chúc của
người để lại di sản và di chúc bị hủy bỏ đó không còn tồn tại dưới hình thức
khách quan nữa. Người thừa kế có thể hủy di chú bằng nhiểu hình thức khác
nhau như xé bỏ, đốt di chúc. Người có hành vi hủy di chúc là người thừa kế theo
pháp luật của người lập di chúc nhưng trong di chúc đó họ không có tên trong số
những người được hưởng di sản theo di chúc. Vì vậy, họ hủy di chúc nhằm để
việc thừa kế được giải quyết theo pháp luật và họ sẽ được hưởng kỷ phần theo
luật định. Hoặc cũng có những trường hợp người thừa kế theo di chúc thực hiện
hành vi hủy di chúc của người để lại di sản khi trong trường hợp họ đồng thời là
người thừa kế theo pháp luật của người đó và nhận thất rằng nếu hưởng thừa kế
theo di chúc thì họ sẽ được phần di sản nhỏ hơn so với phần di sản họ sẽ được
hưởng theo pháp luật.
Tuy nhiên, việc xác định tước quyền hưởng di sản của người thừa kế trong
các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 cũng cần được cân
nhắc, tôn trọng sự tự do ý chí của người để lại di sản. Vì vậy, khoản 2 Điều 643
đã quy định: “Những người quy định tại Khoản 1 điều này vẫn được hưởng di
12


sản nếu người để lại di sản đã biét hành vi của những người đó, nhưng vẫn cho
họ hưởng di sản theo di chúc”.

CHƯƠNG III
HẠN CHẾ CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC
QUYỀN HƯỞNG DI SẢN VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN

1. Hạn chế của pháp luật về người không được quyền hưởng di sản
Việc áp dụng Điều 643 để tước quyền hưởng di sản của người thừa kế còn
khá nhiều vướng mắc như sau:
Thứ nhất, tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS quy định người thừa kế theo
pháp luật nếu vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản thì
không có quyền hưởng di sản. Vậy những người thừa kế nào có nghĩa vụ nuôi
dưỡng nhau? Nếu xét theo quy định của BLDS về hàng thừa kế thì quy định trên
có thể dẫn đến cách hiểu là những người thân ở các hàng thừa kế đều phải có
nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản trước lúc mất. Ví dụ: cháu có nghĩa vụ
nuôi dưỡng bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột trong mọi trường hợp.
Trong khi pháp luật HNGĐ không quy định nghĩa vụ là phải nuôi dưỡng với
trường hợp cháu với bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, gì ruột. Vậy nếu trường
hợp cháu không nuôi dưỡng cô, gì, chú, bác ruột có được quyền hưởng di sản
của người mất không? Điều này pháp luật chưa có quy định cụ thể.
Thứ hai, cũng tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS có quy định về người
thừa kế theo pháp luật phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản, chỉ khi
nào họ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng thì mới tước quyền thừa kế.
Nhưng trong thực tế hiện nay, có những người con bất hiếu không chăm sóc,
nuôi dưỡng cha mẹ, ông bà của mình và để cho những đồng thừa kế khác thực
hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng họ. Đến khi biết cha mẹ hoặc ông bà sắp qua đời và có
13


để lại di sản thì lại cố gắng tìm mọi cách để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng với
những người này. Trong trường hợp này, theo quy định của pháp luật, người thừa
kế theo pháp luật vẫn thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản nên họ

không bị tước quyền thừa kế. Theo quan điểm của cá nhân, trường hợp này
người thừa kế theo pháp luật đã có những hành vi trái đạo đức xã hội, mặc dù có
chăm sóc người để lại di sản nhưng việc chăm sóc, nuôi dưỡng này chỉ được
thực hiện khi người để lại di sản gần qua đời và với mục đích để hưởng di sản
của họ chứ không phải xuất phát từ lương tâm con người. Do vậy, các nhà làm
luật cần phải tính đến tình huống này trong thực tế để pháp luật trở thành một
công cụ hữu hiệu bảo vệ cho các giá trị văn hóa tinh thần, truyền thống lâu đời
của nhân dân ta.
Thứ ba, tại điểm a và b khoản 1 Điều 643 BLDS đều quy định chỉ những
người thừa kế theo pháp luật có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản,
xâm phạm danh dự, nhân phẩm hay vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di
sản được thực hiện ở mức nghiêm trọng thì mới bị tước quyền hưởng di sản. Tuy
nhiên, ở một mức độ nào thì các hành vi nói trên bị coi là nghiêm trọng? Hiện
nay, điều này chưa được các nhà làm luật quy định cũng như giải thích một cách
cụ thể, chi tiết trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Do vậy, khi giải
quyết các tranh chấp về thừa kế đã gây những khó khăn không nhỏ cho Tòa án
dẫn đến áp dụng không thống nhất ở nhiều địa phương.
Thứ tư, đối với những người thừa kế theo pháp luật thì tại điểm d khoản 1
Điều 643 BLDS chỉ quy định bị tước quyền hưởng di sản khi có những hành vi
lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả
mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Vậy với những người thuộc hàng
thừa kế theo pháp luật biết mình không có tên trong di chúc nên đã có hành vi
giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế thì pháp luật lại
14


không quy định họ bị tước quyền hưởng thừa kế. Trường hợp này cũng thường
xuyên xảy ra trong thực tế hiện nay nhưng pháp luật không quy định nên dẫn đến
có nhiều cách hiểu, cách giải quyết khác nhau.

Thứ năm, ngoài các hành vi đã được quy định trong khoản 1 Điều 643
BLDS, trên thực tế đã tồn tại những hành vi nguy hiểm khác của người thừa kế
theo pháp luật như hành vi che giấu tội giết người để lại di sản khi người thừa kế
biết rõ ràng là người thừa kế khác giết người để lại di sản những không tố giác
hành vi đó mà còn thực hiện hành vi che giấu tội phạm, hay hành vi xúi giục
người thừa kế lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản; xúi giục người
thừa kế giả mạo, sửa chữa, hủy di chúc; hành vi giấu di chúc hoặc tài sản thuộc
di chúc… trong khi xét về bản chất, truyền thống đạo đức xã hội thì những người
trên đều phải bị tước quyền thừa kế.
Các tranh chấp về thừa kế xảy ra rất đa dạng, trong đó những tranh chấp
liên quan đến người không được quyền hưởng di sản xảy ra ngày càng nhiều.
Tuy những quy định tại điều 643 BLDS là hoàn toàn phù hợp với đạo lý, phong
tục, tập quán của nhân dân ta nhưng trong điều luật trên còn có những nội dung
chưa rõ ràng có thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết tranh chấp về thừa kế không
phù hợp. Thường gặp nhất là một bên xuất trình di chúc, bên kia khai đó là di
chúc giả mạo hoặc đã bị sửa chữa. Qua giám định, Tòa án bác di chúc mà một
bên xuất trình và chia di sản theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu không chứng mình
được bên xuất trình di chúc đã làm giả hay sửa chữa di chúc thì không thể tước
quyền thừa kế của họ.
Chẳng hạn trong vụ án tranh chấp quyền thừa kế quyền sử dụng đất và nhà
ở tại Trần Cao Vân - TP Đà Nẵng.
Năm 1955, Vợ chồng Ông Võ Văn Khôi bà Bùi Thị Út, sống tại Cầu Đỏ,
huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng. Có hai con là bà Võ Thị Xuân và bà Võ Thị

15


Hương. Năm 1970, ông Khôi sống chung với bà Nguyễn Thị Liễu và có 2 người
con gồm: Nguyễn Thị Thu, Võ Ngọc Thanh.
Ngôi nhà số 189 (số mới) 79 (số cũ) Trần Cao Vân - Đà Nẵng hiện ông

Khôi đang quản lý do bà Út mua vào năm 1968 (lúc này ông Khôi đang sống với
bà). Năm 1989, UBND TP Đà Nẵng công nhận quyền sở hữu ngôi nhà trên đứng
tên bà Bùi Thị Út. Năm 1978 bà Liễu chết, ông Khôi đưa các con về sống chung
lại với bà Út tại ngôi nhà số 189 (số mới) 79 (số cũ) Trần Cao Vân - Đà Nẵng.
Bà Út và các con riêng của chồng sống với nhau rất tốt Năm 1990, bà Bùi Thị Út
chết. Tháng 9-2006, bà Võ Thị Xuân yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo di chúc
của bà Bùi Thị Út để lại ngày 22-5-1984, bản di chúc trên được đánh máy và có
chữ kí của bà Út. Bản di chúc này được phường trưởng kiêm hộ tịch (chế độ cũ
xác nhận và đóng dấu). Trong bản di chúc bà Út để lại di sản thừa kế cho 4 người
con gái và 2 cháu trai. Bị đơn và những người có quyền và lợi ích liên quan lại
cho rằng bản di chúc do bà Xuân xuất trình là di chúc giả mạo và từ trước cho
đến thời điểm xảy ra tranh chấp họ đều không thấy bà Xuân có nhắc đến bản di
chúc này. Yêu cầu của bị đơn và những người có quyền và nghĩa vụ liên quan là
chia di sản thừa kế theo pháp luật. Để xác minh bản di chúc mà bà Xuân xuất
trình có đúng là di chúc của bà Út hay không, Toà án quận Thanh Khê thành phố
Đà Nẵng đã có công văn đề nghị Phòng khoa học hình sự Công an thành phố Đà
Nẵng giám định bản di chúc trên là thật hay giả. Tổ chức giám định Công an
Thành phố Đà Nẵng đã xác định chữ kí và con dấu của người xác nhận di chúc là
giả. Bản án số 62/DSST của Tòa án nhân huyện Thanh Khê đã xử và quyết định
tước quyền thừa kế theo luật của bà Xuân vì hành
vi làm giả chữ kí và con dấu của người xác nhận di chúc. Bà Xuân không đồng ý
với quyết định trên nên đã kháng cáo. Tại bản án phúc thẩm số 01/DSPT ngày 510-2001 Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định giữ y án sơ thẩm số
62 ngày 20-6-2000 của Tòa án quận Thanh Khê.
16


Liên quan đến việc tước quyền hưởng di sản của bà Xuân, có nhiều ý kiến
tranh luận về vấn đề này. Tác giả Liên Hương với bài viết đăng trên tạp chí Tòa
án nhân dân số 4 (tháng 2/2004), tác giả cho rằng cả án sơ thẩm và phúc thẩm đã
nêu trên đều căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự để giải quyết

đối với vụ kiện trên. Tòa án truất quyền hưởng di sản của bà Xuân thì phải chứng
minh được ba vấn đề sau:
Thứ nhất: Nếu cho rằng bản di chúc mà bà Xuân xuất trình là di chúc giả
mạo thì phải chứng minh được là bản di chúc đó không phải do người để lại di
sản lập ra, cần phải xác định chữ kí của bà Út tại bản di chúc là giả thì mới có thể
khẳng định di chúc đó là di chúc thật hay giả. Cho nên nếu chỉ căn cứ vào kết
quả giám định chữ kí con dấu của người xác nhận di chúc là giả mà khẳng định
di chúc giả là không có căn cứ pháp luật.
Thứ hai: Nếu đủ cơ sở xác định di chúc của bà Út là giả thì cần phải xác
định ai là người có hành vi giả mạo di chúc đó.
Thứ ba: Cần xác định được mục đích của người có hành vi giả mạo di
chúc nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại
di sản.
Có thể thấy Tòa án không chứng mình được ba căn cứ nói trên, nên việc
tước quyền hưởng di sản của bà Xuân là không đúng pháp luật.

2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về người không được quyền
hưởng di sản
Thứ nhất, bổ sung phạm vi người không được quyền hưởng di sản, gồm:
Người bị kết án về hành vi không cứu giúp người để lại di sản trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng;

17


Người đã biết những hành vi xâm phạm tính mạng người để lại di sản,
người thừa kế khác mà không tố giác hoặc che giấu tội phạm;
Người có hành vi đe dọa người để lại di sản trong việc lập di chúc; người
có hành vi giấu di chúc, giấu một hoặc một số tài sản của người để lại di sản
nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản;

Người có hành vi xúi giục người thừa kế lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản, đe
dọa người để lại di sản trong việc lập di chúc; xúi giục người thừa kế giả mạo,
sửa chữa, hủy di chúc.
Thứ hai, trong điều 643 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định người không
được quyền hưởng di sản, bao gồm cả người thừa kế theo luật và cả người thừa
kế theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định
của pháp luật thì họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được lập di
chúc cho họ hưởng nhưng những người này lại có hành vi trái pháp luật, trái đạo
đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo luật cũng như theo di chúc.
Tuy nhiên tính trái pháp luật và đạo đức trong hành vi của người thừa kế phải
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc bằng một
quyết định. Mặt khác, một bản án chỉ được thi hành khi đã có hiệu lực pháp luật
bởi nó có thể bị sai sót và có thể bị một cấp xét xử khác sửa đổi hoặc hủy bỏ.
Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quy định : “Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội dù đã có
hiệu lực của tòa án”. Vì vậy, hành vi của người thừa kế dù đã bị kết án bằng một
bản án thì vẫn chưa thể kết luận người đó phạm tội. Bản án đó chỉ được coi là
căn cứ để tước quyền hưởng di sản của người có tên trong di chúc khi đã có hiệu
lực pháp luật. Do vậy, việc tranh chấp thừa kế trong những trường hợp này chỉ
được tiến hành giải quyết chừng nào bản án nói trên đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, cần phải có một văn bản pháp luật hướng dẫn để có sự thống nhất
giữa các tòa án, cũng như minh bạch trong việc đánh giá tính nghiêm trọng của
18


hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Khi pháp lệnh thừa kế năm 1990 ra đời thì
theo đó là Nghị quyết 02/NQ/HĐTP ngày 19 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (hiện không còn hiệu lực) hướng dẫn về việc
áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế trong đó có nêu: “Những người
có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy định tại các Điều 19, Điều 20 và Điều 27

của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, trong khoảng thời gian 3 năm trước
khi người để lại di sản chết nếu có khả năng thực hiện nuôi dưỡng mà không
thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc
nguy hiểm đến tính mạng thì không có quyền hưởng di sản của người
đó”. (02/1990/NQ – HĐTP – 2,b). Qua đó, có thể thấy Nghị quyết này là tương
đối phù hợp với thực tế nên cần tiếp thu tinh thần đó để ban hành một văn bản
hiện hành để Tòa án có cơ sở pháp lý áp dụng khi giải quyết thừa kế.
Thứ tư, theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp người không
được hưởng quyền thừa kế chết trước hoặc cùng thời điểm với người để lại di
sản thì sẽ không phát sinh thừa kế thế vị với con của người này. Bởi lẽ, vốn dĩ,
ngưới không được hưởng quyền thừa kế sẽ không được nhận bất cứ phần di sản
nào để có thế vị. Tuy nhiên, xét trên cả lý luận và thực tiễn thì: không có quyền
hưởng di sản là một chế tài áp dụng đối với riêng người có lỗi. Nên chăng cần
xem xét người được thế vị có hay không được hưởng thừa kế thế vị trong trường
hợp cha hoặc mẹ của họ là những người không được quyền hưởng di sản?

KẾT LUẬN
19


Trong chế định về thừa kế bên cạnh những qui định của pháp luật cho
phép công dân có quyền được hưởng di sản từ người để lại di sản và quyền để lại
tài sản của mình cho những người thừa kế, thì Điều 643 Bộ luật Dân sự năm
2005 về người không có quyền hưởng di sản là một chế tài áp dụng đối với
những hành vi xâm phạm quyền và lợi ích của người để lại di sản và của những
người thừa kế khác. Tuy là một vấn đề nhỏ trong rất nhiều nội dung quan trọng
của chế định thừa kế, nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của các chủ thể
khi xảy ra tranh chấp trong các vụ án. Mặt khác, mỗi vấn đề dù nhỏ nhưng nếu
được giải quyết triệt để cũng đem lại hiệu quả cao cho công tác xét xử góp phần
giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, hiệu quả và chính xác.

Những vấn đề mà bài viết đưa ra và phân tích là quan điểm của cá nhân và
chưa thể toàn diện nên mong thầy cô thông cảm. Em xin chân thành cảm ơn thầy
cô trong tổ bổ môn đã nhiệt tình giảng dạy cũng như tư vấn để giúp em hoàn
thành bài tập này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, tập 1, Nxb.
Công an nhân dân, 2006.
2. Bộ luật Dân sự 2005.
3. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
4. TS. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb. Hà Nội, 2008.
20


5. Nguyễn Như Quỳnh, Người không được quyền hưởng di sản theo quy định
của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học.
6. Hà Diệu Hẳng, Người không được quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định
của pháp luật, Luận văn thạc sĩ luật học.
7. TS. Nguyễn Ngọc Điện, Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt
Nam, Nxb. Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh
8. />
21



×